Shan Jiang on Behance
(2021) Đọc 4 cuốn sách về Công ty Nhật Bản 🕮 Tổng số sách đã đọc được: 172 quyển
1/ Công Ty Nhật Bản Rodney Clark
2/ Honda Soichiro - Biến Giấc Mơ Thành Sức Mạnh Đi Tới
3/ Nước Nhật mua cả thế giới (Le Japon achète le monde) Pierre – Antoine Donnet
4/ Made in Japan: Chế tạo tại Nhật Bản (Made in Japan) Morita Akio

“Tôi đến Tokyo ngay giữa lúc cuộc chiến tranh Triều Tiên đang sôi sục. Các phân xưởng của Nhật Bản đang chạy hết công suất để sản xuất vũ khí cho mặt trận Triều Tiên. Và kế đến là xảy ra chiến tranh Việt Nam. Những điều này người ta rất ít nói đến, nhưng chúng đã đóng một vai trò quyết định trong việc hồi phục kinh tế của Nhật Bản. Trước hết là Triều Tiên, rồi sau đó là Việt Nam: phải nói là cực kỳ quan trọng ! Sau nữa, hai dự án được hoàn tất đã vực dậy nước Nhật. Rồi đến đường tàu Shinkansen.
Nền tảng cho sự bành trướng kinh tế của Nhật Bản: đó là khả năng thích nghi với những tình huống mới. Từ 45 năm nay, đã bao lần gặp khủng hoảng hoặc căng thẳng thì cũng bấy nhiều lần xã hội Nhật Bản lại chứng tỏ một khả năng phi thường vượt qua chặng đường rủi ro bằng cách thích ứng với tình thế. Không những thế, mỗi lần thoát ra, Nhật Bản lại càng mạnh hơn qua thử thách, khi mà đa số các đối thủ cạnh tranh của nó chao đảo, vấp váp hoặc gục ngã.
Có một trò chơi chiến lược thể hiện tuyệt vời triết lý kinh tế mà Nhật Bản thi hành trên quy mô toàn cầu: đó là môn cờ “go”. Phức tạp và tinh tế hơn môn cờ vua nhiều, cờ “go” là một môn cờ gốc Trung Quốc, với một bàn cờ có 19 đường ngang và 19 đường dọc cắt nhau ở 361 điểm. Quân cờ bên đen, bên trắng. Quy tắc chơi căn bản rất đơn giản. Chỉ cần học không tới một giờ, ai cũng có thể chơi cờ “go”. Nhưng muốn chơi hay thì phải luyện nhiều năm, đôi khi cả đời người. Để thắng, phải chiếm được càng nhiều lãnh thổ càng tốt, nhiều hơn là địch thủ. Trong khi đánh, một lãnh thổ có thể trở thành bất khả xâm phạm với một số điều kiện, dù địch thủ có làm gì đi nữa. Nhưng lãnh thổ càng rộng thì lại càng khó bảo vệ chống lại sự tấn công của địch thủ, khó bảo đảm tính chất bất khả xâm phạm của nó. Một lãnh thổ bị rơi vào tay địch thủ thì được gọi là “đấtchết”. Ngược lại, phần đất mà địch thủ không được xâm phạm nữa, được gọi là “đất sống”. Không có người nửa chiến thắng hay nửa chiến bại. Chỉ có sống hoặc chết, như trong chiến tranh.
Kết thúc ván cờ, vinh dự thuộc về tay chơi cờ nào biết phối hợp nhịp nhàng công và thủ, mở rộng được vùng ảnh hưởng của mình trên bàn cờ và giảm ảnh hưởng của đối thủ. Thất bại thuộc về kẻ quá mạo hiểm, muốn thắng nhanh, phát hiện ra quá chậm sự tài tình của đối thủ và không còn cách gì để bảo vệ cuộc tấn công sơ hở của mình. Quá rụt rè sẽ thua, nhưng tham vọng quá lớn chắc chắn cũng sẽ thua. Bởi vì, trong cờ “go”, nắm vững kỹ thuật là cần thiết nhưng chưa đủ. Ở đây không có vấn đề may mắn, cờ “go” không phải là trò chơi may rủi. Chiến lược, chiến thuật luôn luôn kết nối chặt chẽ. Tâm lý và tính cách tự chủ cũng vậy.
Đầu ván cờ, điều then chốt cho giai đoạn tiếp theo là bạn phải đánh giá đúng địch thủ. Phải bắt mạch được những ý đồ thầm kín nhất của địch thủ. Địch thủ sốt ruột ? Muốn thắng nhanh ? Bạn hãy bình tĩnh và tự chủ. Địch thủ muốn tìm thắng lợi trước mắt và cục bộ ? Hãy để địch thủ chiếm một, hai khu vực mà địch thủ muốn giành cho bằng được. Hãy lợi dụng thời cơ ấy để tăng cường vị trí của bạn ở chỗ khác. Hãy chuẩn bị cho chiến thắng chung cuộc. Nhưng hãy coi chừng, nếu bạn đánh giá thấp địch thủ. Địch thủthừa thông minh để giả vờ yếu thế và nhử cho bạn triển khai quân khắp nơi, để rồi phản công và tiêu diệt lãnh thổ của bạn mà bạn đành bó tay. Còn nếu bạn đánh giá địch thủ quá cao ? Dù địch thủ có thể chơi kém hơn bạn, nhưng lợi dụng sự khiêm nhường và rụt rè của bạn, địch thủ có thể đi những nước cờ táo bạo và thắng bạn.
Ở Nhật, môn cờ “go” không chỉ là một trò giải trí mà mang ý nghĩa hơn thế nhiều. Cũng giống như môn bắn cung, trà đạo hay cắm hoa, đó là một nghệ thuật sống, một triết lý. Nó cũng là biểu hiện sự khôn ngoan của nhân dân, một khuôn phép tinh thần, một sự rèn luyện trí tuệ, tinh thần.
Một nhân tố nữa trong việc củng cố cộng đồng của Marumaru là có rất nhiều thành viên của công ty sống chung ở các nhà tập thể và cư xá của công ty. Thoạt đầu, công ty còn quá nhỏ nên không thể cung cấp nhà ở,nhưng những nhà ở đầu tiên của công ty đã được xây dựng trong vòng 6 năm sau khi thành lập công ty, một phần để thu hút nhân viên và làm nản lòng những người muốn ra đi, nhưng cũng là cách thể hiện sự quan tâm của một công ty đang phát triển và thành công cần có đối với công nhân viên của mình. Vào thời điểm tôi tới Marumaru, hơn một nửa công nhân tại công ty cũng đã sống nhiều năm ở các cư xá trước khi lập ra đình và có nhà riêng. Khi sống chung với nhau, họ biết rõ hơn về đồng nghiệp của mình. Phần lớn họ đều biết tên, tuổi, ngày vào làm và thời gian thăng tiến của nhau. Họ cũng biết nhiều về đời sống riêng của các bạn đồng nghiệp, những sở thích riêng, họ hàng hoặc bạn bè của những người đó với nhiều người khác ở Marumaru 
Khuynh hướng thứ nhất là công ty ở Nhật Bản trở thành một đơn vị cơ bản, một tế bào được xác định rõ của hoạt động công nghiệp hoặc thương mại, thay vì chỉ là một trong nhiều tổ chức công nghiệp có thành viên chồng chéo. Khuynh hướng thứ hai của công ty trở thành chuyên môn hóa hẹp, tham gia vào một ngành kinh doanh duy nhất hoặc có thể vài công cuộc liên doanh chặt chẽ. Khuy hướng thứ ba là các công ty được sắp đặt, sắp xếp theo một trật tự trong đó những công ty càng lớn thì càng có địa vị tốt hơn. Khuynh hướng này rõ ràng đã kết hợp với “chế độ nhị nguyên công nghiệp”. Cuối cùng là khuynh hướng của công ty muốn kết hợp với các công ty khác thành một hình thức nhóm nào đó.
Chúng ta phân biệt 3 loại thiết chế trong công nghiệp phương Tây. Loại thứ nhất là những công ty, các đơn vị quản lý, sở hữu và tài chính. 
Loại thứ hai là các ngành công nghiệp và các thị trường, những thiết chế không định hình được xác định bằng cách nói tới một số sản phẩm, kỹ thuật, hệ thống phân phối, những sắp đặt của luật pháp, v.v…
Loại thứ ba là các công đoàn và các hiệp hội khác của những người hoạt động trong công nghiệp. Cả ba thứ thiết chế đó rõ ràng liên quan với nhau, nhưng quan hệ giữa chúng lại phức tạp vì mỗi thiết chế chỉ kết hợp một phần với các thiết chế khác. Một công ty lớn như Unilever sẽ tham gia vào một số ngành công nghiệp khác nhau và liên hệ với hàng chục kiểu công nhân khác nhau và nhiều công đoàn riêng biệt. Một ngành công nghiệp như ngành đồ uống không cồn, sẽ bao gồm nhiều công ty và cả một số chi nhánh của các công ty, kể cả Unilever, mà sự tham gia vào ngành công nghiệp này chỉ là một phần của một loạt hoạt động, và những người làm việc trong ngành công nghiệp đó không những thuộc các công ty đó mà còn thuộc nhiều công đoàn và hiệp hội khác nhau. Cuối cùng, một công đoàn có thể có đại diện ở hàng chục công ty và bộ phận của các công ty, thành viên của nó có thể tham gia vào nhiều ngành công nghiệp rất khác nhau cũng tương tự như thế. Các thiết chế công nghiệp này được đặt lên bản đồ của công nghiệp không theo một quy luật nào, giống như trong một thành phố cổ, ranh giới của các khu vực bưu vụ, chính quyền địa phương và khu vực cung cấp điện đều so lệch
ở Nhật Bản, các thiết chế của công nghiệp có thể có phần nào cùng một phạm vi rộng như nhau. Công ty, đơn vị quản lý và sở hữu, thường thường là đơn vị của một ngành công nghiệp và các hiệp hội lao động cũng giới hạn vào trong phạm vi đơn vị đó. Tựa như các khu vực chính trị, bưu vụ và điện lực của thành phố trùng hợp nhau, tuy không hẳn bởi việc vạch kế hoạch nhìn xa trông rộng của thành phố, mà vì sự thể đã áp đặt tính đều đặn khi thành phố phát triển.
khuynh hướng phân biệt công ty là khuynh hướng của các công ty muốn liên kết với nhau thành những nhóm công nghiệp. Có 3 loại nhóm công nghiệp. Một là nhóm quen thuộc nhất đối với người phương Tây, “hậu duệ” của các zaibatsu trước chiến tranh. Thứ hai là nhóm ngân hàng, gồm các công ty con về tiền vào một ngân hàng chính. Loại thứ ba là gia đình công nghiệp, bao gồm một công ty chế tạo lớn và các công ty liên quan do đó nắm quá nửa cổ phần: chẳng hạn Nihon Radiator là thành viên của gia đình Nissan cùng với khoảng một tá công ty khác.
Tốt nhất nên bắt đầu bằng cách giải thích thương mại đã được tổ chức như thế nào trước khi người ta biết đến công ty ở Nhật Bản, trong thời kỳ Tokugawa (1615 – 1868), khi cai trị đất nước là những nhiếp chính cha truyền con nối hay còn gọi là Shogun, của dòng họ Tokugawa. Trong phần lớn thời kỳ này, Nhật Bản bị cô lập với thế giới, vì chế độ Shogun hạn chế nghiêm ngặt việc buôn bán với nước ngoài. Nguyên tắc cai trị của chính quyền có thể được gọi là phong kiến – tuy khác với kiểu phong kiến châu Âu về nhiều mặt. Đất nước được chia ra làm nhiều lãnh địa, mỗi lãnh địa do một lãnh chúa cai trị, lãnh chúa này phải thần phục Shogun. Có bốn tầng lớp xã hội chủ yếu. Cao nhất (tức một số các nhà quý tộc trong triều hầu Hoàng đế) là tầng lớp các kẻ sĩ hay samurai. Chức năng của họ là cai trị quốc gia. Tầng lớp thứ hai, chiếm đa số, là tầng lớp nông dân, có vinh dự tạo ra sự giàu có của đất nước và cung cấp phương tiện nuôi các samurai. Tiếp theo là các thợ thủ công. Tầng lớp cuối cùng là thương nhân, bị liệt vào hàng kém hèn nhất theo học thuyết của Khổng Tử. Vì họ chỉ làm cái việc phân phối hàng hóa do những người khác sản xuất ra.
Mặc dù địa vị thấp kém, các thương nhân đã giành được quyền lực kinh tế lớn. Nhật Bản là một quốc gia đông dân với ba thành phố rất lớn; quy mô sản xuất nông nghiệp và yêu cầu của thành thị có thể đảm bảo duy trì được những công việc kinh doanh tầm cỡ lớn. Ở đỉnh cao của thời kỳ phongkiến, thương nhân là những người tài trợ cho việc sản xuất gỗ, dầu, bông, hoa quả và trên hết là lúa gạo với khối lượng rất lớn, thu xếp việc chuyên chở những hàng hóa này từ các lãnh địa xa xôi tới các thành phố lớn hơn, đưa chúng vào kho, đem bán, đầu cơ và cho vay lấy lãi.
Các nhà buôn được tổ chức thành các phường hội. Mới đầu được hình thành để điều hòa thương mại về một mặt hàng nào đó, một phường hội khi dần nắm được độc quyền sẽ xin chính quyền xác nhận độc quyền và đóng thuế. Các phường hội tự quản, dưới sự giám sát của Nhà nước. Tổ chức của các phường hội đa dạng nhưng một phường hội có thể bao gồm tới vài trăm nhà và có thể chia thành các hội, mỗi hội chuyên giao dịch về một phần riêng biệt trong toàn bộ việc kinh doanh của phường: chẳng hạn buôn bán gỗ bách hoặc gỗ tùng trong phường buôn gỗ. Cả phường lẫn cáchội cấu thành đều có các giám đốc được bổ nhiệm lần lượt, bởi các nhà thành viên. Những công lao của phường hội – đã nổi rõ lên khi các phường hội tạm thời bị bãi bỏ năm 1841 – 1842 – là đã xây dựng những quy tắc thương mại, tạo điều kiện thuận lợi cho tín dụng, xúc tiến sự tin cậy trong kinh doanh và sự ổn định của thị trường. Tuy nhiên, khi làm vậy, các phường hội đã cản trở cạnh tranh và thường thao túng giá cả. Các phường hội cũng góp phần nuôi dưỡng các nhà thành viên của nó. Chẳng hạn, các nhà của một phường hội nhất trí khước từ thuê người tập sự hay nhân viên nào đã rời bỏ công việc ở các nhà khác của cùng phường hội. (Chính bản thân sự việc có những thỏa thuận như vậy cho thấy các mối quan hệ bên trong các nhà không phải lúc nào cũng có tính chất gia đình một cách tốt đẹp lý tưởng). Phường hội cũng góp phần điều hòa việc thành lập các chi nhánh của các nhà thành viên lâu năm