Mỗi sớm mai thức dậy, những dòng tin tức đổ ập xuống cuộc sống vốn đã nhiều mỏi mệt. Sự bất lực không chỉ nằm ở việc bản thân chỉ biết nghe, đọc và viết, mà đau đớn hơn khi ta nhận ra những con chữ của mình chẳng thể cứu rỗi ai, cũng chẳng thể làm thế giới hay chính cuộc sống của mình tốt đẹp hơn. Và trong sự bất lực đó, ta mở một phiên tòa của lương tri, nơi chính ta tự biến mình thành một quan tòa, tự đưa mình ra trước vành móng ngựa, tự kết án vì một cuộc đời chao đảo giữa ý nghĩa và hư vô.
Chùn bước, sợ hãi, muốn trốn chạy. Không cao cả hơn bất cứ thứ gì, ta phải thừa nhận mình trông thảm hại thế nào khi tự cho rằng mình là kẻ hèn nhát. Ta cố gắng làm đủ mọi cách để vừa phản kháng cuộc đời vừa nương theo nó, kể cả bằng cách cầu xin thần linh mỗi đêm. Mà thật ra ta đâu chỉ cầu xin, ta vừa chửi rủa vừa cầu xin thế nên chẳng bao giờ họ chịu giúp, thay vào đó một thứ khác đã lắng nghe. Nghệ thuật. Vì nó vốn dĩ từ con người.
Làm sao mà nó có thể là người bạn an ủi ta tài giỏi đến thế, chắc có lẽ vì nó già hơn ta, già hơn rất nhiều. Trên dọc con đường ta đến gần hơn với cái chết, thật may mắn thay khi ta và nghệ thuật tìm thấy nhau. Ai là người có thể tạo ra nghệ thuật? Ai là người có thể thưởng thức và đánh giá nó? Tại sao con người lại rung cảm trước nghệ thuật? Những câu hỏi này dường như là một phần của lý trí tò mò, còn cái hay ho và quyến rũ nhất của nghệ thuật lại nằm ở sự thực hành, ngay tại khoảnh khắc giao cảm khi con người và nghệ thuật chạm vào nhau. Như khi lần đầu ta thấy bức tranh “Will He Come Back?” của Robert Morley, một bức tranh được vẽ trong những năm Thế chiến I.
Bức tranh thoạt nhìn mang một gam màu vô cùng ấm áp. Một màu vàng dịu dàng của ánh sáng hắt từ bên ngoài vào ô cửa sổ thả nhẹ lên bộ lông bông xù mềm mại của chú chó. Nhưng ánh mắt nơi con vật đang ngóng trông chủ thì lại thể hiện một điều gì đó khác: long lanh, u buồn, kiên nhẫn, và cô độc. Và cái sự u buồn đó dán chặt trên bức tường, nơi có một tờ giấy được đóng khung. Với những ai am hiểu lịch sử sẽ nhận ra tờ giấy đó chính là Memorial Scroll. Trong Thế chiến I, Hoàng gia Anh gửi tờ giấy này kèm theo tấm huy chương đồng Dead Man’s Penny đến gia đình những người lính đã tử trận. Dòng chữ trên đó thông báo rằng người chủ của chú chó, Sapper Alexander Murray, đã “...passed out of the sight of men by the path of duty and self-sacrifice...” — người lính ấy đã “...rời bỏ thế gian bằng con đường của bổn phận và sự hy sinh...”.
Có thể tờ giấy ấy có một ý nghĩa vinh quang hay mất mát nào đó với con người. Nhưng với người bạn nhỏ trong tranh, tờ giấy chỉ là một vật vô tri trên tường. Nó không biết đọc, và nó từ chối hiểu sự vắng mặt vĩnh viễn là gì.
Nhưng chúng ta biết điều đó.
Ta đâu chỉ thấy một con vật nuôi. Cái ta thấy còn là hiện thân của những linh hồn đang chờ đợi mòn mỏi, tình yêu thương và lòng trung thành dành cho nhau giữa những số phận bị định mệnh đánh cắp. Hay ta nhớ chính ta có lần đã chờ đợi ai đó trong vô vọng vì họ đã không quay lại, và điều đó không khiến ta ngừng yêu họ nhiều hơn. Trái tim ta cũng như chú chó kia, chúng từ chối hiểu việc đã diễn ra hay thậm chí khi đã biết, đã hiểu rõ. Ta không thể ngừng yêu chỉ vì cái chết.
Bức tranh làm một điều thật kinh khủng. Nó không cho ta nghe thấy tiếng bom nổ nơi tiền tuyến, nó cho ta thấy sự yên tĩnh rợn người ở hậu phương; nó không cho ta thấy cảnh tàn phá, máu me và xác người chất đống nơi sa trường, nó cho ta trọn vẹn sự trống vắng ảm đạm ở ngưỡng cửa, nơi thiếu một lời chào ta mong mỏi. Sự yên lặng cũng gặm nhấm con người tàn nhẫn như sự hỗn loạn, tất cả cùng một nguyên nhân. Và nếu đủ ngây thơ hơn nữa, ta có thể sẽ tự hỏi tại sao nguyên nhân gây ra những chuyện này cũng đến từ con người.
Không cần phải thực sự là người thân của một người lính, ta cũng có thể thấy được nỗi đau của người ở lại, không vì gì ngoài việc ta được trời phú cho khả năng tưởng tượng và đồng cảm sâu sắc. Nếu ta là người đó, ta sẽ van xin ta đừng là người đó. Trong lúc van xin ta sẽ biết phần nào, một phần nhỏ nào đó, những nghịch cảnh và nỗi niềm của một đời người mà ta chưa từng và có thể sẽ không phải trải qua. Khi cảm nhận được những điều này, không một ai có thể quay đầu lại. Và càng thấu cảm nó bấy nhiêu ta sẽ không muốn ai lấy mất hay vứt bỏ nó đi dù cho nó khiến ta đau đớn nhường nào.
“Will He Come Back?”, để đủ trả lời câu hỏi này, ta phải là người đầu tiên đặt chân vào vị trí người đặt câu hỏi đó, ta phải tàn nhẫn với chính mình trước tiên để rồi ta sẽ dằn vặt, đấu tranh rằng ta nên quyết liệt hay nhẹ nhàng với câu trả lời, hay ta làm cả hai dù không thể nào trọn vẹn.
Chú chó ấy vẫn ngồi yên bên khung cửa sổ của bức tranh để đến nửa thế kỷ sau những câu hỏi tương tự như thế vẫn chưa dứt. Nó tiếp tục ngân trong tiếng guitar của Bob Dylan. Ta tìm thấy Bob Dylan làm gì chỉ để rồi ta nghe những câu hỏi khắc khoải lại thổi vào không trung:
“How many roads must a man walk down Before they call him a man? How many seas must a white dove sail Before she sleeps in the sand? Yes, ‘n’ how many times must the cannon balls fly Before they’re forever banned? The answer, my friend, is blowin’ in the wind The answer is blowin’ in the wind” (Bao nhiêu con đường một người phải đi qua Trước khi họ gọi người ấy là một con người? Bao nhiêu biển cả cánh chim câu trắng phải chèo lái Trước khi nó có thể được ngủ yên trên bãi cát? Vâng, và những quả đạn pháo phải bay bao nhiêu lần nữa Trước khi chúng bị cấm mãi mãi? Câu trả lời, bạn tôi ơi, đang thổi bay trong gió Câu trả lời đang thổi bay trong gió)
Dylan bảo rằng câu trả lời đang bay trong gió. Gió thì vô hình, gió thì chẳng bao giờ dừng lại để ta nắm bắt. Phải chăng, ông đang ngầm nói rằng sẽ chẳng có câu trả lời nào cả hay vốn dĩ câu trả lời đã ở ngay đó nhưng ta sẽ lại đổ lỗi cho cơn gió quá lớn đã cuốn trôi đi cái lý lẽ mà nhân loại mải miết đi tìm?
“Yes, and how many ears must one man have Before he can hear people cry? Yes, and how many deaths will it take ‘til he knows That too many people have died? The answer, my friend, is blowin’ in the wind The answer is blowin’ in the wind” (Vâng, và một người phải có bao nhiêu đôi tai Trước khi họ có thể nghe tiếng khóc của con người Vâng, và cần thêm bao nhiêu cái chết nữa trước khi họ biết Rằng đã có quá nhiều người ra đi? Câu trả lời, bạn tôi ơi, đang thổi bay trong gió Câu trả lời đang thổi bay trong gió)
Khi những giai điệu này cất lên, tại sao trái tim ta lại thổn thức? Ta đâu phải người lính đi qua vạn dặm trường chinh, ta đâu phải những người dân vô tội vượt biển ngàn trùng để tìm một nơi an trú, ta đâu phải cánh chim bồ câu rã cánh tìm bờ cát ngủ vùi. Nhưng trong khoảnh khắc của âm nhạc, ranh giới giữa “ta” và “họ” bị xóa nhòa. Trí tưởng tượng, chính nó là món quà và cũng là lời nguyền của tạo hóa đã buộc ta phải sống cuộc đời của họ. Ta nghe tiếng khóc đến khi đôi tai ù đi, ta chứng kiến cái chết đến khi đôi mắt mờ đục, và ta tự hỏi rằng có ai đang đau đớn như ta không, hay chỉ mình ta đang hành hạ chính mình bằng những nỗi đau vay mượn.
Có ai đau đớn như ta không?
Chỉ vì trí tưởng tượng đồng bóng đó mà ta đau khổ, nhưng trớ trêu thay, ta lại nhất quyết không buông tha nó. Bởi nếu buông bỏ, ta sợ hãi vô ngần, ta lạc lối, trở nên vô cảm. Ta sợ chính mình trong hình hài đó.
Chiếc bình bé nhỏ của tâm hồn cố gắng dung chứa đại dương cảm xúc của nhân loại, và dĩ nhiên, nó sẽ luôn quá tải.
Một trong những điều đắt giá mà nghệ thuật mang lại, chính là dạy ta cách đứng giữa lằn ranh của những mâu thuẫn cực độ. Nó không ban phát cho ta một chân lý sống, nhưng nó cho ta sức mạnh để tồn tại giữa những giằng co, giữa việc chọn làm điều nhẹ gánh hay việc tôn trọng những gánh nặng trong lòng, giữa những thứ tự gọi là chân lý trong ta và những định kiến ngoài xã hội. Nó cho phép ta thầm yêu thương cuộc sống này một cách khờ dại nhất, dung chứa những cảm xúc to lớn của nhân loại một cách tham lam nhất mà vẫn nhìn rõ giới hạn của mình. Nghệ thuật, cái người bạn già ấy, cho ta được sống và cũng chưa bao giờ cười cợt trước sự ngây thơ quá đỗi, chưa bao giờ khinh rẻ nỗi đau con kiến của ta. Nó cho ta được là chính mình, trong cái hình hài con người yếu đuối, dễ tổn thương và đầy khiếm khuyết. Nó cũng cho ta thấy mình rõ hơn bao giờ hết.
Đi một vòng lớn, từ nỗi đau của người hậu phương, sự chờ đợi trung thành của chú chó, đến những câu hỏi của nhân loại, nghệ thuật rồi cũng đưa ta về lại với thực tại nhỏ bé dưới chân mình. Nó cầm tay, kéo ta nhìn xuống mặt đất, nơi ta nhận ra mình cũng không thể đứng ngoài vòng quay sinh tồn.
Sau khi nhắm mắt đi rồi Tôi sẽ thấy con kiến tôi từng giết Và con kiến tôi đã bỏ qua Ngày dài không quay trở lại Tính hổ thẹn thì có thể Tàn nhẫn mặc định vì sinh kế Còn đau buồn thì vài triệu lê thê Một quẩn khúc u mê. (KT - Sinh Kế)
Từ một cuộc đại chiến đến một bước chân vô tình, bi kịch chỉ khác nhau ở quy mô, còn bản chất của nỗi đau thì đồng dạng.
Nhưng khác với sự bất lực ban đầu khi ta muốn chối bỏ thế giới, sự bất lực ở chặng đường này mang một màu sắc khác, tuy nó vẫn là một sự bất lực. Một chấp nhận khiêm nhường hơn. Nghệ thuật không giúp ta rửa sạch đôi tay khỏi quy luật sinh tồn, nhưng nó giữ cho trái tim ta biết rung lên nhịp đập của sự hối lỗi. Nó cho phép ta chấp nhận tiếng nói âm ỉ trong mình, rằng biết đau lòng cho một sinh linh bé nhỏ, như một con kiến, chính là lằn ranh cuối cùng giữ ta lại làm một con người.
Và nỗi buồn khi ấy, chúng không chỉ là sự trừng phạt, chúng còn là một món quà. Hoặc nếu nói ngược lại thì cũng không khác là bao, vì ta được bao dung và bao dung.
Chủ bút Tạp Nham,
KT
---
Bài viết gốc được đăng tải tại Tạp Nham - trang tạp bút cá nhân của KT.