Những người nước ngoài trong quân đội của chúa Nguyễn Phúc Ánh
Bàn về thực hư câu chuyện "Giám mục Bá Đa Lộc từng cứu mạng chúa Nguyễn Phúc Ánh"; cùng với đó là vai trò của một số người Pháp nổi bật trong quân đội chúa Nguyễn
Một trong những điều đặc biệt khi tìm hiểu về cuộc chiến giữa chúa Nguyễn Phúc Ánh và nhà Tây Sơn giai đoạn cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20 là những người châu Âu phục vụ trong quân đội chúa Nguyễn. Chúng ta vốn đã nghe rất nhiều về Giám mục Bá Đa Lộc hay một số người Pháp có đóng góp đủ nhiều để được chúa Nguyễn coi trọng, đặt cho tên tiếng Việt và vài người thậm chí sau còn làm quan một thời gian cho nhà Nguyễn.
Vậy thực tế vai trò của họ trong cuộc chiến này như thế nào? Liệu những vai trò ấy có thật sự to lớn như nhiều sử gia người Pháp tô vẽ hay không?

Có phải Giám mục Bá Đa Lộc là người đã cứu Nguyễn Phúc Ánh hay không?
Nhắc đến Giám mục Pierre Pigneau de Behaine - hay như tên Việt thường dùng hơn là Bá Đa Lộc - thì người ta thường nhớ đến mối quan hệ giữa ông và chúa Nguyễn Phúc Ánh. Trong đó, sự kiện nổi bật nhất chính là việc Bá Đa Lộc khuyên chúa Nguyễn Phúc Ánh tìm kiếm sự giúp đỡ của nước Pháp trong cuộc chiến với Tây Sơn. Và chính Bá Đa Lộc là người được ủy thác đưa con trai của chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Cảnh sang Pháp, đồng thời thay mặt để đàm phán với nước Pháp. Việc này đã dẫn đến cái gọi là Hiệp ước Versailles được ký kết giữa triều đình nước Pháp của vua Louis XVI và lực lượng của chúa Nguyễn do Bá Đa Lộc thay mặt. Mặc dù cuối cùng Hiệp ước Versailles này đã không được thực hiện, nhưng về sau Pháp vẫn dùng Hiệp ước này làm một trong những cái cớ để ra yêu sách và cuối cùng phát động chiến tranh xâm lược với nhà Nguyễn.
Với nhiều nhà chép sử Pháp, thì một sự kiện hay được đưa ra để chứng tỏ rằng Bá Đa Lộc có "công ơn" với nhà Nguyễn, chính là họ cho rằng Bá Đa Lộc đã từng cứu mạng Nguyễn Phúc Ánh.
Năm 1777, Nguyễn Nhạc cử Nguyễn Huệ đem quân vào đánh Gia Định. Hai vị chúa là Định vương Nguyễn Phúc Thuần và Tân Chính vương Nguyễn Phúc Dương đều bị bắt giết cùng nhiều quan lại, tướng lĩnh và tông tộc họ Nguyễn. Trong số ít người thoát được, có Nguyễn Phúc Ánh, bấy giờ mới hơn 15 tuổi.
Các nhà chép sử của Pháp cho rằng chính Bá Đa Lộc đã cứu mạng và che chở cho Nguyễn Phúc Ánh. Và từ đó họ suy ra rằng nếu Giám mục Bá Đa Lộc không cứu Nguyễn Phúc Ánh thì đã không thể có được nhà Nguyễn sau này. Việc này về sau dần được nhắc đến nhiều lần trong các văn thư chính thức của chính phủ Pháp hoặc của các thủy sư đô đốc gửi cho triều đình của các vua nhà Nguyễn sau Gia Long; với mục đích đòi trả các giáo sĩ bị bắt, hoặc xin thông thương. Họ gọi đây là "công ơn của nước Pháp" với nhà Nguyễn.
Nhưng có thật là Bá Đa Lộc là người giúp Nguyễn Phúc Ánh chạy thoát vào năm 1777 không?
Trước hết, cần nhắc lại qua các sự kiện xảy ra khi đó.
Ngày 19 tháng 9, Tân Chính vương Nguyễn Phúc Dương và 18 quan theo hầu ra hàng Tây Sơn và bị đem về Gia Định xử tử. Ngày 18 tháng 10, đến lượt Định vương Nguyễn Phúc Thuần cùng một số tướng lĩnh và tông tộc họ Nguyễn chịu chung số phận. Bấy giờ có Nguyễn Phúc Ánh thoát được, lẩn trốn rất kỹ, Tây Sơn lùng sục mà không bắt được. Tháng 11, Nguyễn Huệ đem đại quân rút về Quy Nhơn; lập tức Nguyễn Phúc Ánh xuất hiện, gọi Đỗ Thanh Nhơn đem quân Đông Sơn về phò tá và đánh úp chiếm được dinh Long Hồ.
Trong hơn 1 tháng đó, Nguyễn Phúc Ánh trốn ở đâu và được ai giúp đỡ? "Đại Nam thực lục" còn không ghi rõ mà chỉ chép lược rằng:
Ngày Canh Thìn, Duệ tông [Định vương Nguyễn Phúc Thuần] bị nạn băng. Một mình vua được thoát, lên thuyền đậu ở sông Khoa (thuộc Long Xuyên), định nhân đêm vượt biển để lánh giặc. Bỗng có con cá sấu cản ngang mũi thuyền ba lần, bèn thôi. Sớm mai dò biết đêm ấy có thuyền giặc ở phía trước. Vua bèn dời sang đóng ở đảo Thổ Chu.

Giám mục Pierre Pigneau de Behaine (Bá Đa Lộc)
Nhìn chung có thể bỏ qua không xét đến chi tiết "cá sấu cản mũi thuyền", vì bản chất nó chỉ là một huyền thoại chính trị được tô vẽ và thêu dệt bởi sử quan để khẳng định "thiên mệnh" của người sáng lập triều đại. Phàm những nhân vật khai quốc lập triều đều ít nhiều có những truyền thuyết kiểu này. Chứ còn thực tế thì bấy giờ Nguyễn Phúc Ánh đang chạy hộc mạng, Tây Sơn rượt theo thấy ông bà ông vải thì hơi đâu quan tâm có cái gì cản đường?
Vì sự thiếu hụt thông tin, nên các nhà chép sử người Pháp sau này đã dựng nên câu chuyện "Bá Đa Lộc cứu Nguyễn Phúc Ánh". Charles B. Maybon - tác giả cuốn "Lịch sử hiện đại nước Nam (1592 - 1820)" đã đoán rằng Bá Đa Lộc lần đầu gặp Nguyễn Phúc Ánh vào năm 1776. Bấy giờ Định vương Nguyễn Phúc Thuần vừa vào Gia Định, Nguyễn Phúc Ánh đi theo cùng. Một loạt tướng lĩnh được chúa gọi đem quân tới để gây dựng lực lượng chống Tây Sơn - trong đó có Trấn thủ Hà Tiên là Mạc Thiên Tứ. Maybon cho rằng Bá Đa Lộc lúc ấy đang ở cạnh Mạc Thiên Tứ và đã có cơ hội gặp các thành viên họ Nguyễn và được biết Nguyễn Phúc Ánh là ai. Về sau khi Tây Sơn đánh tan quân Nguyễn và bắt giết hai vị chúa, Bá Đa Lộc đã tìm cách giúp Nguyễn Phúc Ánh lẩn trốn.
Maybon tiếp tục đưa ra giả thuyết rằng nếu Bá Đa Lộc chưa từng gặp Nguyễn Phúc Ánh trước đó thì hẳn họ cũng đã gặp nhau ngay thời điểm tháng 9, tháng 10 năm 1777. Ông ta cho rằng sau khi hai chúa Nguyễn lần lượt bị giết, Nguyễn Phúc Ánh chạy thoát và trốn tránh một thời gian trong khu rừng ngay cạnh chủng viện và Bá Đa Lộc đã sai một giáo sĩ thân tín người Việt là Paul Nghị - tức Hồ Văn Nghị - đem đồ ăn tiếp tế. Nhờ vậy ông ta biết thân phận của cậu thiếu niên này và đã giúp Nguyễn Phúc Ánh trốn ra đảo Thổ Chu.
Nghe thì thật là logic và hợp lý, nhưng đáng tiếc toàn suy đoán vô căn cứ cả. Maybon quả thực có ghi là "theo lời một số nhân chứng Tây phương", nhưng vấn đề cần đặt ra là những "nhân chứng" này là ai? Có đáng tin không?
Thực ra dữ liệu duy nhất mà Maybon vin vào để viết ra những suy đoán trên là từ ghi chép của John Barrow trong cuốn "Một chuyến đi đến Nam Hà". Nguyên văn đoạn đó Barrow viết như sau:
"Nhà vua [Định vương Nguyễn Phúc Thuần] đã bị địch bắt, nhưng hoàng hậu, hoàng tử [chỉ Nguyễn Phúc Ánh], các con và một người chị hay em, được Adran [Bá Đa Lộc] cứu thoát. Nhờ đêm tối, họ rời xa kinh thành [Gia Định] và trốn vào rừng. Ở đấy, trong nhiều tháng, vị vua trẻ của nước Nam (…) trốn cùng với gia đình, không dưới lùm cây sồi rậm rạp mà dưới lùm đa hay bồ đề vì ở đây không ai dám xâm phạm. Một nhà tu Công giáo tên Paul [Paul Nghị] liều mình đem đồ ăn mỗi ngày, cho đến khi [quân đội đi lùng] không còn tìm kiếm nữa và sau cùng được lệnh rút về."
Nếu có hiểu biết cơ bản về lịch sử thời đó, sẽ biết ngay John Barrow đã chép sai nhiều thứ. Ông ta tưởng nhầm Định vương là cha của Nguyễn Phúc Ánh nên mới gọi là hoàng tử; nhưng thực chất Định vương là chú của Nguyễn Phúc Ánh. Ông ta bảo Nguyễn Phúc Ánh trốn đi cùng với mẹ và các con là sai; vì lúc ấy Nguyễn Phúc Ánh chưa có vợ con gì cả. Chi tiết Bá Đa Lộc cứu Nguyễn Phúc Ánh cũng chẳng có gì chứng minh được.
Vậy là từ một ghi chép đầy lỗi sai của Barrow, Maybon đã mượn mỗi cái ý "Nguyễn Phúc Ánh được Bá Đa Lộc cứu", và tự dựng nên một loạt các thông tin khác để vẽ ra một câu chuyện hoàn chỉnh. Các nhà chép sử của Pháp thời sau cứ thế mà chép theo, chẳng buồn kiểm chứng lại; âu cũng để cho nước Pháp cái oai là một Giám mục người Pháp đã từng cứu mạng vua Gia Long thời còn phải chạy trốn Tây Sơn.
Nhưng nếu Bá Đa Lộc không phải người cứu Nguyễn Phúc Ánh, thế thì người đó là ai?
Bấy giờ ta lại phải quay lại những ghi chép của người đương thời, hoặc ghi chép của sử Việt thời đó.

Giám mục Bá Đa Lộc có một giáo sĩ trợ tá tên là Julien Faulet. Người này bắt đầu đi truyền giáo từ năm 1773 và đến xứ Cao Miên (tức Chân Lạp) vào năm 1775, rồi làm trợ tá cho Bá Đa Lộc. Điều đáng chú ý là Faulet đã viết nhiều bức thư gửi về cho các thượng cấp, mô tả tình hình chiến tranh và quá trình truyền giáo ở cả Cao Miên và Hà Tiên. Trong số đó có hai tài liệu quan trọng.
Ở một bản ký sự dài, Faulet có thuật lại việc khi Tây Sơn đánh xuống, Bá Đa Lộc phải bỏ trốn khỏi tu viện. Tu viện này vốn được xây ở phía nam Hà Tiên và được Mạc Thiên Tứ bảo trợ. Faulet còn chép rõ rằng Bá Đa Lộc bỏ chạy khỏi Hà Tiên từ ngày 29 tháng 7 năm 1777 và tìm đường sang Cao Miên. Đã bỏ trốn vì sợ chiến tranh gây vạ đến mình như vậy từ tận cuối tháng 7 thì không lẽ nào Bá Đa Lộc lại có mặt ở Gia Định mà cứu mạng Nguyễn Phúc Ánh vào tháng 10 năm đó được. Hơn nữa chắc gì Bá Đa Lộc đã biết Nguyễn Phúc Ánh là ai. Suy cho cùng bấy giờ Nguyễn Phúc Ánh mới hơn 15 tuổi, chưa có tiếng tăm gì. Bá Đa Lộc nếu có nghe danh thì cùng lắm chỉ biết đến Định vương và Tân Chính vương mà thôi.
Trong một bức thư khác, được Faulet viết vào tháng 4 năm 1780 gửi cho thượng cấp, kể về tình trạng khó khăn của giáo dân ở Hà Tiên thì đoạn cuối có câu:
"Chính cha Paul [Paul Nghị] đã nuôi ăn và giấu ông vua trẻ trong chiếc thuyền nhỏ của ông và báo cho Đức thánh cha [Bá Đa Lộc] biết."
Những ghi chép của Faulet hẳn là đáng tin hơn hẳn so với những ghi chép sau này, vì dù sao Faulet cũng là người đương thời, và thân cận với Bá Đa Lộc. Hơn nữa, nếu thực sự Bá Đa Lộc là người cứu Nguyễn Phúc Ánh thì chẳng việc gì Faulet phải giấu chuyện ấy đi cả. Như vậy thì hẳn người thực sự ra tay giúp đỡ Nguyễn Phúc Ánh chính là Paul Nghị, rồi sau đó Bá Đa Lộc mới biết. Từ đó dẫn đến việc Bá Đa Lộc biết được thân phận của cậu thiếu niên này. Vậy là ông ta lập tức nghĩ đến việc khuyên nhủ chúa Nguyễn tìm kiếm sự giúp đỡ của nước Pháp. Giải thích như vậy sẽ logic và hợp lý hơn hẳn giả thuyết thiếu căn cứ của Maybon đã nêu ở trên.
Thư của một giáo sĩ khác là Le Labousse vào năm 1789 cũng xác nhận rằng lúc ấy Paul Nghị được chúa Nguyễn Phúc Ánh cho hưởng rất nhiều đặc quyền; các quan cũng được lệnh cố gắng thỏa mãn những yêu cầu của Paul Nghị. Việc ấy như thể chúa Nguyễn đang hết lòng cảm tạ cái ơn giúp đỡ năm xưa. Đến năm 1801, khi Paul Nghị qua đời, Le Labousse khi viết tin thông báo về cái chết của ông ta đã trực tiếp viết rằng:
"Nhà vua, trong thời điểm tai biến, đã may mắn có ông cung cấp những nhu cầu tối thiểu, vì vậy rất quý mến ông."
Việc quý mến có thật hay không thì không rõ, nhưng phải thừa nhận là thực tế các giáo sĩ đương thời chỉ nhắc đến Paul Nghị là người cứu giúp chúa Nguyễn, chứ không đả động gì đến Bá Đa Lộc. Đơn giản là vì bấy giờ Bá Đa Lộc còn đang lánh nạn bên Cao Miên chứ không ở Nam Hà. Còn việc sau này chúa Nguyễn Phúc Ánh cử Bá Đa Lộc đem Nguyễn Phúc Cảnh theo cùng sang Pháp đàm phán, thì lại là chuyện khác.
Về các bộ sử tiếng Việt, tuy Thực lục không chép rõ việc Nguyễn Phúc Ánh chạy thoát ra làm sao; nhưng một bộ sử khác khuyết danh là "Sử ký Đại Nam Việt Quốc triều" được soạn vào thế kỷ 19 lại chép khá rõ. Điểm đặc biệt là trái với các bộ sử khác, "Sử ký Đại Nam Việt Quốc triều" chép rằng khi Tây Sơn đánh đến nơi vào mùa thu năm 1777, thì Nguyễn Phúc Ánh lại đang ở cùng với Tân Chính vương Nguyễn Phúc Dương tại Ba Việt chứ không ở cùng Định vương Nguyễn Phúc Thuần. Cụ thể:
"Ông Hoàng Tôn [Tân Chính vương Nguyễn Phúc Dương] với ông Nguyễn Ánh thì trốn được vào đồn kia với một ít quân. Song bởi quân ấy thấy ông Hoàng Tôn cô thế, thì chẳng có lòng với ông ấy là bao nhiêu, nên giao với quân Tây Sơn, mà chịu hàng cùng nộp ông Hoàng Tôn với ông Nguyễn Ánh cho nó. Song ông Nguyễn Ánh trốn khỏi."
Cứ như ghi chép trên thì Nguyễn Phúc Ánh đã chạy thoát từ tháng 9 năm 1777; vì Tân Chính vương Nguyễn Phúc Dương bị Tây Sơn đưa về Gia Định đem giết vào ngày 19 tháng 9. Ngoài ra, "Sử ký Đại Nam Việt Quốc triều" cũng chép rất tường tận về việc Nguyễn Phúc Ánh đã trốn thoát ra sao.

Một cuốn "Sử ký Đại Nam Việt Quốc triều", bản in năm 1903
Nói ngắn gọn thì sau khi may mắn thoát được quân Tây Sơn, Nguyễn Phúc Ánh lâm vào đường cùng, may được một người nhà trò con hát giúp tìm được một chiếc thuyền nhỏ chạy đi nấp trong rừng; thế rồi may mắn gặp được thuyền của Paul Nghị cũng đang chạy nạn. Nguyễn Phúc Ánh tuy không quen biết Paul Nghị, nhưng biết ông ta theo đạo tức là sẽ không giúp Tây Sơn, lại là người Việt, nên đánh liều xưng thân phận và xin giúp đỡ. Paul Nghị bèn đem Nguyễn Phúc Ánh giấu trong thuyền mình và đi thẳng sang Hà Tiên đến nhà của Bá Đa Lộc. Chẳng may lúc ấy Bá Đa Lộc đã trốn sang Cao Miên rồi, nên Paul Nghị lập tức gửi tin sang. Ban đầu Paul Nghị định giấu Nguyễn Phúc Ánh trong nhà Bá Đa Lộc. Thế nhưng quân Tây Sơn đã bắt đầu lùng sục đến tận Hà Tiên, nên ông ta buộc phải đưa Nguyễn Phúc Ánh lên rừng ẩn náu. Sau đó hoặc Paul Nghị, hoặc một thầy giảng tên là Toán sẽ thỉnh thoảng đem đồ ăn đến tiếp tế cho Nguyễn Phúc Ánh; cứ như thế đến khi Tây Sơn rút.
Tuy còn chỗ mâu thuẫn với Thực lục như cho rằng Nguyễn Phúc Ánh ở cùng Tân Chính vương thay vì Định vương; nhưng ít ra ghi chép của "Sử ký Đại Nam Việt Quốc triều" khá chi tiết và trùng khớp với thư từ của các giáo sĩ người Pháp.
Như vậy, chúng ta tạm có thể khẳng định rằng vào thời điểm tháng 9 và tháng 10 năm 1777, khi Tây Sơn tiêu diệt lực lượng của họ Nguyễn; thì người giúp đỡ Nguyễn Phúc Ánh ẩn náu khỏi sự truy lùng là một giáo sĩ người Việt tên là Paul Nghị. Giám mục Bá Đa Lộc thời điểm ấy đã chạy nạn sang Cao Miên, không có mặt ở Gia Định hoặc thậm chí là Hà Tiên để mà giúp Nguyễn Phúc Ánh. Và có lẽ ở thời điểm ấy, Bá Đa Lộc cũng còn chưa biết Nguyễn Phúc Ánh là ai cả.
Vai trò của những người Pháp trong quân đội chúa Nguyễn
Một điểm đặc biệt khi nhắc đến cuộc chiến giữa chúa Nguyễn và Tây Sơn trong giai đoạn sau chính là sự xuất hiện của những người Pháp trong quân đội của họ. Tất nhiên đây không được tính là sự giúp đỡ của nước Pháp, vì Hiệp ước Versailles ký năm 1787 đã không được thực hiện. Những người Pháp này hầu hết là được Bá Đa Lộc kêu gọi đến giúp đỡ chúa Nguyễn, và vì nhiều lý do khác nhau.
Về cụ thể có bao nhiêu người Pháp trong quân đội chúa Nguyễn, giờ khó mà đưa ra được một con số cụ thể chuẩn xác. "Đại Nam liệt truyện" chỉ liệt kê 7 người có công trạng, còn những người khác bỏ qua. Cuốn sách "La Cochinchine Religieuse" (tạm dịch: Tôn giáo Nam Kỳ) xuất bản năm 1885 của Louis-Eugène Louvet thì ghi lại 7 người Pháp và 3 người nước ngoài khác được chúa Nguyễn phong làm Cai đội; không nhắc đến những người khác. Chính Bá Đa Lộc trong một bức thư đã nói rằng quân đội của chúa Nguyễn vào khoảng năm 1792 có 40 người châu Âu; trong đó có 1 người lãnh chức Vệ úy và được cai quản đến 600 quân.
Tuy nhiên, con số được coi là có độ chính xác cao hơn cả là con số được đưa ra bởi Philippe Vannier - một trong những người từng ở trong quân đội chúa Nguyễn. Trong bức thư viết sau khi mới trở lại Pháp thì Vannier nói rằng có 14 sĩ quan và 80 binh lính đã góp công trong cuộc chiến của chúa Nguyễn.
Tóm lại, có lẽ có khoảng vài chục đến 100 người châu Âu, chủ yếu là người Pháp, từng gia nhập quân đội của chúa Nguyễn Phúc Ánh. Trong số những người đó, không phải ai cũng nổi bật, thực tế có rất nhiều người chỉ phục vụ một thời gian ngắn rồi bỏ đi. Vì vậy, chúng ta sẽ chỉ xem xét một vài trường hợp tiêu biểu và nổi tiếng nhất.
Phần lớn những người nước ngoài trong quân đội chúa Nguyễn gia nhập vào khoảng năm 1789 - 1790; nhưng trước thời điểm đó đã từng có hai người nữa là Jean và Manuel. Trong đó người được ghi nhận có công lớn nhất, từng chiến đấu đến cùng với quân Tây Sơn và bỏ mạng là Manuel, còn Jean thì ít được biết đến hơn và công trạng cũng không bằng.
Về Jean, thì "Sử ký Đại Nam Việt Quốc triều" chép rằng tháng 11 năm 1777, Bá Đa Lộc từ Cao Miên về đến Nam Hà gặp Nguyễn Phúc Ánh có đem theo Jean để giúp đỡ. Jean đã giúp quân Nguyễn chế tạo trái phá, một loại lựu đạn thô sơ, và góp công giúp họ thắng trận, chiếm được dinh Long Hồ.

Kiến trúc được cho là một công trình thuộc đền Hiển Trung do người Pháp chụp
Chuyện về Manuel thì được ghi chép rộng rãi hơn hẳn. Nhiều tài liệu có chép lại về người này như Thực lục hay "Gia Định thành thông chí" của Trịnh Hoài Đức. Theo đó thì vào tháng 4 năm 1782, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ đem đại quân vào đánh Gia Định. Chúa Nguyễn Phúc Ánh bèn sai Tống Phúc Thiêm dàn quân chống giữ ở Ngã Bảy. Khi ấy thuyền Tây Sơn xuôi chiều gió đánh mạnh vào cửa Cần Giờ, quân của Tống Phúc Thiêm nhanh chóng tan rã. Bấy giờ tàu của Manuel bị mắc cạn, Tây Sơn bèn bao vây rồi cho quân ném đồ hỏa khí để đốt tàu. Manuel không thoát được, bèn tự đốt kho thuốc súng cho nổ tàu tự sát, khiến các tàu Tây Sơn xung quanh thiệt hại nặng. Với nhà Nguyễn, Manuel là người có công, sau được truy phong làm Hiệu Nghĩa công thần phụ quốc Thượng tướng quân, bài vị được thờ ở đền Hiển Trung cùng nhiều danh tướng. Đền này sau bị quân Pháp tiêu hủy trong trận Đại đồn Chí Hòa với Nguyễn Tri Phương năm 1861.
Khi Bá Đa Lộc và Nguyễn Phúc Cảnh từ Pháp trở về năm 1788, đã có một số thủy thủ đào ngũ từ các tàu Pháp và một số người nữa từ nhiều nơi theo đến Gia Định đầu quân cho chúa Nguyễn. Được biên chế vào thủy quân thì có Jean-Marie Dayot - tên tiếng Việt là Nguyễn Văn Trí, Guillaume Guillox, Jean-Baptiste Guillon, Julien Girard de l’Isle-Sellé, De Forcant - tên tiếng Việt là Lê Văn Lăng, Jean-Baptiste Chaigneau - tên tiếng Việt là Nguyễn Văn Thắng và Philippe Vannier - tên tiếng Việt là Nguyễn Văn Chấn. Trong quân bộ thì có Victor Olivier de Puymanel - tên tiếng Việt là Nguyễn Văn Tín, Théodore Lebrun, Laurent Barisy và Jean-Marie Despiaux.
Vì bài viết có hạn, nên chúng ta sẽ chỉ điểm qua một số nhân vật mà thôi.

Jean-Baptiste Chaigneau
Trong số những người trên, có ba người từng tham dự trận Thị Nại năm 1801. Trong trận ấy, thủy quân chúa Nguyễn dùng hỏa công và hủy diệt toàn bộ thủy quân Tây Sơn ở đầm Thị Nại. Ba người đó là De Forcant, Chaigneau và Vannier. Họ điều khiển ba chiếc thuyền đồng hộ tống chúa Nguyễn, không được giao nhiệm vụ chiến đấu. Tuy vậy có De Forcant vì hăng say và hào hứng khi trận đánh diễn ra nên có lẻn đi chiến đấu. Sau trận Thị Nại, khi thủy quân chúa Nguyễn đánh ra Quảng Ngãi và Quảng Nam; thì ba người này tiếp tục ở dưới quyền tướng Phạm Văn Nhân đánh vào cửa biển Đà Nẵng. Khi luận công ban thưởng, ba người đều được chúa Nguyễn thăng lên chức Cai cơ. Sau khi quân Nguyễn chiếm lại được Phú Xuân và giành được thắng lợi sau cùng; ba người De Forcant, Vannier và Chaigneau đều được thăng làm Chưởng cơ, lấy vợ người Việt và ở lại Huế. De Forcant mất năm 1809 tại Việt Nam; còn Vannier và Chaigneau ở lại đến tận thời Minh Mạng, song lúc ấy triều đình có ý bài ngoại, nên cả hai đều xin về Pháp và được chấp thuận.
Théodore Lebrun thường được cho là người đã vẽ bản đồ thành Gia Định; nhưng xem xét lại các mốc thời gian thì điều này hoàn toàn không thể xảy ra được. Vì theo thông tin trong Văn khố Bộ Hải quân Pháp thì tận ngày 13 tháng 1 năm 1790 Lebrun mới đến Ma Cao và đào ngũ, rồi tìm đường đến Nam Hà. Mà theo Trịnh Hoài Đức thì thành Gia Định đã đắp từ ngày 19 tháng 3 năm 1790, do Nguyễn Phúc Hội chỉ đạo thực hiện. Xây một tòa thành không chỉ ngày một ngày hai, bản đồ thành Gia Định chắc chắn đã được hoàn tất từ trước đó rồi. Hơn nữa, thành bát quái ở Gia Định ban đầu vốn là thành đắp theo kiểu phương Đông; về sau mới được xây lại theo kiểu Vauban châu Âu. Thế nên bảo Lebrun là người tham gia công việc này chỉ là chuyện tô vẽ thêu dệt của người Pháp.
Khi Lebrun đến gia nhập vào tháng 6 năm 1790, vì tự nhận mình là kỹ sư xây dựng nên được chúa Nguyễn phong cho chức Khâm sai Cai đội trông coi các đồn lũy thành trì. Tuy nhiên Lebrun nhanh chóng bỏ quân chúa Nguyễn mà rời đi, có lẽ vào khoảng năm 1791. Lý do có thể vì anh ta khai man mình là kỹ sư chuyên đồn lũy, nên chúa Nguyễn phong chức cao nhưng kèm theo điều kiện là nếu không làm được việc thì phải chịu tội. Lebrun không làm được việc, sợ bị bắt tội nên bỏ đi; sau làm việc trông coi nhà thợ nhuộm cho người họ hàng ở Île-de-France, Pháp - như chính anh ta viết trong một bức thư vào tháng 6 năm 1792.
Jean-Marie Dayot thì là sĩ quan thật, vốn là trợ tá đại úy trên một tàu buôn ở Ấn Độ, thậm chí từng cai quản một tàu buôn nhỏ trước khi đến Nam Hà vào khoảng năm 1789. Vì vậy mà Dayot có khả năng vẽ được thủy đạo đồ bờ biển vùng Nam Hà. Nhờ kinh nghiệm và chức vụ có thật, nên Dayot được nhận chức Khâm sai Cai đội trông coi 2 chiếc tàu kiểu châu Âu. Nhiệm vụ chính của Dayot là đưa tàu đi xa buôn bán gạo để lấy tiền mua vũ khí và tàu chiến. Ngoài ra mỗi khi có chiến dịch đánh Tây Sơn, Dayot sẽ có nhiệm vụ vận tải lương thực cho quân. Ký sự do chính Dayot viết còn cho thấy quả thực anh ta đã lợi dụng việc phải vận lương liên tục khi có chiến tranh gió mùa để vẽ bản đồ các khu vực ven biển. Tuy nhiên những bản đồ này dường như Dayot đã trao cho người đem về Pháp, chứ không thấy nói gì đến việc trình lên cho chúa Nguyễn Phúc Ánh. Chính Pháp và Tây Ban Nha sau này đã sử dụng các bản đồ này của Dayot trong cuộc xâm lược Đại Nam dưới thời vua Tự Đức.

Jean-Marie Dayot (bên trái) và em trai Félix Dayot - cả hai đều từng phục vụ trong quân đội chúa Nguyễn
Dayot cũng không phục vụ chúa Nguyễn đến hết cuộc chiến. Ngay trong chuyến đi xa thứ hai để buôn bán vào năm 1792, Dayot đã thâm lạm ngân quỹ. Ban đầu chúa Nguyễn Phúc Ánh định đuổi anh ta đi, và bất cứ người châu Âu nào muốn bỏ đi thì cũng không cản. Nhưng rồi cuối cùng lại đổi ý, vì thời điểm đó đang rất nhạy cảm: có tin rằng vua Quang Trung chuẩn bị dẫn đại quân kéo xuống Gia Định. Lúc này không nên tạo cho toàn quân cái ấn tượng là "những người châu Âu đến giúp đã tan rã và bỏ đi". Chúa Nguyễn đã thuyết phục Bá Đa Lộc ở lại, thăng chức Vệ úy cho Puymanel và bỏ qua lỗi của Dayot - nhưng không cho anh ta đưa thuyền đi buôn nữa mà chỉ tập trung vào việc vận lương.
Năm 1795, Dayot làm đắm tàu, bị đóng gông và kết án; anh ta tìm cách trốn đi nhưng bị bắt lại, rồi lại tìm được cách trốn đi trên tàu của Puymanel. Dayot bỏ đi rồi bèn tìm đến Philippines lập nghiệp. Đến năm 1804 thì Toàn quyền ở đây sai Dayot trở về Việt Nam mua gạo. Bấy giờ vua Gia Long đã bỏ qua tội cũ và cho phép anh ta mua gạo trở về. Tuy vậy Dayot cũng không dám đến Huế gặp vua mà chỉ ghé lại Đà Nẵng rồi xuôi thuyền xuống Gia Định xin mua gạo. Thậm chí năm 1807 vua Gia Long còn hỏi thăm tin tức Dayot và mong anh ta sẽ trở lại, chứng tỏ ông đã bỏ qua hết mọi tội lỗi của Dayot. Nhưng đến năm 1808, Dayot dường như đã trở thành gián điệp cho nước Anh để dò xét tình hình Việt Nam. Mùa thu năm 1809, Dayot đi biển gặp bão, nhưng nhất quyết không chịu ghé vào bờ ở Việt Nam để tránh, thành ra cuối cùng chết đuối; có lẽ bản thân anh ta cũng sợ cái lỗi này sẽ không được vua Gia Long tha thứ dễ dàng nữa.
Trong số những người Pháp phục vụ chúa Nguyễn; thì Puymanel và Barisy là hai người giúp được nhiều nhất, theo chúa Nguyễn Phúc Ánh đến khi chết và chưa bao giờ phản bội. Khi gia nhập quân chúa Nguyễn khoảng cuối năm 1788 - đầu năm 1789, Puymanel được phong chức Khâm sai Cai đội. Nhiệm vụ chính của Puymanel có vẻ như là lo việc tổ chức các đội pháo binh để phòng thủ bến tàu, phiên dịch chữ nước ngoài, chế tạo một số loại hỏa khí như hỏa xa (tức một loại đại bác có gắn bánh xe để di chuyển được tiện hơn) và chấn địa lôi. Nhờ việc chế tạo hỏa khí mà Puymanel được biên chế vào đội pháo binh trong lực lượng quân Thần Sách.
Về chiến trận, thì Puymanel có đi theo quân chúa Nguyễn trong chiến dịch tấn công Quy Nhơn trong năm 1793. Chúa Nguyễn Phúc Ánh đã dùng hỏa xa đánh thành, nhưng không thành công và cuối cùng phải rút về Diên Khánh. Đến năm 1794, khi Tây Sơn đánh thành Diên Khánh, Puymanel cũng tham dự trận này. Hai bên dùng súng và đại bác bắn nhau ác liệt, đến cuối cùng khi chúa Nguyễn đem đại quân tới giải vây thì Tây Sơn rút lui. Năm 1795, Tây Sơn tiếp tục đưa quân vây thành Diên Khánh, lần này Puymanel có nhiệm vụ sang Ấn Độ mua binh khí. Bấy giờ xảy ra vụ Dayot làm đắm tàu và bị phạt tội, anh ta hai lần tìm cách bỏ trốn và cuối cùng thoát được nhờ Puymanel che chở cho.
Puymanel ban đầu cũng định bỏ đi vì dù lập nhiều công lao thế nhưng chưa thấy được thưởng của cải gì cả. Nhưng cuối cùng Puymanel vẫn ở lại phục vụ, được chúa Nguyễn Phúc Ánh cho một con tàu nhỏ và quyền tự do ra vào các cảng để buôn bán. Puymanel có đóng góp trong trận Đà Nẵng năm 1797, khi Thực lục ghi nhận anh ta cùng quân Nguyễn dùng kế hỏa công đốt rất nhiều thuyền Tây Sơn. Nhưng cuối cùng vì thiếu lương nên chúa Nguyễn vẫn phải rút về Gia Định. Trong 2 năm 1798 và 1799, quân Nguyễn không gây chiến để củng cố lực lượng. Thời gian này, Puymanel chủ yếu giúp chúa Nguyễn trong việc ngoại giao và mua vũ khí; nhưng trên đường sang Singapore vào tháng 3 năm 1799, Puymanel bị kiết lỵ mà mất.
Nhân vật cuối cùng đáng chú ý là Barisy - phục vụ chúa Nguyễn Phúc Ánh từ khoảng năm 1793 đến khi mất năm 1802. Khi gia nhập quân đội chúa Nguyễn năm 1793, Barisy được phong làm Khâm sai Cai đội, được cho quản riêng một tàu lớn tên là Armide. Anh ta có nhiệm vụ đi sang Ấn Độ, Philippines, Mã Lai, Malacca,... để buôn bán và dùng tiền đó mua súng ống cùng các loại vũ khí. Barisy được giao quản tàu Armide trong 5 năm liền, chứng tỏ anh ta luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ và được chúa Nguyễn tin tưởng. Ngoài ra, khi đi buôn bán, tàu Armide cũng giữ vị trí trung lập trong cuộc tranh chấp giữa Pháp và Anh tại Ấn Độ Dương.
Nhưng đến tháng 4 năm 1798, tàu Armide bị hải quân Anh bắt giữ. Người Anh bèn đem bán tàu này cùng toàn bộ hàng hóa, giải tán thủy thủ đoàn. Barisy đã nhiều lần khiếu nại với chính phủ Anh ở Bengal, nhưng không có kết quả. Vì mãi không thấy Barisy về, nên chúa Nguyễn đã sai Puymanel đi điều tra. Đến tháng 10 năm 1798, chúa Nguyễn cử người đưa một tàu khác đến giao cho Barisy, lệnh cho anh ta bán tàu này cùng hàng hóa để mua hai tàu khác lớn hơn, tiếp tục mua súng ống vũ khí. Đồng thời lệnh cho Barisy đem thư tay của chúa Nguyễn sang Ấn Độ để tố cáo sĩ quan hải quân Anh đã chiếm tàu Armide và xâm phạm quyền lợi của Nam Hà, đồng thời đòi bồi thường thỏa đáng. Chúa Nguyễn yêu cầu chính phủ Anh phải giải quyết ngay, nếu không Nam Hà sẽ có cách trả đũa bằng vũ lực. Trước thái độ cứng rắn của chúa Nguyễn, chính quyền Anh đã phải nhượng bộ và trả tàu Armide về Gia Định.
Sau vụ việc đó, Barisy vẫn tiếp tục nhiệm vụ buôn bán cho chúa Nguyễn. Nhưng ngoài ra thỉnh thoảng anh ta còn được giao các nhiệm vụ khác nữa liên quan đến vận lương và phòng thủ; đặc biệt sau khi Puymanel mất năm 1799. Có vẻ như Barisy thực hiện tốt các nhiệm vụ này, vì đến tháng 6 năm 1800, chúa Nguyễn thưởng cho anh ta một chiến thuyền và cho phép tự do về nước nếu muốn.

Nguyễn Phúc Cảnh giai đoạn ở Pháp
Vào tháng 3 năm 1801, xảy ra vụ tranh chấp giữa Barisy và một thương nhân Bồ Đào Nha. Barisy là đại diện của một nhà buôn Anh, chuyên bán vũ khí cho chúa Nguyễn, nên bị thương nhân Bồ Đào Nha ghét. Anh ta lại được chúa Nguyễn và Thế tử Nguyễn Phúc Cảnh che chở nữa, được hưởng một số đặc quyền, nên họ nhân lúc Thế tử bệnh nặng và chúa Nguyễn đi đánh trận xa để tìm cách triệt hạ Barisy.
Bấy giờ thương nhân người Bồ Đào Nha là Botelho vu cáo Barisy các tội ăn cắp quà tặng chúa Nguyễn, nhận hối lộ để đưa cho các quan. Vì thế Barisy bị phạt đeo gông và giam vào ngục, nhưng Thế tử Nguyễn Phúc Cảnh dù bệnh nặng vẫn ra lệnh cho Lưu thủ Gia Định là Nguyễn Văn Nhơn tra xét lại và tha cùm cho Barisy. Botelho tiếp tục vu cho Barisy tội bỏ thuốc độc giết một thuyền trưởng, nhưng không có bằng chứng nên anh ta được trắn án, còn Botelho bị phạt roi vì vu cáo. Botelho sau đó trả thù bằng cách ngầm sai người đánh chìm tàu của Barisy, làm anh ta mất hết của cải vốn liếng.
Sau những tai nạn xảy ra vào tháng 3, đến tháng 4 năm 1801 Barisy tiếp tục theo quân chúa Nguyễn chiến đấu. Vào tháng 6, quân Nguyễn bất ngờ tấn công vào cửa biển Thuận An, đánh úp chiếm lấy kinh thành Phú Xuân, khiến vua Cảnh Thịnh phải vội bỏ chạy ra bắc. Sau trận này, Barisy tiếp tục được giao nhiệm vụ đưa tàu đi mua vũ khí cho chúa Nguyễn, nhưng anh ta mất trên đường.
Nhìn chung, sự thật là trong lực lượng của chúa Nguyễn Phúc Ánh có không ít người châu Âu - chủ yếu là người Pháp. Hầu hết họ là lính đào ngũ hoặc những người thủy thủ máu phiêu lưu, hy vọng tìm kiếm được những của cải to lớn thông qua việc phục vụ cho vị chúa Nam Hà. Họ không đại diện cho nước Pháp hay bất cứ một thế lực nào cả. Những đóng góp của họ với quân đội của chúa Nguyễn là có giá trị, nhưng không lớn lao đến mức đơn phương giúp thay đổi tình thế trong cuộc chiến với Tây Sơn. Vai trò của một số người thậm chí còn bị làm quá lên, để tạo một ấn tượng rằng họ có vị trí không thể thiếu với chúa Nguyễn. Nhưng thực tế hoàn toàn không phải - và nếu đánh giá một cách chính xác, thì hầu hết những người châu Âu này chỉ đơn thuần muốn tìm kiếm cơ hội đổi đời thông qua việc giúp đỡ một nhà vua phương Đông mà thôi.

Lịch sử
/lich-su
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất
