Những đại dịch hạch khủng khiếp nhất lịch sử nhân loại
Trong những đại dịch chết chóc nhất từng được ghi nhận, 3 trong số đó đều do 1 thủ phạm gây ra. Đó là một loại vi khuẩn có tên là Yersinia Pestis, hay còn được biết tới là vi khuẩn gây ra bệnh dịch hạch.
“Để nhân loại phát triển thì phải trải qua đấu tranh và nhận về nhiều thiệt hại”. Điều này đúng trong cả lĩnh vực Y Học. Để y học có thể phát triển được tới nay, loài người đã phải hứng chịu nhiều loại đại dịch khác nhau trong suốt chiều dài lịch sử. Trong những đại dịch chết chóc nhất từng được ghi nhận, 3 trong số đó đều do 1 thủ phạm gây ra. Đó là một loại vi khuẩn có tên là Yersinia Pestis, hay còn được biết tới là vi khuẩn gây ra bệnh dịch hạch. Vậy những trận càn quét khủng khiếp nhất của dịch hạch trong lịch sử thế giới là gì?

Yersinia Pestis được khám phá ra lần đầu vào năm 1894 do công của bác sĩ người pháp Alexandre Yersin trong trận đại dịch tại Hong Kong. Cũng chính ông là người liên kết vi khuẩn này với bệnh dịch hạch. Người nhiễm vi khuẩn gây bệnh bọ chét nhiễm khuẩn từ các loài động vật gặm nhấm là tác nhân chính gây ra bệnh trên cơ thể người.
Dịch hạch cho tới nay có 4 thể khác nhau, thể hạch, thể nhiễm khuẩn huyết, thế phổi và thể da. Dễ nhận thấy nhất là những hạch to, đau và sưng tấy. Người nhiễm sẽ đột ngột cảm thấy ớn lạnh, sốt cao, mệt mỏi, đau cơ, đau đầu và buồn nôn. Ở trường hợp bị nhiễm độc nặng, người bệnh có thể bị nhiễm trùng phổi, nhiễm trùng da, hoại tử chân tay,…

Nhưng dịch hạch không phải tới thế kỷ 19 mới được biết tới. Nó đã bắt đầu tồn tại từ thời cổ đại. Cấu trúc gen của vi khuẩn Yersinia Pestis đã được phát hiện trong các mẫu khảo cổ răng của 7 người thuộc thời đại đồ đồng cách đây 5.000 năm trước. Đã có một vài đợt dịch được nghi là dịch hạch xảy ra vào khoảng thế kỷ thứ nhất và thứ 2, trong đó có cả bệnh dịch Antonine, đặt theo tên gia đình của hoàng đế la mã Marcus Aurelius và Antoninus.
Nếu còn để tính riêng vào thời đại trung cổ và hậu trung cổ, có 3 đợt dịch hạch lớn nhất đã từng diễn ra.
- Đại dịch năm 541-750, bắt đầu với dịch Justinian, lan rộng từ Ai Cập tới Địa Trung Hải và Tây Bắc châu Âu
- Đại dịch năm 1345-1840, bắt đầu từ “Cái Chết Đen”, lan từ Trung Á tới Địa Trung Hải và Châu Âu.
- Đại dịch năm 1866-1960, lan rộng từ Trung Quốc tới các nơi khác trên thế giới, đặc biệt là Ấn Độ và Bờ Tây Hoa Kỳ.
1. Đại dịch hạch Justinian
Đợt dịch khủng khiếp nhất là từ dịch Justinian. Nguồn gốc tới nay vẫn chưa được làm rõ, nhưng các nhà sử học cho rằng nó xuất phát từ Trung Quốc. Những con tàu thương mại giao thương giữa các lục địa, chủ yếu là các tàu chuyên chở ngũ cốc, vốn là nguồn lương thực khổng lồ, nuôi dưỡng những con chuột mang trên mình bọ chét gây bệnh.
Đến khi dịch lan ra thủ đô Constantinople của đế chế Byzantine, nó đã cướp đi mạng sống của 300.000 người chỉ trong năm đầu tiên. Vào đỉnh điểm của dịch bệnh, nó giết 10.000 người ở Constantinople mỗi ngày. Đợt dịch cuối cùng giết chết 40% cư dân của thành phố, và sau đó là càn quét tới ¼ dân số ở phía đông Địa Trung Hải.

Tới năm 588, làn sóng dịch lớn thứ 2 lan rộng khắp khu vực Địa Trung Hải, lan sang cả khu vực nước Pháp hiện nay. Ước tính, đại dịch Justinian đã giết 100 triệu người trên toàn thế giới, khiến cho dân số châu Âu giảm 50% chỉ trong giai đoạn từ năm 541-700. Đồng thời, nó cũng là nguyên nhân chính dẫn tới chiến thắng của các cuộc chinh phục của người Ả Rập Hồi giáo.
Người bệnh được mô tả trong tài liệu là “sưng phồng ở mọi nơi trên cơ thể, giống như có một quả hạch ở háng và tất cả chỗ khác, theo sau là cơn sốt không thể chịu nổi”. Đại dịch chấm dứt không phải vì phương pháp chữa trị đã được tìm ra, người thời đó chỉ đơn thuần là tránh xa mọi bệnh nhân nhiễm phải dịch bệnh. Cho tới khi chết hết rồi, không còn thêm nạn nhân nào nữa, dịch bệnh mới chỉ tạm thời kết thúc.
2. Cái chết Đen
Ấy là cho tới cuối thế kỷ 14, đại dịch lại bùng phát thêm một lần nữa. Ngày nay, mọi người vẫn gọi lần bùng dịch ấy với một cái tên khá ám ảnh là “cái chết Đen”.

Hình ảnh bác sĩ trong thời kỳ "Cái chết Đen"
Thuyết phổ biến nhất cho nguồn gốc của lần bùng phát này là từ vùng thảo nguyên Trung Á và lan dần sang châu Âu. Tuy vậy, vẫn có một vài giả thuyết khác, ví dụ như nhà sử học Michael W. Dols lại cho rằng “cái chết Đen” bắt nguồn từ châu Phi rồi mới lan sang Trung Á. Dù bắt nguồn từ đâu đi chăng nữa, dịch hạch được truyền ra cả phía Đông và phía Tây thông qua “con đường tơ lụa” và các chiến dịch quân sự của quân đội Mông Cổ. Ghi chép cho thấy sự xuất hiện của dịch hạch lần đầu tiên tại châu Âu là vào năm 1347 tại thành phố Caffa trên bán đảo Krym. Tại đây, quân Mông Cổ đã mắc phải dịch hạch trong quá trình tiến công, và họ quyết địch sử dụng máy bắn đá để ném các xác chết nhiễm bệnh vào trong thành để lây nhiễm cho người dân như một dạng vũ khí sinh học. Các nhà buôn sau khi thoát ra đã mang theo căn bệnh về đảo Sicilia và khu vực Nam Âu, nơi mà dịch bệnh bùng phát trở thành đại dịch.
Bên cạnh khả năng lan truyền, yếu tố chính khiến dịch hạch lây nhiễm với tốc độ kinh hoàng như vậy là ở các điều kiện có sẵn như chiến tranh, nạn đói, và cả thời tiết. Ở Trung Quốc, cuộc xâm lược của quân đội Mông Cổ đã làm gián đoạn nông nghiệp và thương nghiệp ở khu vực này, kéo theo đó là nạn đói lan rộng đi kèm với dịch bệnh, kéo theo đó là sinh mạng của ít nhất ⅓ dân số nước này. Châu Âu cũng không khá khẩm hơn. Cuối thế kỉ 13 là một giai đoạn được coi là “tiểu Băng Hà”, những mùa đông kéo dài ảnh hưởng trực tiếp tới nguồn cung lương thực, dẫn tới nạn đói lớn 1315-1317 tại Bắc Tây Âu. Dân số vào thời điểm đó đang ở số lượng khá lớn, thức ăn không đủ cung cấp hết cho toàn bộ. Người dân luôn trong tình trạng suy dinh dưỡng, kéo theo đó là giảm sức đề kháng, mở đường cho dịch bệnh lây lan.

Dịch hạch bắt đầu trở thành một sứ giả của thần Chết, càn quét khắp châu Âu. Tổng cộng 75 triệu người chết vì đại dịch, trong đó 25-50 triệu người là dân số châu Âu, quét sạch 30-60% dân số của châu lục này. Rất có thể, đại dịch đã khiến dân số thế giới tụt từ khoảng 450 triệu còn 350-375 triệu người, chỉ tính cho tới năm 1400. So sánh với con số chỉ 6,8 triệu người qua đời của đại dịch Covid.
Bệnh dịch lây lan nhanh tới mức giới cầm quyền và các bác sĩ không cả đủ thời gian để tìm hiểu bản chất của đại dịch. Họ thậm chí đã quay sang giả thiết rằng dịch hạch là do các thế lực siêu nhiên gây ra. Nhiều người dân tin rằng đó là một sự trừng phạt của Chúa với nhân loại. Một số cực đoan hơn, cho rằng người Do Thái đã cố ý đầu độc nguồn nước. Điều này dẫn đến những cuộc thanh trừng dị giáo, như vụ thảm sát hàng ngàn người Do Thái vào những năm 1348-1349, khiến 60 cộng đồng lớn và 150 cộng đồng nhỏ đã bị huỷ diệt. Hàng loạt người theo đạo khác thì di cư từ thị trấn này sang thị trấn khác trong khi tự đánh vào bản thân như một cách để rửa tội.

Khi đó, cách để chữa trị dứt điểm dịch hạch vẫn là chưa được phát hiện. Vào thế kỷ 15, dịch bệnh đã bị suy yếu bởi việc cách ly người nhiễm bệnh, được sử dụng lần đầu tiên tại thành phố Venice. Nhưng dịch hạch chưa bao giờ bị triệt tiêu, nó vẫn quay trở lại sau vài thế hệ dân số với mức độ huỷ diệt khác nhau cho tới tận thế kỷ 17-18. Trong giai đoạn này có trên 100 đại dịch khác nhau quét qua châu Âu, một vài đại dịch đáng chú ý nhất bao gồm ở London năm 1603, ở Ý (1629-1631), Sevilla (1647-1652), London (1665-1666), Vienne (1679). Cái chết Đen chỉ thực sự kết thúc với những lần đại dịch cuối cùng ở Marseille (1720-1722), đại dịch hạch 1738, và ở Nga (1770-1772).
Về cơ bản, cái chết Đen đã thay đổi cấu trúc xã hội ở châu Âu. Một số giả thuyết cho rằng nó là một cú đấm chí mạng vào uy tín của nhà thờ Công Giáo, đồng thời gây ra trào lưu khủng bố nhóm người thiểu số tại châu lục này, bao gồm người da màu, người Do Thái, người ngoại quốc, người ăn xin và người bị bệnh phong. Nỗi lo trước việc có thể bị mất mạng bởi dịch bệnh bất cứ lúc nào cũng đã dẫn tới sự hình thành của trào lưu “sống gấp” trong cộng đồng những người sống sót. Tư tưởng này được miêu tả rất thành công bởi Giovanni Boccaccio với tác phẩm “Prencipe Galeotto” năm 1353. Cả châu Âu tan hoang và phải mất tới hàng trăm năm sau mới có thể phục hồi hoàn toàn.
3. Đại dịch hạch thế kỷ 19-20
Đại dịch thứ 3 bắt đầu từ tỉnh Vân Nam - Trung Quốc vào năm 1855, lan sang tất cả các lục địa có người ở và cuối cùng giết hơn 12 triệu người ở Ấn Độ và cả Trung Quốc. Có thể coi làn sóng dịch bệnh lần này không chỉ có dịch hạch đơn thuần.
2 nguồn lây nhiễm đã được ghi nhận. Một nguồn là từ người nhiễm bệnh mang virus đi khắp thế giới thông qua giao thương đường biển, chuyên chở người nhiễm bệnh cùng những con chuột nhiễm khuẩn. Nguồn thứ 2 là một dòng virus độc hại hơn, chủ yếu là viêm phổi, có sự lây nhiễm từ người sang người. Các nhà nghiên cứu trong suốt đại dịch thứ 3 đã xác định được bản chất của dịch bệnh và dần tìm ra các phương pháp điều trị hiện đại.
Trong đại dịch thứ 3, chưa rõ ràng có ít hoặc nhiều hơn 3 điểm nóng bùng phát. Đợt đầu tiên xảy ra ở Nga vào những năm 1877-1889, chủ yếu tại những vùng nông thôn gần dãy núi Ural và biển Caspian. Các nỗ lực vệ sinh và cách ly bệnh nhân đã giảm đáng kể sự lây lan của dịch, chỉ 420 người tử vong trong khu vực. Đáng chú ý, khu vực Vetlianka lại gần với quần thể chuột bobak, được xem là một ổ chứa dịch bệnh vô cùng nguy hiểm.

Lần bùng dịch cuối cùng ở Nga lại xảy ra tại Siberia vào năm 1910. Vào thời điểm này, nhu cầu về vỏ sò tăng cao, hơn tận 400% giá trị. Các thợ săn truyền thống sẽ không săn mồi chất lượng kém, và cấm không ăn chất béo từ dưới cánh tay của động vật, vốn là nơi chứa tuyến bạch huyết ở nách, thường là nơi chứa bệnh dịch hạch. Do đó mà sự bùng phát bị giới hạn đáng kể, chỉ xảy ra ở những cá nhân đơn lẻ. Tuy nhiên, sự tăng giá đáng kể của các sản phẩm tại đây đã thu hút hàng ngàn thợ săn Trung Quốc từ Mãn Châu. Không chỉ bắt những động vật nhiễm bệnh mà còn ăn mỡ của chúng vì cho đó là “món ăn tinh khiết”, bởi vậy mà dịch bệnh bắt đầu lan rộng từ các khu vực săn bắn đến tận trạm cuối cùng của Tuyến đường sắt phía Đông Trung Quốc, sau đó đi theo tuyến đường dài 2.700km. Bệnh dịch kéo dài 7 tháng và giết chết hơn 60.000 người. Dịch hạch còn tiếp tục lan truyền thông qua các cảng khác nhau trên toàn cầu trong vòng 50 năm tiếp theo, nhưng chủ yếu được tìm thấy ở vùng Đông Nam Á.
Nhưng đợt dịch ở Hong Kong vào năm 1894 là nơi có tỷ lệ tử vong đặc biệt cao, lên tới 90%. Ổ dịch ở đây nghiêm trọng tới mức các cơ quan y tế thuộc các cường quốc Châu Âu đã phải tổ chức khẩn cấp hội nghị tại Venice để tìm cách ngăn ngừa bệnh dịch ra khỏi châu lục này. Dù vậy, dịch bệnh vẫn lan sang lãnh thổ Hawaii và Hoa Kỳ vào giai đoạn những năm 1899-1904, cho tới khi được loại bỏ hoàn toàn vào năm 1959.

Cho tới tận năm 2007, tổ chức Y Tế thế giới vẫn coi dịch hạch là một trong ba bệnh dịch đặc biệt của nhân loại. Các nhà nghiên cứu cũng cảnh báo rằng nó có thể bùng phát trở lại ở một dạng đột biến mới mà thuốc kháng sinh hiện tại không thể điều trị được, và lần nữa lại gây ra thêm một đại dịch khác. Lý do vì vi khuẩn gây bệnh vẫn bằng một cách nào đó mà tồn tại trong cơ thể các loài gặm nhấm và bọ chét ở khắp nơi trên thế giới. Bởi vậy mà các chuyên gia y tế vẫn khuyến cáo những người nuôi và chăm sóc thú cưng thường xuyên chăm sóc y tế cho vật nuôi, tìm cách loại bỏ các bọ chét kí sinh trên cơ thể chúng. Giữ môi trường sống sạch sẽ và tránh xa các loài gặm nhấm, cụ thể là chuột, để tránh trường hợp xấu nhất có thể xảy ra.

Lịch sử
/lich-su
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất
