"Biên niên ký chim vặn dây cót" (1994) là cuốn tiểu thuyết đồ sộ và được nhận xét là "đạt đến độ chín muồi" của tác giả Nhật Bản Haruki Murakami. Về tổng quan, tác phẩm được trần thuật dưới điểm nhìn của nhân vật chính Okada Toru, tuy nhiên có sự dịch chuyển điểm nhìn của những "cái Tôi trải nghiệm" khác nhau, như Kumiko, trung úy Mamiya, Kasahara May, Nhục đầu khấu, Quế..., họ kể về lịch sử, về văn hóa, về sự sống và cái chết, về nỗi cô đơn trong hành trình tìm kiếm bản ngã của mình. Bằng việc sử dụng điểm nhìn đa nguyên, phức điệu, xây dựng thế giới nghệ thuật hỗn độn, cùng kết cấu phân mảnh đã khiến cuốn tiểu thuyết như một "mê hồn trận", "bát trận đồ" mà Murakami mời gọi người đọc dấn thân cùng thể nghiệm
Nguồn: Nhã Nam
Nguồn: Nhã Nam
Phải thừa nhận rằng, tôi ấn tượng với cách Murakami đặt tên cho từng chương của cuốn tiểu thuyết. Trong nội tại cách đặt tên đã cho thấy một sự phân mảnh, rời rạc, phi tuyến tính mà cuốn tiểu thuyết phát lộ. Quyển một mang tên: Chim ác là ăn cắp, với các phần như: Chim vặn dây cót ngày thứ ba, Trăng tròn và nhật thực, cái mũ của Malta Kano, Tháp cao và giếng sâu, Nghiền kẹo chanh, Về sự chào đời của Okada Kumiko và Wataya Noboru, Hiệu giặt là hạnh phúc, Thiếu điện trầm trọng và những ống ngầm, Mát tay... Quyển hai: Chim tiên tri, có các phần sau: Càng cụ thể càng tốt, Không có tin lành nào trong chương này, Wataya Noboru nói, Ân sủng đánh mất, Cảnh quan những thành phố xa xôi, Thừa kế tài sản, Hồi ức và đối thoại về việc có thai, Cội rễ của dục vọng, Giếng và sao, Đói quá hóa đau, Phát hiện trong khi cạo râu...Quyển ba mang tên: Kẻ bắt chim, có các phần sau: Chim vặn dây cót trong mùa đông, Tỉnh giấc đông miên, Chuyện xảy ra trong đêm, Mua giày mới, Một nơi mà nếu nghĩ thật lung thì sẽ đoán ra, Nhục đầu khấu và Quế, Bí ẩn ngôi nhà có dớp, Dưới giếng, Cuộc tấn công vườn thú, Cái xẻng này có thực không, Đường chắc tới đây là hết, Những nhọc nhằn và gánh nặng của thế gian, Con gái của một con ếch ộp ngu si, Mê cung dưới lòng đất, Một nơi nguy hiểm, Tạm biệt... Mỗi chương không liên kết, không ăn nhập hay nhất quán với nhau. Có một số chương được viết theo dạng thức của một tạp chí, trang báo, hay lá thư, với nội dung đơn lẻ, rời rạc, không theo cốt truyện tuyến tính. Hiện tại-quá khứ-mộng tưởng đan xen, hỗn độn. Cuốn tiểu thuyết này là ma trận phức tạp và đồ sộ nhất trong số những cuốn tôi từng đọc của Murakami.
Haruki Murakami
Haruki Murakami
Các cuốn tiểu thuyết của Murakami. Nguồn: Từ coder đến developer – Tôi đi code dạo
Các cuốn tiểu thuyết của Murakami. Nguồn: Từ coder đến developer – Tôi đi code dạo
Ban đầu, tôi muốn viết về "Thế giới huyền ảo trong tiểu thuyết 'Biên niên ký chim vặn dây cót' của Haruki Murakami. Thế nhưng, trong quá trình viết, tôi chợt nhận ra danh sách những vấn đề cần xử lý dài đến mức có thể in thành một tập sách, mà nếu dồn hết trong một bài thì sẽ rất nặng nề cho cả tôi và người đọc. Vì vậy, tôi chuyển hướng sang viết từng bài nhỏ (như 1 series) và đi sâu vào khám phá từng yếu tố huyền ảo trong cuốn tiểu thuyết vô cùng đồ sộ này. Đọc "Biên niên ký chim vặn dây cót", ta thấy sự đồng hiện của hai thế giới: thế giới thực với cuộc sống của một gia đình bình thường ở Tokyo, cảnh sinh hoạt thường nhật của những gia đình trong con ngõ, phố xá bận rộn và tấp nập, rượu bia, thuốc lá, điện thoại, nhạc jazz và những vật dụng của thế giới hiện đại. Thế giới huyễn ảo với hai chị em: bà đồng Kano Malta, Kano Creta, ông già tiên tri Honda, những giấc mơ của Toru, cái giếng - cánh cửa thông với phòng 208, cô gái bí ẩn nói chuyện sex qua điện thoại, hai mẹ con Nhục Đậu Khấu, Quế, cuộc chiến giải thoát Kumiko ra khỏi Noboru… Đây là cuốn tiểu thuyết có một hệ thống biểu tượng dày đặc, phức tạp, huyễn hoặc và sâu sắc. Mà ở bài viết này, tôi sẽ đi vào khám phá nhân vật Kano Creta - một nhân vật mà tôi cảm thấy rất đặc biệt, rất thú vị.

Kano Creta là ai?

Kano Creta, tên thật là Kano Setsuko, là em gái, cũng là trợ lý của người phụ nữ có khả năng tiên tri - Kano Malta. Malta đặt tên cho cô theo hòn đảo Crete nằm gần hòn đảo Malta. Cô từng làm gái điếm, sinh ra với sự dày vò cái Đau, tự tử bất thành năm 20 tuổi và từng bị làm nhục bởi Wataya Noboru - anh chồng của Okada Toru, nói cách khác là anh trai của Kumiko. Tuy là một nhân vật phụ trong tuyến phát triển của Okada Toru, nhưng Creta chiếm lĩnh một vai trò quan trọng trong diễn biến câu chuyện và đồng thời trải nghiệm cuộc đời cô cũng khiến tôi suy ngẫm.

Tiến trình ba bản ngã của Kano Creta

Nhắc tới nhân vật Kano Creta, sẽ thật thiếu sót nếu bỏ qua tiến trình ba bản ngã của nhân vật thú vị này. Mô hình ba bản ngã của Creta được tóm tắt như sau: (1) Cái tôi khởi thủy: Cái tôi bị đày đọa bởi cái đau thể xác vô cùng tận. (2) Cái tôi trung gian: Cái tôi của sự vô cảm tuyệt đối với sự thoát lui của cái đau, ý chí sống, sinh lực thể xác và cả khả năng tư tưởng. (3) Cái tôi hiện thời: Cái tôi của phục hồi tri giác và khai phóng khả năng tách rời thể xác khỏi tinh thần. "Cái tôi đúng hơn" - nói như Creta.
“Between the Being and to Be” 2012, natural aluminium by Alexandros Yiorkadjis
“Between the Being and to Be” 2012, natural aluminium by Alexandros Yiorkadjis
Bây giờ hãy cùng bóc tách từng cái Tôi:
Đến với cái Tôi đầu tiên của Kano Creta - cái Tôi nguyên thủy với sự dày vò của cái Đau thể xác.
“Đau” ở đây không phải theo nghĩa bóng mà là nghĩa đen. Hoàn toàn không phải ẩn dụ, mà là cái đau thể xác, thuần túy về thể xác. Cái đau giản đơn, thường tình, trực tiếp, vật lý, song chính vì vậy càng là cái đau buốt nhói: nào nhức đầu, đau răng, nào đau khi đến kỳ kinh nguyệt, nào đau lưng dưới, nào tê vai, nào sốt, nào đau cơ, nào bỏng, nào tê cóng, náo chuột rút, nào bong gân, nào bầm tím, vân vân. Suốt đời, tôi luôn phải chịu đứng những cái đau thể xác ngày càng thường xuyên, ngày càng dữ dội hơn cái đau của kẻ khác.
Vốn dĩ, cái Đau thể xác thường được đặt trong thế lép vế trên bàn cân giữa thể xác và tinh thần. Con người, hay những người nghệ sĩ ca tụng cái Đau tinh thần. Rằng thân thể là vỏ bọc của bản năng và tạm bợ nên những gì phi thân thể như linh hồn, tinh thần mới thuộc phạm trù của thẩm mỹ trác tuyệt - thứ mà người nghệ sĩ nên khai thác. Vậy vì sao Murakami chọn viết về cái Đau thể xác như một bi kịch của bản ngã?
Trước hết hãy nhìn vào cách nhà văn Rafael Chirbes mô tả giai đoạn cuối cùng của căn bệnh nan y của một người đàn ông trong cuốn tiểu thuyết "Paris-Austerlitz":
"Đúng hơn, tôi có cảm tưởng rằng người đàn ông đang nằm kia, dần hao mòn từng chút, đã trở thành một kẻ xa lạ – không chỉ xa lạ với tôi - một kẻ khác, mà còn xa lạ với chính mình. Một con người mà cả tôi lẫn anh đều không còn nhận ra; chính Michel cũng từng thốt lên điều đó với tôi, trong những khoảnh khắc hiếm hoi khi anh còn tỉnh táo. […] Michel đang tàn lụi dần, lặng lẽ phai đi, như mỗi ngày tôi đến thăm, ánh sáng mờ ảo của buổi chiều mùa đông cũng phai mờ nơi khung cửa sổ bệnh viện."
Cái Đau khiến Michel xa lạ với chính anh, và với người khác. Họ dần dà không còn nhận ra anh nữa, và anh cũng vậy. Từ đó, dẫn đến quan điểm của Svenaeus, cơn đau, hay sự đau khổ khiến chúng ta xa lạ với chính mình, xa lạ với thế giới, với người khác và với giá trị sống của chúng ta. Kathy Charmaz cũng mô tả sự xa lạ ở những người mắc bệnh mãn tính để củng cố cho quan điểm đau khổ không chỉ giới hạn ở “sự khó chịu về thể xác”. Đó là lý do vì sao Kano Creta luôn có suy nghĩ rằng "tôi đã bị ai nguyền rủa độc địa, rằng đời thật không công bằng. Lẽ ra tôi có thể cứ tiếp tục cắn răng chịu đựng nếu những người khác trên thế giới này cũng phải chịu đau như thế, nhưng họ thì không". Bằng cách nghĩ này, Kano Creta đã tự tách mình ra khỏi cộng đồng, ra khỏi tập hợp của những cá nhân không phải chịu bi kịch của những cái Đau, rằng bản thân là kẻ ngoài lề, ngoại vi, kẻ bị nguyền rủa và cảm thấy ghen tỵ với những kẻ khác. Điều đó cũng khiến Creta đóng mình và không thể làm tình với bạn trai thời trung học, và việc cô phát tiết khi bạn trai cho rằng trần đời không có ai như cô và sau đó chia tay. Như vậy, cái Đau thể xác ở đây đóng vai trò như thứ đánh dấu sự cô độc và xa lạ với kẻ khác của Kano Creta. Cái Đau thể xác, cái Đau khuếch đại mọi cảm thụ đau thông thường ấy biến Kano Creta trở thành một trường hợp rất đặc thù, rất đặc biệt, rất cô độc, mà điều này rất khó để biểu đạt nếu xây dựng cái Đau tinh thần (vốn thường có sự gặp gỡ giữa các nỗi đau với nhau). Sự xa lạ với thế giới cũng được xem như “vô gia” theo khái niệm của Arendt: "Unhomelike being in the world" (tồn tại vô gia trên thế giới), đó là khi chúng ta cảm thấy bị lưu đày, lạc lõng khỏi thế giới, cảm giác như ta không thuộc về nơi nào và cũng không bao giờ có "chỗ" dành cho mình.
Hầu hết thiên hạ trên đời này sống mà chẳng mấy khi biết đến cái đau, ít nhất là không phải biết nó ngày ngày. Khi hiểu ra điều đó (hồi đó tôi mới lên trung học), tôi buồn đến nỗi cứ khóc mãi, không sao nín được. Sao lại là tôi kia chứ? Tại sao chính tôi chứ không ai khác phải chịu một gánh nặng khủng khiếp nhường này? Chính lúc đó, chính ở đó, tôi chợt thấy muốn chết.
Chính sự cô độc, xa lạ, và thù hận với thế giới đã thôi thúc Kano Creta năm 20 tuổi quyết định tự sát. Và chính trong sự tự sát này, một bản ngã mới xuất hiện. Cô lái chiếc Toyota MR2 của anh trai và đâm sầm vào một bức tường đá ở sông Tama ngoại ô thành phố với tốc độ 150 cây số một giờ. Nhưng thật không may, bức tường không rắn như cô nghĩ, và thế là cô thoát chết, với chiếc xe bẹp dúm. Lúc này, bản ngã khởi thủy với cái Đau bành trướng đã chuyển sang một bản ngã mới, bản ngã của sự vô cảm tuyệt đối với sự thoát lui của cái đau, ý chí sống, sinh lực thể xác và cả khả năng tư tưởng. Cái Đau biến mất, và Kano Creta lúc này không khác gì là một cái vỏ trống rỗng. Khi đi bộ, cô không cảm thấy chân mình chạm đất. Khi ăn, cô không cảm thấy mình đang nhai cái gì. Dù ngồi yên, cô cũng có cảm giác khủng khiếp là thân thể cô hoặc đang rơi mãi không ngừng hoặc đang trôi dưới quả bóng bay khổng lồ trong không gian vô tận.
Thân thể tôi nhẹ bỗng một cách đáng sợ. Nó nhẹ tênh, như không khí, như không còn là thân xác tôi nữa. Tôi cảm thấy như linh hồn mình đã nhập vào một cơ thể không phải của tôi. Tôi nhìn thân thể mình trong gương, nhưng giữa tôi với cái thân thể tôi trong gương kia là một khoảng cách xa vời vợi và khủng khiếp.
Tôi bắt đầu khóc rất nhiều. Buổi chiều tôi hay đến công viên – Vườn Hoàng gia Shinjuku hay công viên Yoyogi – ngồi trên bãi cỏ mà khóc. Tôi thường khóc suốt một, hai tiếng đồng hồ, nức nở rất to. Người qua kẻ lại nhìn tôi, nhưng tôi chẳng màng. Tôi ước gì lần ấy, đêm 29 tháng Năm, giá như tôi chết đi thì tốt biết bao! Nhưng bây giờ thậm chí chết cũng không chết được. Trong nỗi vô cảm này, thậm chí tôi không đủ sức tự giết mình. Tôi không cảm thấy gì hết: đau đớn không, niềm vui không. Mọi cảm giác và cảm xúc đã ra đi. Và tôi thậm chí không còn là tôi nữa.
Nguồn: Anna Alpatieva
Nguồn: Anna Alpatieva
Trong sự trống rỗng tuyệt đối này, cô làm công việc gái điếm để trả nợ cho anh trai cũng như bồi thường thiệt hại cho bức tường đá cho nhà thầu. Ngoài ý nghĩa bề mặt rằng đây là công việc giúp cô kiếm được số tiền lớn trong thời gian ngắn, nó còn mang ý nghĩa hiện sinh hơn - khao khát kết nối với kẻ khác của một con người cô đơn. Trong sự giao cảm thể xác, một con người cô đơn như Creta có thể xóa bỏ tường rào xa lạ và thù hận để kết nối, giao hòa với thế giới, với kẻ khác. Nhưng trong chính nỗ lực ấy tồn tại một nghịch lý hiện sinh, rằng con người càng cố gắng thoát khỏi nỗi cô đơn bằng việc kết nối kẻ khác, con người càng rơi vào vòng xoáy cô độc không lối thoát. Điều đó thể hiện qua việc Creta chẳng cảm thấy gì khi làm tình. Mất đi cái Đau tột cùng là vượt qua mặc cảm, nỗi đau, sự xa lạ với thế giới, ấy vậy mà chờ đợi Creta không phải hạnh phúc mà là sự trống rỗng, sự mất kết nối, một nỗi cô đơn còn lớn hơn khi cô ở bản ngã nguyên sơ. Mất đi cảm giác, cô cảm nhận như mình không còn là con người nữa. Không có gì để đánh dấu sự tồn tại nữa.
Cảm giác của thân thể trở lại vào khoảnh khắc cô bị làm nhục bởi Wataya Noboru - anh chồng của Toru và cũng là hiện thân của cái Ác, cái giả tạo, cái mục ruỗng trong tác phẩm. Và đó cũng là sự mở ra của lớp bản ngã thứ ba.
Cái đau ấy dữ dội đến hầu như không thể hình dung, dường như thể xác tôi bị xé làm đôi từ bên trong. Thế nhưng, dù đau đớn khủng khiếp là vậy, tôi quằn quại không chỉ vì đau mà còn bởi khoái lạc. Khoái lạc và đau đớn là một. Ông có hiểu ý tôi không? Đau đớn dựa trên khoái lạc, khoái lạc dựa trên đau đớn. Tôi phải hứng chịu cả hai như là một thể duy nhất. Trong cơn đau đớn và khoái lạc đó, thể xác tôi tiếp tục tách làm đôi. Tôi chẳng cách nào ngăn không cho điều đó xảy ra. Thế rồi một cái gì rất kỳ lạ xảy ra. Từ giữa hai nửa xác vừa tách đôi ấy của tôi bò ra một cái gì đó mà tôi chưa bao giờ thấy, chưa bao giờ đụng tới. Nó to thế nào tôi không biết, nhưng nó ướt và trơn như đứa trẻ sơ sinh. Tôi hoàn toàn không biết nó là cái gì. Nó vẫn luôn luôn ở trong tôi từ trước đến nay, nhưng tôi hoàn toàn chẳng hay biết gì về nó. Gã đàn ông này đã lôi nó ra khỏi tôi.
Thứ lỗi cho tôi vì đã trích một đoạn văn dài. Nhưng tôi tin rằng đoạn văn ấy đã lột tả rất rõ khoảnh khắc chuyển giao bản ngã của Creta. Trong sự giằng co giữa khoái lạc và đau đớn mà sự cưỡng hiếp bạo lực và khiếp đảm của Noboru mang lại, "một cái gì đó" trong Creta đã mở tung, bị lôi khỏi con người của cô. Điều này đã gây cho Creta một nỗi sang chấn lớn, một trạng thái chấn thương và những ám ảnh khó phai. Nhưng vì sao trạng thái chấn thương ấy lại mang đến cho Creta tác dụng ngược, rằng thay vì khiến cô lang thang trong cõi hư vô, thì lại khôi phục cảm giác và sự kết nối của cô với thân thể? Nói như Kano Malta, thì "cái tôi của em lúc đó không phải là cái tôi thực, cái tôi bản lai của em, thành thử biến cố kia lại có tác dụng ngược. Thay vì giam hãm em, nó lại giải phóng em khỏi trạng thái trung gian". Nói một cách đơn giản, cái Tôi lúc ấy của Creta không phải là cái Tôi thực, một cái Tôi có cảm xúc, tri giác, khát vọng - thứ sẽ bị đập vỡ tan tành, bị làm ô uế tới khiếp đảm trước sự cưỡng bức của Noboru. Mà là cái Tôi trung gian (để tiến tới bản ngã thực), cái Tôi vô cảm, không tồn tại hệ giá trị để bị vỡ nát, bóp nghẹt. Mà may mắn thay, chính trạng thái vô cảm đó, đã vỡ vụn, thoát lui, trả lại cái Đau, khoái lạc, hay cảm giác của thân-tâm. Bởi lẽ đó, Creta đã có thể lấy lại cảm giác, cảm xúc của mình. Thậm chí, ở bản ngã mới, cô khai phóng khả năng tách bạch cái đau của thân xác với bản thể của chính mình, nói cách khác là tách cái tôi phi vật chất ra khỏi cái tôi vật chất để không còn bị đè bẹp bởi cái đau:
Tôi nay đã có thể chia mình ra thành một cái tôi vật chất và một cái tôi phi vật chất. Miêu tả thế thì có thể hơi khó hiểu, nhưng một khi đã học được cách đó, ông sẽ thấy không khó chút nào. Mỗi khi cái đau xuất hiện, tôi lại rời khỏi cái tôi vật chất. Cũng như khi có ai đó xuất hiện mà ta không muốn gặp thì ta lẳng lặng bỏ sang phòng bên. Việc ấy rất tự nhiên. Tôi nhận thấy cái đau đã xuất hiện trên thân thể tôi, tôi cảm thấy sự hiện hữu của cái đau, nhưng tôi không ở đó. Tôi đang ở phòng bên. Thế là cái ách đau đớn không còn đè nặng tôi được nữa.
Ta có thể thấy rõ dấu vết của triết lý Phật giáo trong khả năng mới này của Creta. Làm chủ, quán chiếu cảm giác/cảm xúc, tách mình ra khỏi dòng chảy của những cảm nghiệm giác quan để lặng lẽ quan sát, ý thức và siêu việt nó. Vậy thì, đâu là ý nghĩa của tiến trình này?

Tôi sẽ đề ra hai ý nghĩa. Tuy nhiên, ở đây tôi sẽ chỉ đề cập đến ý nghĩa đầu tiên. Còn phần ý nghĩa thứ hai có liên hệ với đề mục số 2 tôi sắp sửa trình bày. Vì vậy, bạn có thể tìm kiếm ý nghĩa thứ hai trong phần 2 nhỏ của đề mục tiếp theo. Đến với lớp nghĩa thứ nhất, hai cái Tôi ban đầu của Creta là hai cái tôi của sự tuyệt đối hóa. Của cái Đau tuyệt đối và trống rỗng tuyệt đối. Và khi đã thể nghiệm tận cùng của khổ đau lẫn tận cùng của cái trống rỗng, con người mới khai phóng bản thể thực của mình. Nói cách khác thì bản thể thực "chui tọt" ra khỏi cơ thể sau một tiến trình con người thể nghiệm tất cả các chiều kích của cái Đau. Đó là lý do vì sao cái Tôi thứ ba được khai sinh trong sự nhập nhằng giữa hai trạng thái nỗi đau và khoái lạc (như sự phá vỡ trạng thái tuyệt đối hóa của hai cái Tôi trước). Và dù sao đi nữa thì không có điều gì đảm bảo rằng cái Tôi thứ ba là cái Tôi cuối cùng mà Kano Creta xác lập, hay trong hành trình xác lập cái Tôi Creta không đánh mất nguyên sơ. Chứng tỏ, hành trình con người là bất tận, là một tiến trình không ngơi nghỉ.
(Vâng và hãy tìm lớp ý nghĩa thứ hai trong phần sau đây)

"Điếm tinh thần" - "Điếm xác thịt"

1/ Trong mối tương quan với Okada Toru
Ranh giới giữa cái thực và cái ảo, giữa giấc mơ và thực tại trong cuốn tiểu thuyết được Murakami mờ hóa, như thể đưa độc giả vào trong một cuộc kéo co dữ dội và câm lặng mà trong đó ý thức đang thắng thế, đang dần dần lôi thể xác vào lãnh địa của nó. Trong giấc mơ của Okada Toru, cô nàng Kano Creta- từ vai trò “điếm xác thịt”, được chuyển hóa thành “điếm tinh thần” mà quan hệ thể xác với anh trong chiêm mộng. Khi ấy, một chức vụ, danh phận trong thế giới thực lại được hiện thực hóa trong giấc mơ, như thể ranh giới phân định giữa hai thế giới đã bị đập vỡ tan tành. Ta biết, vai trò của một “điếm xác thịt” là đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu và dục vọng của người tiêu dùng. Vậy tương tự, việc Kano Creta xuất hiện với tư cách là một “điếm tinh thần” trong giấc mơ của Toru đã phát lộ ẩn ức nào đó trong anh, một nhu cầu nào đó cần được thỏa mãn nhưng đang nằm ở vùng xám mà chính anh cũng không ý thức được. Xét về nhân vật Kano Creta, cô là người đã bị Wataya Noboru - anh chồng, và cũng là kẻ thù lớn nhất của Toru, xâm phạm, làm nhục, vấy bẩn. Tức, ở Kano Creta hàm chứa mầm mống tội ác của Noboru. Và tiếp cận với Creta, là tiếp cận với “điểm trung gian” với tội ác của Noboru. Như vậy, giấc mơ làm tình với Creta đã phát lộ một khao khát chạm tới cội rễ của cái Ác thông qua trung gian là Creta. Thế giới của Noboru là thế giới của ô nhục, bóng tối, thối rữa, và để tiếp cận được bóng tối, ta phải đi vào nó, ở trong nó, và đó là lý do mà Toru phải thực hiện hành vi “xâm phạm” đến thân xác Creta, hay nói cách khác là “vấy bẩn” Creta trong giấc mơ - như một sự dấn thân vào địa vực của cái Ác mà Noboru đã ký thác vào thân thể Creta. Đó là lý do vì sao kể từ khi quan hệ với Creta trong giấc mơ, anh mới có thể gặp được người đàn bà gọi anh qua điện thoại hay tìm thấy bản chất của Kumiko mà cô đã che giấu chồng, từng bước lột trần sự giả tạo hay cái Ác mà Noboru đang che giấu. Đó là khao khát sâu thẳm của Toru, hay của con người, trong việc chống lại cái Ác, cái mục ruỗng, cái bóng tối ở thế giới này. Song, soi chiếu góc nhìn khác, giấc mơ làm tình với Creta có thể là một “nghi lễ” gột rửa bản ngã mới của Toru. Creta bộc bạch với Toru rằng, việc quan hệ với Toru là một “điểm phân giới” để kết thúc bản ngã cũ của mình (điếm xác thịt) và tái sinh. Vậy, tương tự với Toru, đây có thể là một “điểm phân giới” để Toru kết thúc bản ngã cũ - một tên thất nghiệp vô dụng và vô hại, để trở thành một con người mới, một con người nắm quyền chủ động cuộc đời mình, con người mang sứ mệnh để chống lại cái Ác. Giấc mơ đã thể hiện khao khát lột bỏ bản ngã và tái sinh của Toru.
Ingmar Bergman’s “Persona” 1966
Ingmar Bergman’s “Persona” 1966
Ta cũng tìm thấy sự đồng điệu trong giấc mơ của lão Khúng trong “Phiên chợ giát” (Nguyễn Minh Châu) với Toru, cả hai giấc mơ đều phản ánh quá trình tự ý thức, tự phản tỉnh, để từ đó vươn tới bản ngã mới, mà với lão Khúng đó chính là con người tái nhìn nhận quan hệ của mình với tự nhiên, và với Toru đó là con người của quyền chủ động và tự cứu rỗi thế giới chính mình khỏi cái Ác. Tuy nhiên, không giống như giấc mơ thấy mình là hung thần đồ tể hủy diệt con khoang đen của lão Khúng trong “Phiên chợ Giát” (Nguyễn Minh Châu) - giấc mơ mang mầm mống của cái Ác đang nảy sinh, giấc mơ của Toru là giấc mơ chống lại mầm mống của cái Ác. Giấc mơ của cả hai nhân vật đều phản ánh tầng sâu vô thức, với những xung đột, ẩn ức, khao khát, mưu cầu của chính mình.
Nguyễn Minh Châu - tác giả "Phiên chợ giát"
Nguyễn Minh Châu - tác giả "Phiên chợ giát"
Song, Creta không chỉ làm tình với Toru trong giấc mơ, mà bước ra ngoài đời thực để giao hoan. Giống như việc Toru xem Creta như trung gian để tiến tới địa hạt của cái Ác, Creta xem Toru là trung gian để gột rửa tội lỗi của mình. Cô xem Toru là biểu tượng của trong sạch - đối lập hoàn toàn với người đã vấy bẩn cô - Wataya Noboru, và làm tình với Toru là cách để Creta gột rửa tội lỗi của một cô điếm mà trở về với danh nghĩa một người phụ nữ bình thường. Toru và Creta, cả hai đều xem đối phương là phương tiện để gột rửa và thanh tẩy, tiến tới bản ngã mới trong tiến trình làm người của mình. Điều đó cũng khiến tôi nghĩ đến sự cần thiết của kẻ khác trong hành trình hoàn thiện bản ngã của một cá nhân.
2/ Trong mối tương quan với cá nhân Kano Creta
Việc trở thành một "điếm tinh thần", bước vào lãnh địa chiêm mộng của những người khác nhau của Creta chính là mệnh lệnh của Kano Malta. Công việc của Creta là làm trung gian để tâm trí của người khác đi qua cô. Còn việc của Kano Malta là gán ý nghĩa cho những gì cô tìm thấy ở đó. Thế nhưng, vốn dĩ Malta không có ý định sử dụng Creta như một công cụ, mà đó là cách để giúp Creta khai phóng bản lai diện mục thực sự của mình. "Chị tin rằng bằng cách cho tâm trí hay bản ngã của nhiều người khác nhau đi qua tôi, chị có thể giúp tôi nắm chắc được “cái ngã” của chính mình. Ông có hiểu điều tôi nói không? Với tôi, nó có tác dụng như một thứ kinh nghiệm của người khác, qua đó tôi biết có một cái ngã là như thế nào." Bởi lẽ, kể từ khi sinh ra, Creta đã không hề có ý niệm về cái ngã, về ý chí cá nhân. Mục đích duy nhất của cái Tôi sơ thủy là tồn tại cùng với cái đau. Rồi đến năm 20 tuổi, sau sự kiện tự sát không thành thì Creta sống với sự vô cảm và trống rỗng như một cái xác biết đi. Và giờ đây thì cô không hề có một chút ý niệm về cái tôi cá nhân, mà chỉ đơn thuần "nắm được cái vỏ tối thiểu cần thiết để mang chứa tôi – chỉ cái vỏ mà thôi". Vì vậy, việc trở thành một "điếm tinh thần", thâm nhập và sục sạo tiềm thức của những cái Tôi khác nhau để nó đi xuyên qua mình, là cách Creta từng bước hình thành ý niệm về ngã, cái ngã sâu thẳm nhất, trần trụi, chân thực nhất ở cõi tâm hồn. Đó là lúc mà Creta biết thế nào là con người thực thụ.
Nguồn: Julia Wang
Nguồn: Julia Wang
Tôi nhận ra rằng suốt khoảng thời gian dằng dặc đó, con người gọi là “tôi” kia kỳ thực chẳng là gì sất. Tôi chẳng là gì khác ngoài một con điếm. Một con điếm thể xác. Một con điếm tinh thần. Tuy nhiên, bây giờ tôi muốn nắm chắc lấy cái tôi mới của mình. Tôi không còn là cái vỏ cũng không còn là vật trung gian nữa. Tôi đang cố xác lập bản thân mình ở đây, trên mặt đất này.
Đó là khoảnh khắc con người bắt đầu ý thức về bản thể như một tồn tại hiện sinh, có sự tự do và có quyền năng tự xác lập chính mình. Có thể nói rằng tiến trình 2 cái tôi trước là tiến trình của cuộc khủng hoảng hiện sinh, để Creta bắt đầu nhận thức được khao khát muốn sống, muốn "là mình", "là tôi", muốn kiến tạo chính tôi, muốn thoát khỏi trạng thái hư vô hay vô nghĩa của đời. Lúc này, Creta đã có ý niệm về cái Tôi cá nhân - thứ mà suốt thời gian trước đó cô không hề có. Hành trình của Creta là hành trình truy tìm bản thể, hành trình không ngừng thể nghiệm những bi kịch, những đau đớn, để cuối cùng đích đến của hành trình ấy là tìm thấy mình.
Nguồn: "Birth" - ARTMS
Nguồn: "Birth" - ARTMS
Như vậy, đây chính là lớp ý nghĩa thứ hai trong tiến trình 3 cái Tôi. 2 cái Tôi ban đầu là 2 cái Tôi vắng mặt của ý thức bản thể. Đến cái Tôi thứ 3, ý niệm về cái Tôi thực thụ mới được khai sinh. Con người lúc này không còn là tạo vật nhỏ bé trước thuyết thiên mệnh (một cái Đau định mệnh giáng xuống không thể thay đổi), không còn là một tồn tại cô đơn hậu tự sát với những nỗ lực vô vọng muốn kết nối với thế giới, mà là một con người chủ động, con người có ý thức, con người với khao khát muốn sống cho trọn vẹn.

Trên đây là những cảm nhận của tôi về nhân vật Kano Creta này. Series về thế giới huyền ảo trong cuốn tiểu thuyết này vẫn sẽ được tiếp diễn trên trang Spiderum của tôi. Tôi vẫn đang lưỡng lự về bài viết tiếp theo, rằng nên viết về "chim vặn dây cót", thế giới đáy giếng, người đàn bà bí ẩn, Wataya Noboru hay về gì. Nhưng tất nhiên câu trả lời sẽ có ở bài viết kế tiếp. Cảm ơn quý độc giả đã đọc bài viết của tôi.