Nhân duyên là tất cả các thành tố, nhân tố cấu thành nên vật, sự việc? Hay là nguyên nhân – kết quả?
Nếu nhân duyên là các thành tố, nhân tố cấu tạo của vật, việc. Vậy Thành công là một trạng thái tự thân hay là một cảm giác? Nếu thành công là trạng thái tự thân thì trạng thái này có nhiều thành tố, gom đủ thành tố, hội đủ nhân duyên, tích lũy đủ lượng đến một mức nào đó thì sẽ có chuyển biến về chất, và khi đó thành công sẽ đến; nhưng nếu thành công chỉ là một trạng thái tinh thần và không tồn tại độc lập tự thân khỏi cảm giác của con người thì sao?
Việc tách khái niệm “thành công” ra khỏi trạng thái tinh thần của con người và xem nó mang tính “khách thể”, có phải là việc tốt hay không? Vì khi thành công chỉ là một trạng thái tinh thần do chính con người tạo ra cho bản thân mình, không mang tính khách quan, không có thực tại cho riêng mình, thì nó chỉ liên quan đến cảm giác thỏa mãn hay hài lòng của con người, không phải là thứ con người buộc phải chạy theo hay buộc phải đáp ứng đủ điều kiện để có được.
Để có thể thành công, chỉ đơn giản là phải nhận ra rằng đó là trạng thái tinh thần do chính mình tạo ra. Vì vậy, mình không theo đuổi hay chạy theo nó, mà nên hiểu nó, nhận ra nó. Chừng nào còn xem thành công là trạng thái tự thân, là khách thể, con người khi đó vẫn còn lệ thuộc và phải “chạy theo” thành công, cho dù theo cách thức “hướng đích” (hướng kết quả) hay “hướng quá trình”.
Với việc lệ thuộc này, ngay cả khi “hướng quá trình”, bạn vẫn không thoát khỏi việc kì vọng vào một mục đích, bạn hướng quá trình không phải vì chính quá trình, mà vẫn chỉ vì đích đến là thành công, chẳng qua chỉ là gián tiếp thay vì trực tiếp mà thôi.
Và quan niệm “hội đủ nhân duyên” vẫn là một quá trình kỳ vọng hướng vào cái bên ngoài thay vì hướng vào nội tâm. Nếu “khách thể hóa” hoàn toàn các khái niệm “nhân duyên” và “thành công”, xem những quá trình này có một thực tế hay đúng hơn thực tại riêng tự thân nó, việc này sẽ dẫn đến hình thành tư duy “chạy theo” và tư duy lệ thuộc. Khi hiểu chúng là những thứ do chính bạn tạo ra, là những sản phẩm của tinh thần và cảm giác của mình, bạn mới chính thức được “giải thoát” khỏi sự lệ thuộc vào nó.
Học hỏi là quá trình hay kết quả?
Ta nên học hỏi kinh nghiệm của người đi trước hơn là thứ gì cũng tự bắt đầu lại từ đầu hoặc liên tục thử mà không có phương pháp. Nhưng cần nói thêm rằng, ngoài việc học hỏi kinh nghiệm cũng cần phải học hỏi “phương pháp tiến hành” hay “quá trình tư duy” của những người đi trước. Học là để trả lời câu hỏi “như thế nào” chứ không phải chỉ để trả lời câu hỏi “là cái gì”.
Bạn không cần ngồi chứng minh lại định lý Pythagoras, nhưng học cách chứng minh, học các bước tư duy khi Pythagoras chứng minh định lý này thì không bao giờ là điều thừa. Vì nếu không học “quá trình tư duy”, bạn sẽ không bao giờ biết cách tư duy tạo ra cái mới, hay thậm chí không đủ hiểu những kết quả - những kinh nghiệm của người khác để áp dụng cho đúng.
Khuyết điểm lớn nhất của giáo dục nước ta hiện nay chính là chỉ dạy học sinh tiếp thu những kết quả, thuộc lòng những định lý, những lý thuyết mà không hề dạy học sinh phương thức tư duy sao cho hợp lý. Một trong những lý do người trẻ rất dễ bị quay cuồng hay rối loạn trong vô vàn những sách vở dạy lý thuyết, kỹ năng…. mà không thể định hướng được cho mình hay tìm thấy con đường hiện thực hóa ước mơ của mình hay thậm chí không biết nên tin vào đâu là vì họ thiếu phương pháp tư duy, thiếu khả năng phản biện, phê phán.
Descartes từng nói: “Khoa học chính là cách thức tiến hành nghiên cứu đối tượng chứ không phải là kết quả đạt được với đối tượng đó”. Điều này đúng cho mọi khoa học dù là tự nhiên hay xã hội hay thậm chí là triết học và thần học.
Bàn về “Vô ngã”
Cảnh giới Vô Ngã của nhà Phật không chỉ đơn thuần lý giải bằng cách cho rằng đó là “không có hoặc không còn cái Tôi”. Trước khi học cái Vô, phải hiểu cái Hữu. Cái Hữu là cái hiện diện ở ngay chính trước mắt , hằng ngày hằng giờ, ở tất cả mọi vật xung quanh, nếu không học hiểu được cái Hữu, thì cái Vô mà bạn biết thật ra cũng chỉ là một cái Hữu nào đó khác được ngụy trang một cách khéo léo.
Người ta không thể chạm tới cảnh giới Vô hình khi mà người ta còn chưa thể nắm bắt được hiện thế của mình. Ngay khi định danh cái Vô Ngã, đã ngay lập tức hàm chứa cái “Hữu” của mình, cái Tôi của mình ngay trong đó rồi. Vô là gì? Bất kể một cố gắng nắm bắt hay định nghĩa cái Vô nào đều sẽ lại rơi vào cái Hữu, đều sẽ phải dựa vào cái Hữu.
Trước khi muốn đạt tới bất cứ cái Vô nào, hãy hiểu thật rõ cái Hữu đã, trước khi muốn buông bỏ bạn phải học cách nắm bắt, trước khi muốn từ bỏ cái Tôi, bạn phải hiểu cái Tôi của mình thật rõ ràng.
I. Phần Hữu - Những thứ bề ngoài, nắm bắt nhìn nhận được ngay tức thì
Có hai anh chàng cùng được nhận việc tại một nơi vào cùng một ngày (tạm gọi nơi đó là tập đoàn -X-).
Anh A: Một nhân viên bán hàng cấp cao, vẻ ngoài rất điển trai, giỏi ăn nói cùng với kinh nghiệm làm việc trên 5 năm có thể ăn mặc chỉn chu đi tiếp khách, nhậu nhẹt rồi kí hợp đồng được ủy quyền bởi Sếp của mình. Đúng là việc nhẹ lương cao. Chỉ việc ăn mặc đẹp rồi đi chém gió & ăn uống cùng khách hàng theo kịch bản của phòng giao cho.
Anh B: Một sinh viên kĩ thuật đang thực tập và chưa ra trường, vẻ ngoài khá gầy gò ốm yếu, phải vất vả lắm mới vượt được qua hết các ứng viên nặng ký để có thể bắt đầu làm việc ở đây. Lý do anh B được nhận thực sự đơn giản, đó là CV tốt và làm việc fulltime không lương trong 6 tháng. Công việc khởi điểm của anh ta là xử lý những vấn đề khi có máy tính & các thiết bị điện tử khác khi gặp sự cố. Đúng là một con người tẻ nhạt với công việc vớ vẩn vì luôn phải ngồi lì trong phòng đặt máy chủ nóng nực và thiếu không khí - suy nghĩ của bất kỳ ai khi gặp cậu ta lần đầu trong công ty.
Chúng ta cùng tua lại 1 tuần trước đó, để xem lý do gì khiến A & B nộp đơn xin việc tại đây.
II. Phần Vô - Những thứ nằm bên trong tâm trí/ cảm xúc hoặc có thể gọi là tâm/ tâm niệm/ ý niệm/ ý khởi/ chánh niệm (ngôn ngữ nhà Phật)...
(Trong ví dụ này, phần Vô có trước, phần Hữu có sau)
Anh A: 27 tuổi, sắp kết hôn và cần chuẩn bị một khoản tiền lớn trong 1 năm tới nên quyết định nghỉ việc chỗ làm cũ & nộp đơn xin việc tại tập đoàn X. Đối với anh, việc rượu beer và chém gió gần như là một kĩ năng bẩm sinh (có lẽ do gene di truyền từ ông bố), cộng thêm diện mạo bề ngoài khiến đối phương-cho dù là bất kỳ ai cũng đều bị thuyết phục và khó lòng chối từ. Có lẽ cô nhân sự tóc vàng phỏng vấn anh cũng bị anh thôi miên mất rồi.
* Phần Vô của anh A này là: Tiền, người đẹp & hưởng thụ (đi nhậu hợp đồng mà không có người đẹp vịn thì hơi phí)
Anh B: 21 tuổi, sắp ra trường, cần tìm kiếm một công việc đúng với chuyên môn của mình & trách nhiệm không quá nặng nề, nên đã quyết định đi thử sức ở một vài tập đoàn lớn bởi trong suốt quá trình làm sinh viên, anh không ít lần giúp mấy ông thầy trong việc sửa chữa máy tính của thư viện, thậm chí là cả máy tính ở trong phòng hiệu trưởng nữa. Chưa kể tới đám bạn bè xung quanh, mỗi lần hỏng Win là lại bê nguyên con case sang tận nhà anh để nhờ sự trợ giúp. Hơn 3 năm làm sinh viên, số máy tính mà anh sửa chữa giúp đỡ mọi người còn nhiều hơn cả số máy tính trong tập đoàn X.
* Phần Vô của anh B này là: Thích giúp đỡ người khác bằng chính khả năng của bản thân, anh chẳng quan tâm nhiều tới tiền bạc bởi nó không khiến anh vui & hãnh diện bằng việc phẩy tay một cái là nỗi ám ảnh về máy tính hoặc các thiết bị điện tử của bất kỳ ai cũng đều tan biến. Đối với người không có kiến thức về máy tính, thì anh ta đúng là một vị thần cứu thế. Đối với tập đoàn X thì đây còn là một món hời lớn nữa, vì CV/ Portfolio của anh B này chứng minh rằng nó tương đương và chắc chắn đắt giá hơn cả anh A nhưng anh B lại chẳng hề nhận lương trong 6 tháng đầu. Đối với anh, thử thách nào càng không thể vượt qua, anh lại càng thề sẽ vượt qua (tố chất khá giống với Thái tử Nepal năm xưa), nhất là khi điều đó giúp anh hạnh phúc khi được giúp đỡ người khác.
III. Phần Quả - từ Vô sinh Hữu mà ra (tư duy dẫn tới hành động tạo ra kết quả). Hay nói cách khác xa hơn rằng:
[6 tháng sau]
Anh A đã từ bỏ một công việc ổn định ở công ty cũ trong vòng 5 năm để đến với một tập đoàn lớn. Tất nhiên lương cao hơn thì trách nhiệm càng nặng nề, lúc này cũng là lúc anh chuẩn bị kết hôn, mọi thứ khá dồn dập & anh gần như bị trầm cảm đến mức kiệt quệ vì áp lực đi nhậu ở đây lớn hơn ở chỗ cũ. Người vợ sắp cưới thường xuyên không được gặp anh, hoặc có gặp cũng trong lúc anh vừa đi kí hợp đồng về, nồng nặc mùi beer rượu và trong trạng thái say xỉn.
Anh B trong 6 tháng thực tập, vẫn giữ phần Vô như những ngày theo học ở trường, nên giờ đã được chuyển qua bộ phận trưởng kỹ thuật & có vài nhân viên cấp dưới lớn tuổi hơn làm phụ tá. Công việc ban đầu nặng nhọc nhưng giờ đây rất nhẹ nhàng, bởi việc duy nhất anh làm hiện giờ là chỉ cần có mặt khi có sự cố mới & đảm bảo cấp dưới của mình thực hiện tốt những gì anh ta đã thực hiện trong 6 tháng qua. Anh B quay trở lại trường để nộp chứng chỉ thực tập & quyết định làm bạn luôn với mấy ông thầy ngày xưa (trở thành giáo viên của trường), một phần vì anh yêu mến họ vì họ đã chỉ bảo tận tình cho anh từ những ngày đầu, một phần vì họ cũng yêu mến anh, phần còn lại chắc là vì câu chuyện thế gian vô thủy vô chung (không có khởi đầu, cũng không có kết thúc), vạn vật xoay vần.
Tặng bạn bài thơ [Kệ vân
] của Trần Nhân Tông năm xưa
Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên,
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
(Dịch nghĩa
)
Sống giữa phàm trần, hãy tuỳ duyên mà vui với đạo
Đói thì ăn, mệt thì ngủ
Trong nhà sẵn của báu, đừng tìm đâu khác
Đối diện với mọi cảnh giới mà vẫn vô tâm, thì cần chi hỏi thiền nữa.
* Trong nhà sẵn của báu nghĩa rằng: bên trong mỗi con người, chúng ta đều tự biết chúng ta là ai, có thể làm được gì & trở thành gì. Lựa chọn là của riêng mỗi người, bởi không có Chúa/ Phật/ Thần Thánh nào trừng phạt bạn vì bạn không tới nhà Thờ hay Chùa Chiền và quỳ lạy cả. Thượng đế lớn nhất, nằm trong tâm trí mỗi người.
* Vô Tâm ở đây nghĩa rằng: cho dù bất kỳ hoàn cảnh nào, tâm can vẫn giữ được ý niệm ban đầu, không lung lạc. Mà muốn vô tâm thì phải nắm bắt được cái Hữu trước đã, bởi như anh chàng A, anh ta còn chẳng hiểu cái Hữu của anh ta, thì làm sao anh ta nhận ra phần Vô của chính mình?