Khi Chiến Thần Lạc Hồng ra mắt, có một sự thay đổi rõ rệt đang dần nổi lên, nhưng ai nấy cũng đều bỏ ngỏ. Đó là cách gọi cho 18 vị vua Hùng. Trong những năm gần đây, thay vì được gọi là Hùng Vương từ I-XVIII như ở các câu chuyện cổ tích ngày xưa, giờ đây mỗi người trong số họ đều mang trong mình một thụy hiệu riêng biệt. Nổi bật nhất vẫn là Hùng Duệ Vương, bởi vì đây là vị vua Hùng có liên quan tới series Chiến Thần Lạc Hồng và là người gắn liền với nhiều sự tích hơn cả.
Vậy những cái tên này từ đâu mà ra, từ khi nào nó lại thay thế việc gọi các vua Hùng theo thứ tự?

I - Quá trình thay đổi

Việc đặt thụy hiệu cho các vua Hùng thực ra không có gì là mới cả. Ngay từ những năm 2000, đã có lác đác một số bài viết đặt tên cho họ. Nhưng đa số đều có chất lượng khá thấp, mức độ ảnh hưởng chỉ như gió thoảng qua tai. Cách gọi khi đó cũng không thống nhất, khi thì đó là tên của một cá nhân, nhưng cũng có lúc đó là một triều đại trải qua nhiều đời vua tùy theo cách diễn giải của từng bên. Chẳng hạn như một bài blog về họ Ma năm 2005, có ghi như sau :
Vào thời Hùng Vương chi thứ 18, đời Hùng Duệ Vương thứ I (theo Ngọc phả họ Ma thì Hùng Vương thứ 18 có ba đời ) bộ tộc người Tày họ Ma ở chân núi Ðọi Ðèn huyện Cẩm Khê do Ma Khê là tộc trưởng đã triệu tập binh mã giúp Hùng Vương đánh thắng giặc, giữ yên bờ cõi cho nước Văn Lang. Ma Khê được Hùng Duệ Vương phong chức “Ðại tướng quân” trấn giữ phía tây thành Phong Châu. Ðến đời Hùng Duệ Vương thứ II, do tài đức và lập nhiều công lớn, ông lại được Vua phong “Phụ Quốc Ma Vương Ðại Thần Ðại Tướng Quân”.
Một đoạn trích nói về Hùng Duệ Vương từ một bài viết về họ Ma. Nguồn
Hay tờ Du lịch Đan Phượng có ghi :
"Sự tích về thần được kể rằng: Vào triều vua Hùng thứ 18, Hùng Duệ Vương định đô tại Việt Trì, Bạch Hạc. Vua là bậc hiền tài, giỏi thao lược, thánh triết phong tư, trong tu văn đức, ngoài gìn giữ biên cương, chăm lo cho muôn dân không nơi nào phải lầm than, đáng nối nghiệp 17 đời vua trước."
Những bài viết trên đều là có uy tín tương đối thấp, không mấy tiếng tăm. Trong khi đó, những tờ báo nổi tiếng hơn, chẳng hạn như báo Nhân Dân lại không hề nhắc đến tên của 18 vị vua Hùng, trừ Kinh Dương Vương vốn xuất hiện rất phổ biến trong văn hóa đại chúng :
"Hùng Linh Công là cháu của Vua Hùng, ngài có công diệt hổ lang, thú dữ cứu dân, cùng Thiên Vương Phù Ðổng diệt giặc Ân giữ nước. Trong đền Y Sơn còn bức hoành phi khắc ba chữ Hán: "Hùng hữu duệ" (Họ Hùng có người nối dõi)."
Nguồn : Báo Nhân Dân
Nếu gõ 18 đời vua Hùng và đặt mốc thời gian là từ trước 2010 trở đi, ta sẽ gần như không bao giờ thấy thụy hiệu của các vua Hùng trừ khi viết thẳng cái tên đó ra
Nếu gõ 18 đời vua Hùng và đặt mốc thời gian là từ trước 2010 trở đi, ta sẽ gần như không bao giờ thấy thụy hiệu của các vua Hùng trừ khi viết thẳng cái tên đó ra
Nhưng kể từ 2018-2019 trở đi, với sự trỗi dậy của các thuyết liên quan đến thời Hồng Bàng, thì tên của 18 vị vua Hùng cũng len lỏi dần vào những bài viết trên báo mạng. Để rồi khi chiến thần Lạc Hồng được công bố, họ sử dụng những cái tên này thay vì gọi là Hùng Vương nói chung.
Chỉ với một từ khóa 18 đời vua Hùng, có thể thấy đâu đâu cũng nhan nhản thụy hiệu của họ
Chỉ với một từ khóa 18 đời vua Hùng, có thể thấy đâu đâu cũng nhan nhản thụy hiệu của họ

II - Nguồn gốc cái tên vua Hùng

Những bài báo trên mạng thời những năm 2010 trở về trước nói về tên của 18 vị vua Hùng thực ra không phải không có cơ sở. Bởi vì chúng bắt nguồn từ một cuốn ngọc phả thời nhà Lê, do Hàn lâm trực học sĩ Nguyễn Cố Phụng soạn vào năm Hồng Đức nguyên niên (1470). Tại đền thờ Hùng Vương, có một tấm bia đá do chính quyền tỉnh Phú Thọ dựng nên chép lại danh sách tên của 18 vị vua Hùng. Nguồn gốc nó dựa vào cũng là từ cuốn ngọc phả kia mà ra. Chính tấm bia đá ấy, là cơ sở cho danh sách tên của 18 vị vua Hùng xuất hiện nhan nhản trong các tờ báo mạng sau này.
Danh sách 18 vua Hùng tại đền Hùng
Danh sách 18 vua Hùng tại đền Hùng
Tuy nhiên, ngoại trừ Kinh Dương Vương, những nguồn sử liệu bên cạnh Ngọc Phả Hùng Vương đều không thấy đề cập tới thụy hiệu của họ. Chẳng hạn như Đại Việt Sử Ký toàn Thư chỉ gọi là vua Hùng nói chung, không có thụy hiệu cụ thể trừ Kinh Dương Vương. Hay Đại Việt Sử Lược cũng y chang vậy. 
Trong cuốn Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim có viết như sau :
Xét từ đời Kinh-dương-vương đến đời Hùng-vương thứ 18, cả thảy 20 ông vua, mà tính từ năm nhâm-tuất (2879) đến năm quí-mão (258 trước Tây-lịch) thì vừa được 2622 năm. Cứ tính hơn bù kém, mỗi ông vua trị-vì được non 150 năm! Dẫu là người đời thượng-cổ nữa, thì cũng khó lòng mà có nhiều người sống lâu được như vậy. – Xem thế thì đủ biết truyện đời Hồng-bàng không chắc là truyện xác thực." - Việt Nam Sử Lược CHƯƠNG I Họ Hồng-Bàng (2879-258 trước Tây Lịch)
Đến đời Trang Vương nhà Chu (696-682 trước Công nguyên-ND)8 ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật qui phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương đóng đô ở Văn Lang, đặt quốc hiệu là Văn Lang, phong tục thuần lương chơn chất, chính sự dùng lối thắt gút. Truyền được 18 đời đều xưng là Hùng Vương.
Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang (nước này đông giáp biển Nam Hải, tây đến Ba Thục, bắc đến hồ Động Đình, nam giáp nước Hồ Tôn, tức nước Chiêm Thành, nay là Quảng Nam), chia nước làm 15 bộ là: Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Tân Hưng, Cửu Đức; đều là đất thần thuộc của Hùng Vương; còn bộ gọi là Văn Lang là nơi vua đóng đô. Đặt tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc Tướng (chữ Lạc Tướng, sau chép sai là Hùng Tướng). Con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mị Nương. Quan coi việc gọi là Bồ Chính, đời đời cha truyền con nối, gọi là phụ đạo. Vua các đời đều gọi là Hùng Vương.

III - Độ khả tín

Xét về tính lịch sử, ngọc phả Hùng Vương là thứ không nên dùng làm tư liệu tham khảo. Bởi vì nếu không phải là một dòng họ thịnh vượng nhiều đời hoặc có truyền thống ghi chép gia phả, thì ngay cả những phả hệ từ thế kỷ 18 đổ lại cũng khó mà đảm bảo tính xác thực, chứ đừng nói là hơn 2000 năm. Hơn nữa ngọc phả này là do người thời Nhà Lê đặt, với phong cách đậm tính thụy hiệu vốn chịu ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Hoa, chứ không dựa trên bất cứ thứ gì của thời Hồng Bàng. Ngay cả kỷ Hồng Bàng lẫn danh hiệu Hùng Vương hiện nay đa số đều coi như là một dạng dã sử, thì nói chi thụy hiệu của các vua Hùng.

Cách đặt tên như trên hoàn toàn trái ngược với những cái tên khác do đời sau đặt, chẳng hạn như Trụ Vương hoặc Byzantine. Cả hai cái tên kể trên đều dựa trên khảo cổ, tư liệu lịch sử và được sử sách ghi lại. Trụ Vương là tên xấu do nhà Chu đặt, còn thụy hiệu thật của ông ta là Đế Tân. Cái tên này không chỉ được viết trong sử Chu, mà các tác phẩm lịch sử Trung Hoa sau này hễ khi nói đến nhà Thương đều nhắc đến nó. Trong khi đó cái tên Byzantine lại được sử gia đời sau đặt cho Đông La Mã dựa trên tên gọi cũ của kinh đô Constatinople. Chúng đều vượt xa tên của các vua Hùng cả về độ khả tín lẫn tính xác thực.
Chưa hết, tác giả của cuốn ngọc phả Hùng Vương cũng có vấn đề nghiêm trọng. Theo như các nguồn thông tin cho biết, ngọc phả Hùng Vương được viết bởi Nguyễn Cố Phụng, một cái tên lạ hoắc không ai biết đến. Tiểu sử, năm sinh năm mất không có, quá trình viết ngọc phả, hay nguồn tư liệu cho ông ta tham khảo là từ đâu cũng biệt tăm không một dấu vết. Nếu như không tra cứu ngọc phả Hùng Vương, thì chẳng ai biết là con người này có tồn tại. 

Thậm chí ngay cả các sử gia Việt Nam khi nói về thời Hồng Bàng cũng không ai dám sử dụng những cái thụy hiệu trong ngọc phả để nói về các vua Hùng. Tiêu biểu là cuốn "Các Triều Đại Việt Nam" của hai cố tác giả Quỳnh Cư và Đỗ Đức Hùng, vốn chỉ nhắc đến vua Hùng nói chung mà thôi. Hoặc Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim ở đoạn kể trên.
Người con trưởng trong số các con theo mẹ lên Phong Sơn, được tôn làm vua gọi là Hùng Vương. Năm chục người theo mẹ về núi, năm chục người theo cha về biển, chia nhau thống trị các xứ, đó là thủy tổ của các nhóm Bách Việt. Người con trưởng trong số các con theo mẹ lên Phong Sơn, được tôn làm vua gọi là Hùng Vương.
Không chỉ lịch sử, mà ngọc phả Hùng Vương còn không có giá trị sử dụng làm tư liệu xét theo mặt dã sử. Bởi vì ngoại trừ Kinh Dương Vương ra những cái thụy hiệu còn lại đều chỉ được nhắc đến thông qua Ngọc Phả Hùng Vương.
Những câu chuyện thần thoại hoặc tác phẩm dã sử liên quan tới thời Hồng Bàng khác tuyệt nhiên không ai nhắc đến chúng. Mọi người chỉ đơn thuần gọi là các vua Hùng từ I-XVIII, không ai sử dụng những cái tên trong ngọc phả. Đó là còn chưa kể đến việc Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân (Lạc Long Quân được coi là Hùng Hiền Vương trong ngọc phả) là ông nội và cha của Hùng Vương thứ nhất, chứ không phải là hai vua Hùng đầu tiên như ngọc phả Hùng Vương nói đến.
Ngày xưa, thời vua Hùng Vương, đất nước ta có núi cao, có sông rộng, trời đẹp nắng vàng, nhưng đồng ruộng thưa thớt, hoa quả chưa có nhiều thứ thơm ngọt như bây giờ. Vua Hùng Vương thứ mười bảy có một người con nuôi là An Tiêm có tài tháo vát và có trí hơn người. - Sự tích trái dưa hấu
Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái đẹp tuyệt trần, tên là Mị Nương. Nhà vua muốn kén cho công chúa một người chồng tài giỏi. Một hôm, có hai chàng trai đến cầu hôn công chúa. Một người là Sơn Tinh, chúa miền non cao, còn người kia là Thủy Tinh, vua vùng nước thẳm. - Sơn Tinh, Thủy Tinh
Vào thời Hùng Vương, có một người đàn bà đã nhiều tuổi nhưng sống một mình và không có con. Một sáng nọ bà đi thăm nương, bỗng nhìn thấy một vế chân giẫm nát cả mấy luống cà. - Thánh Gióng
Nếu có ai hỏi ngọc phả Hùng Vương có giá trị gì không, thì xin thưa đó là nó chỉ phản ánh mức độ ảnh hưởng của văn hóa lễ nghi Trung Hoa lên Việt Nam vào thời điểm nó được viết ra. Còn lại thì không có gì hết.

IV - Tổng kết

Thông qua những tư liệu trên đã chứng minh một sự thật rõ ràng, ngoại trừ Kinh Dương Vương, thụy hiệu của 18 vị vua Hùng trong ngọc phả Hùng Vương chỉ phản ánh ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa lên Việt Nam vào thời điểm nó được viết, chứ không phải là tư liệu thần thoại hay lịch sử. Việc các fanpage thi nhau gọi các vua Hùng bằng tên, về căn bản cũng chỉ giống như việc lan truyền thông tin người thời Văn Lang Âu Lạc đóng khố cởi trần mà thôi. Thậm chí vào năm 2021 đã có người lên bài chỉ trích bảng thụy hiệu của 18 đời Hùng Vương nói trên :
Cho nên nếu có gọi tên vua Hùng, thì chỉ nên gọi theo thứ tự, chớ nên gọi theo thụy hiệu. Nguồn tham khảo :