(Bác sỹ Riddle ngoại truyện - y tá Mimi)
Trời đã chuyển từ hạ sang thu. Mây đã mỏng hơn, gió đã nhẹ hơn và trái táo giòn hơn như những chiếc lá khô úa. Nơi phố thị tấp nập, ai nào thèm để ý tới những thay đổi nhỏ nhoi thường lệ như thế.
Tôi là Carl và đã đến đây được hơn hai tuần. Cái thành phố Luis thơ mộng này êm đềm quá. Những lúc rảnh tay rỗi óc, tôi ngẩng đầu lên và lần nào cũng bị hớp hồn bởi một thứ gì đó: một khúc sông bình lặng trôi, một chiếc lá khẽ rơi, một chú bồ câu vẫy cánh gọi bạn, hay chỉ đơn giản là một cô gái quàng lại chiếc khăn voan. Mọi thứ đều đẹp đến mê hồn, đều cuốn hút đến quên hết cả những điều thú vị trước kia. Chẳng khó để bắt gặp những bóng người đứng ngồi lặng lẽ ở một góc nào đó trong thành phố, mắt nhìn xa xăm vào một điều gì đó như ở tận cùng miền ký ức.
Tôi là một bác sỹ, bác sỹ truyền thông. Tôi cùng một đoàn các bác sỹ từ Hiệp hội y khoa chuyên về bệnh hiếm gặp, đến đây để thăm khám, trò chuyện, và nhất là chia sẻ những mẹo vặt y tế cho những con người ở đây. Ngày ngày, chúng tôi chia nhau ra. Tốp thì đến diễn thuyết ở hội trường các trường đại học. Tốp thì đến các bệnh viện thăm khám miễn phí cho các bệnh nhân, truyền thụ kinh nghiệm cho các bác sỹ địa phương. Còn nhóm khác thì chọn những nơi như quảng trường hay tu viện làm điểm dừng chân. Tại đó chúng tôi chỉ nói chuyện về bệnh tật với những người dân nơi đây, chia sẻ cho họ những mẹo vặt hay ho trong cuộc sống. Bằng sự thân thiện và tận tình của tất cả chúng tôi, người dân trong thành phố chẳng mấy chốc mà đã yêu quý những con người xa lạ. Mỗi nơi chúng tôi ghé qua, họ đều chào đón chúng tôi trong niềm háo hức đến nồng nhiệt, chờ chúng tôi đến thăm khám hay kể cho họ nghe những điều hay ho về y tế.
Trong đoàn, tôi được đánh giá là người có trình độ tốt thứ hai chỉ sau một vị giáo sư đã gần bẩy chục tuổi. Nhưng khác với ông ấy, công việc của tôi không phải là đến thăm khám ở các bệnh viện. Tôi thường đến những khu hội chợ, quảng trường hay tu viện nhà thờ để kể về những chứng bệnh hiếm gặp, những trường hợp y khoa hi hữu. Người ta đến nghe tôi nói chuyện chẳng khác gì đến sở thú, thay vì để xem những con vật lạ là để nghe những câu chuyện kỳ thú xen lẫn chút rùng rợn ma quái. Cũng vì thế mà tên tuổi tôi được nhiều người dân nơi đây biết đến và săn đón hơn
Buổi sáng hôm ấy, tôi nhận được một tin nhắn được chuyển tới từ bên truyền thông. Có một người muốn tôi trực tiếp khám bệnh mà nằng nặc xin bằng được một cuộc hẹn. Đã lâu cũng chưa có dịp được hành nghề, tôi cũng gật đầu ngay và hẹn người ấy đến căn hộ mà tôi đang thuê tạm.
Cuộc hẹn được ấn định vào hai rưỡi chiều nên buổi sáng tôi tranh thủ không có lịch đi diễn thuyết mà đến thăm nhà một anh chàng đồng nghiệp. Phải thú thật rằng anh ta chính là bí mật lớn nhất của đời tôi, bác sỹ Riddle. Anh chàng kém tôi cả chục tuổi nhưng tài năng đã vượt xa cả những bác sỹ lâu năm trong nghề. Anh chàng theo tôi đến đây vì lời cầu khẩn của chính tôi. Tôi cần vị hậu bối này ở cạnh mình để thường xuyên tham vấn ý kiến của anh ta về những ca bệnh khó. Không phải vì tôi không tin tưởng vào năng lực của chính mình mà là vì làm gì có cái năng lực nào để mà tin tưởng.
Tôi sinh ra trong một gia đình giàu có nhưng thất học đã nhiều đời. Ông tôi, cha tôi khát công danh, trí thức như con người ta khát nước giữa sa mạc. Vì vậy mà gia đình chăm bẵm cho tôi đủ đầy từ tấm bé. Mọi ngôi trường danh giá, mọi gia sư tài giỏi đều được vàng bạc dẫn lối tới để gắn kết với tôi. Nhưng đời không như là mơ. Tôi vốn chỉ thuộc hạng học hành làng nhàng, đầu óc cũng chẳng phải thông minh siêu việt nên thầy tốt, trường tốt cũng chỉ giúp tôi theo kịp được chúng bạn, hoặc chí ít là không bị bỏ lại quá xa. Tiền của gia đình đổ vào sự học cho tôi không giúp tôi trở thành kiệt xuất. Thế rồi, tôi ra trường với tấm bằng khá trên tay. Vì tốt nghiệp một trường danh giá, tôi được nhận ngay vào một viện nghiên cứu lớn. Tôi bắt đầu hiện nguyên hình ở đó khi suốt mấy năm liền không ra nổi một đề tài nghiên cứu ra hồn.
Vận may đến với tôi khi gặp được Riddle. Lần đó cậu ta tìm đến tôi và trao cho tôi một đề tài nghiên cứu quái đản. Riddle muốn tôi nộp đề tài đó lên để đưa vào y tích. Cậu chàng nhờ tới tôi vì cậu ta là người ngoài, và muốn được nghiệm thu thật nhanh thành tựu y khoa ấy để cứu một ai đó. Tôi vốn thật thà nên cũng đồng ý ngay không cht do dự. Từ sau lần ấy, chúng tôi hiểu nhau hơn. Cả hai phát hiện ra rằng chúng tôi đều có chung một tấm lòng lương y sạch sẽ không tì vết.
Từ đó, mỗi khi có công trình nghiên cứu nào, Riddle lại mượn tên tôi để công bố. Tôi nhận anh chàng làm học viên để thay tôi bảo vệ đề tài. Những nghiên cứu trấn động về y khoa của Riddle ngay lập tức khiến tôi nổi tiếng. Tôi được đẩy lên hàng tốp, trở thành bác sỹ đầu ngành về những chứng bệnh lạ. Đó là vì Riddle vốn chẳng chịu ở yên một chỗ. Anh ta ưa lang thang khắp nơi để dò hỏi về những căn bệnh kỳ quái trong nhân gian. Anh ta coi đó như một hành động tạo nên lá chắn từ xa cho giống loài. Tôi cũng không lấy đó làm phiền. Qua những nghiên cứu mà cậu chàng gửi cho mình, tôi biết Riddle là một người có trái tim trong sáng.
Khi đến đây, tôi chủ động thuê riêng hai căn hộ ở khá gần nhau cho tôi và Riddle. Trong đoàn cũng có vài người làm vậy với lý do muốn tìm sự yên tĩnh hoặc  đơn giản chỉ là muốn hoà mình vào thành phố này mà thôi.
Tôi kể cho Riddle nghe về cuộc hẹn của mình. Anh có vẻ lấy làm thích thú và bảo tôi không nên làm lỡ cuộc hẹn ấy. Anh cho rằng đó có thể là một cuộc hẹn rất thú vị nên sẽ thu xếp công việc để nếu tôi gọi là anh sẽ đến ngay.
Tôi rời nhà Riddle và đi ăn ở một nhà hàng nhỏ bên bờ sông Ti sô. Được ăn những miếng thịt bò mềm sụm, cắn chảy nước sốt, lại còn được ngắm những cánh hải âu trao lượn trên sóng nước xanh. Thật không còn có gì bình yên đến thế.
Tôi trở về nhà khi đã gần đến giờ hẹn. Vừa mở cổng thì đã thấy một ngườì tiến lại và mở lời bằng một giọng trầm khàn:
- Thưa ngài, ngài có phải là bác sỹ Carl chuyên về những chứng bệnh lạ không ạ?
Tôi nhướn cặp lông mày qua đôi kính khi gật đầu xác nhận. Trước mặt tôi là một bà lão nhăn nhúm già nua trong một bộ đầm trắng giản dị. Hai tay bà cụ cầm một chiếc ô nhỏ màu trắng và một cái cặp da nhỏ màu đen dày cộm.
- Phải, chắc quý bà là người đã hẹn tôi chiều nay?
Bà lão gật đầu và bước lò dò theo tôi về phía cửa. Tôi mở cửa và bước vào trong nhà. Bà lão theo sau với cái lưng còng run rẩy. Tôi mời bà ngồi vào chiếc ghế êm ái nhất cạnh lò sưởi và quay đi tìm chút đồ uống. Tôi chỉ kịp thấy đôi mắt bà cụ nhìn tôi chăm chăm như muốn đánh giá mình. Người già với những kinh nghiệm cuộc đời dày dạn thường hay muốn đọc vị người khác mà. Tôi cũng không lấy đó làm phiền.
Tôi quay lại với hai ly rượu nhỏ trong tay. Tôi đưa một ly cho người đàn bà. Bà ta đón lấy nó từ tay tôi bằng một đôi tay nhỏ nhắn và mịn màng đến lạ kỳ khi cúi mặt xuống để làm điều gì đó. Tôi ngồi xuống một chiếc ghế ở đối diện trong dáng bộ thư thái để chờ đợi bà cụ mở lời. Nhưng khi bà ta ngẩng mặt lên tôi phải cố kìm chế để ngăn một cơn đau tim vì bất ngờ. Ngẩng lên nhìn tôi không còn là một gương mặt già nua nhăn nhó khi nãy. Thay vào đó là một thiếu nữ xinh đẹp với nước da trắng trẻo mịn màng như chỉ mới đôi mươi. Cô gái nhìn tôi với vẻ mặt rất khó tả, nửa như muốn nói gì đó, nửa như muốn dò xét tiếp người đối diện. Tôi nhìn vào những mảnh da mặt bằng sợi dẻo đang được cô gái nắm chặt trong lòng bàn tay mà đã ngờ ngợ đoán ra sự tình.
Tôi nuốt nước miếng cố trấn tĩnh để mở lời:
- Xin cho tôi được biết rằng tôi đang được nói chuyện với ai đây? Thưa quý bà, hay là tiểu thư nhỉ?
Cô gái bặm môi để suy nghĩ. Tranh thủ lúc đó tôi cũng ngồi thẳng lưng để thu toàn bộ hình ảnh người đối diện vào tầm mắt. Cô gái với thân hình mảnh khảnh cao ráo. Khuôn mặt xinh đẹp, mái tóc chấm ngang vai. Cử chỉ lại duyên dáng. Nói không ngoa rằng tôi đang được ngồi tiếp chuyện với một mỹ nhân.
Người phụ nữ hít một hơi thật sâu rồi mở miệng. Từng lời từng tiếng cô ta phát ra cũng khiến tôi sửng sốt. Không phải vì nội dung của lời nói mà là vì chất giọng của cô ta. Cái giọng trầm khàn đã không còn nữa. Thay vào đó là một giọng nói nhỏ nhẹ êm ái đến mức có thế làm dịu bất kỳ kẻ lỗ mãng nào, và rõ ràng là của một thiếu nữ trẻ trung.
- Tôi tên là, tên thật, là Maya, Maya Rose. Tôi sinh ra trong một gia đình đã ba đời làm nghề buôn bán hoa hồng. Ba mẹ tôi là Rich và Tina Rose. Họ chỉ có mình tôi là con gái. Phải, tôi là một tiểu thư, thưa ông Carl.
Tôi trầm ngâm về những gì nghe được. Rose là một cái họ hiếm. Đó là một cái họ cổ đã mất người truyền tự từ nhiều năm về trước. Tôi nhìn cô gái như đang dò xét độ chân thật trong từng lời nói. Cô ta vẫn nhìn chăm chăm vào tôi để tiếp tục đánh giá. Cảm thấy cô gái này không việc gì phải nói dối một vị bác sỹ từ phương xa tới như tôi, tôi tiếp tục câu chuyện mà bỏ qua màn giả trang vừa nãy.
- Và thưa tiểu thư, tôi xin được lắng nghe về căn bệnh của tiểu thư. Là ai bị bệnh, triệu chứng thế nào và đã chữa trị ra sao?
Tiểu thư Maya nhìn tôi chăm chú rồi nở một nụ cười nhẹ. Cô gái nghiêng đầu bảo tôi:
- Thế này thưa bác sỹ. Tôi rất cảm ơn vì bác sỹ đã bớt chút thời gian quý báu của mình để gặp tôi, để nghe những câu chuyện của tôi. Nếu đã như vậy, bác sỹ có thể cho phép tôi được kể ra câu chuyện của mình theo cách của chính tôi, nằm ngoài những tiêu chuẩn thông tin y khoa được không ạ? Dù nó có hơi rườm rà với ngài nhưng nó sẽ đầy đủ và tự nhiên hơn với tôi. Sau khi kể xong, bác sỹ có thể tùy ý hỏi thêm, tôi sẽ trả lời đầy đủ và trọn vẹn.
Tôi cũng nhẹ mỉm cười mà gật đầu. Không phải vì tôi quá dễ tính mà là vì tôi cảm nhận được những u uất đang chất chứa bên trong người ngồi đối diện. Cô gái ấy cần phải xả nó ra cho thật thoải mái thì mới có thể tiếp tục câu chuyện theo hướng của tôi được.
Tôi gật đầu và Maya hít một hơi sâu để bắt đầu nói.
- Năm đó tôi mười tám tuổi và đang là một hoa khôi trong thị trấn. Ngày ngày, mỗi khi tôi tập kéo đàn, hàng dài những chàng thanh niên ngó đầu qua những ô cửa sổ để ngắm tôi. Trong mắt họ là những tình cảm yêu mến lẫn thần tượng dành cho tôi. Chỉ đến khi họ huýt sáo hoặc buông những lời lẽ trêu ghẹo là tôi sẽ lại la lên gọi cha mình. Cha tôi khi ấy sẽ lao xuống với một khúc gỗ trong tay. Ông la ó và dọa đánh gãy chân bất kỳ ai dám buông lời trêu ghẹo đến đứa con gái bé nhỏ mà ông yêu thương nhất trên đời.
Tiểu thư Maya nở một nụ cười nhẹ khi nhớ về những ngày tháng tươi đẹp tuổi thanh xuân. Cô gái nhấp môi thêm một chút rượu rồi kể tiếp.
- Hồi đó tôi cũng vô lo vô nghĩ. Đến tuổi cập kê, bao nhiêu chàng trai tìm đến, mong được kết thân, nhưng tôi đều khéo léo chối từ. Chẳng phải tôi làm cao mà chê họ thân phận thấp kém. Trong số họ, phần nhiều cũng là con cái của những gia đình quyền thế trong vùng. Nhưng tôi vẫn chẳng mảy may rung động. Đối với tôi, họ thật nhạt nhẽo. Mỗi người mỗi vẻ đấy, nhưng cũng chỉ có thế. Chỉ sau đôi ba cuộc trò chuyện, tôi đã có thể đọc vị chàng trai theo đuổi mình, biết anh ta đang nghĩ gì, muốn đi đâu, hay thậm chí là điều gì sẽ khiến anh ta quan tâm vào lúc đó. - Tiểu thư Maya khẽ mím môi để ngăn một nụ cười nhạt - Sau này tôi mới biết, đó cũng là một khả năng của mình, khả năng phán đoán người đối diện.
Tôi gật gù tán đồng:
- Đó là một khả năng chỉ xuất hiện ở những người từng trải. Họ có nhiều kinh nghiệm xã hội mới có thể làm được như thế. Nếu như tiểu thư có thể làm được điều đó vào lúc còn trẻ như vậy thì hẳn là một tài năng bẩm sinh.
Cô gái gật đầu đồng tình với giả thuyết của tôi. Cả người cô bỗng dịu xuống trong một cái thở hắt ra như trút được một nỗi niềm gì đó. Không khí cuộc nói chuyện cũng trở lên thoải mái và tự nhiên hơn. Riêng tôi thì tự kiềm mình hỏi về nơi gia đình cô đã ở. Những con người với tính cách một màu đơn điệu như thế thường chỉ gặp ở những phố thị xa cách, bị cách ly với nhau trong một thời gian đủ dài mà thôi. Tiểu thư Maya lại hớp thêm một ngụm rượu rồi tiếp tục câu chuyện.
- Thế rồi, thời gian thấm thoát trôi đi. Trong khi các bạn tôi đã chồng con đầy đủ thì tôi vẫn phòng không gối chiếc. Năm đó tôi hai mươi lăm tuổi, thời đó đã là quá lứa lỡ thì. Nhưng tôi vẫn ngày ngày sống trong vui tươi, đàn ca, nhảy múa, dự tiệc khắp nơi với cha mẹ. Những buổi kịch nghệ tới gần nửa đêm, những hội chợ thâu đêm suốt sáng, tôi đều có mặt. Những chàng trai vẫn theo đuổi tôi, nhưng đã ít đi dần. Người ta bắt đầu bàn tán về cái sự ế chồng của tôi. Nhưng tôi chẳng lấy đó làm phiền muộn.
Tiểu thư Maya chợt ngưng lại như để lựa chọn câu từ cho những việc tiếp theo. Lòng tôi thì tự hỏi: cô ấy đã sống ở đâu mà phong tục tập quán cho rằng mới hai mươi lăm tuổi đã là gái ế chồng? Việc ấy chỉ xuất hiện trong những thời xưa cũ, khi tuổi thọ con người còn thấp. Ngày nay, cái tuổi ấy mà đòi lập gia đình, e là còn có người nói rằng chưa đủ chín chắn. Đôi mắt của tiểu thư Maya bất chợt mở lớn, sáng lên và nhìn xa xăm vào một khoảng không nào đó sau lưng tôi. Biết rằng sắp đến giai đoạn cao trào của câu chuyện, tôi cúi đầu hướng về cô gái ngồi trước mặt để tập trung lắng nghe.
- Thế rồi! Anh ấy xuất hiện!
Giọng cô gái trở nên thảng thốt như đang nhớ về những ký ức khó quên. Cô nàng tiểu thư quay sang nhìn thẳng vào mắt tôi và mở lời như muốn giải thích.
- Anh ấy là một doanh nhân. Ngày ấy từng hàng dài những người có tiền của đến thị trấn của chúng tôi để bắt mối bán buôn. Cũng vì một con đường quốc lộ mới được mở thông. Anh ấy cao lớn. Khuôn mặt điển trai với hàng ria kẽm và mái tóc hơi rối. Năm ấy anh ấy mới chỉ ba mươi mốt tuổi. Một thân một mình trong mùa đông giá rét.
Đôi mắt cô gái lại có lại vẻ mơ màng, đôi má hơi ửng hồng lên như thể đang yêu.
- Lần đó tôi ném tuyết từ trên ban công trúng vào mũ khi anh từ rạp hát đi ra. Anh chẳng giận mà chỉ ngoái đầu lại mỉm cười chào tôi. Khi bỏ mũ ra khỏi đỉnh đầu để giũ tuyết, tôi bị anh ấy hớp hồn bởi sự lịch lãm mà chưa từng thấy trước đây ở bất cứ chàng trai nào theo đuổi tôi. Ừ, tên anh ấy là Bopp, Bopp Vinci.
Tiểu thư Maya đưa tay ra xin thêm đồ uống và tôi cũng hiểu ý mà chỉ lấy cho cô gái chút nước thay vì rượu. Cô gái tiếp tục kể sau khi uống cạn ly nước tôi đưa, có vẻ rất khát.
- Chúng tôi bắt đầu làm quen và tìm hiểu nhau. Ban đầu, tôi đã nghĩ anh ấy cũng chỉ như bao anh chàng ở đây, sau vài cuộc hẹn là chẳng còn chuyện gì để nói nữa. Nhưng không, anh ấy thật sự là một kho báu, một kho tàng mà tôi không thể nào biết hết. Mỗi lần gặp nhau, anh ấy lại kể cho tôi nghe những điều hết sức thú vị và mới lạ. Không lần nào giống lần nào. Có lúc tôi đã tưởng anh ấy biết hết mọi chuyện trên đời vậy. Ngày ra mắt ba mẹ tôi, ba tôi còn giành mất anh ấy để hỏi về kỹ thuật trồng hoa mới và thị hiếu của những người ở đô thành. Anh ấy biết về âm nhạc, có thể cùng hoà giọng với tôi. Có thể trò chuyện với mẹ tôi về cách nhuộm màu vải. Có thể cùng tôi ngâm nga và bình luận về những áng thơ tình hay nhất. Đến bây giờ, dù thời thế có đổi thay và đã gặp rất nhiều người, tôi vẫn thấy anh ấy là người có hiểu biết sâu rộng nhất, và về nhiều lĩnh vực nhất vào lúc đó.
- Và anh ta mới chỉ hơn ba mươi tuổi thôi ư, thưa tiểu thư? - Tôi nghi hoặc hỏi lại cô gái khi nghi ngờ cô ta đã gặp phải một tên lưu manh mồm mép.
- Phải! - Tiểu thư Maya gật đầu xác nhận.
- Vậy hẳn là người đó phải xuất thân trong tầng lớp tinh hoa với sự giáo dục đủ đầy.
Lần này tiểu thư Maya nói với vẻ cũng hơi hồ nghi.
- Đúng vậy. Anh ấy nói với tôi rằng cha mẹ anh ấy cũng có xuất thân hoàng tộc, sau này hoàng gia bị lật đổ phải ẩn náu vào nhân gian hành nghề buôn bán. Ba mẹ anh mất từ rất lâu trước đó và cũng không còn người thân nào cả. Ban đầu ba mẹ tôi cũng nghi ngờ lắm, sợ anh ấy đã có gia đình ở đâu đó rồi. Họ cũng thuê người tìm hiểu nhưng không thu được gì.
Hít một hơi dài, tiểu thư Maya tiếp tục câu chuyện với vẻ hồ hởi:
- Và thế là chúng tôi làm lễ thành hôn. Bopp và Maya, Maya và Bopp. - Cô gái chìa ra hai ngón tay chỏ sát nhau mà đong đưa qua lại trông rất dễ thương. - Hôm đó gia đình tôi thì đông đủ cả. Chỉ có anh là một mình. Những người bạn doanh nhân của anh cũng đến chia vui nhưng cũng không lấp đi được sự cô quạnh trong anh.
- Sau đó thì chuyện gì xảy ra? - Tôi sốt sắng hỏi như có linh tính điều chẳng lành. - Hai người sống hạnh phúc chứ?
Maya gật đầu cười tươi rói khi kể tiếp.
- Đó là những năm tháng hạnh phúc nhất đời tôi. Anh ấy mở một xưởng xẻ gỗ và kinh doanh phát đạt. Vài năm sau thì ba mẹ tôi lần lượt qua đời, chúng tôi phải ôm cả công việc của vườn hoa và xưởng nhuộm vải. Tôi và anh ấy chia sẻ với nhau mọi việc. Anh ấy ân cần và dịu dàng. Chẳng bao giờ la mắng tôi hay bất kỳ ai cả.
Tôi cảm thấy nhẹ nhõm phần nào khi những điều mình lo sợ đã không xảy ra. Tôi cũng lấy làm ngạc nhiên vì mình đã bị cuốn vào câu chuyện của cô gái này từ lúc nào không hay. Có lẽ vì cô gái quá xinh đẹp và duyên dáng trong từng cử chỉ. Tiểu thư Maya tiếp tục nói bằng chất giọng trong veo cuốn hút.
- Chúng tôi có với nhau ba người con. Luis, con gái lớn theo tên mẹ anh ấy. Con gái thứ hai là Tina theo tên mẹ tôi. Và đứa con trai út là Mongu, là tên một người thầy mà chồng tôi rất kính trọng. Cái tên rất lạ phải không thưa ngài. Ban đầu tôi cứ nghĩ đó hẳn là một cái biệt danh hay tên thánh khi đi lễ đường. Sau này tìm hiểu mới biết ông ta có thật. Nhưng dù sao thì con trai tôi cũng không thích cái tên ấy. Năm nó mười sáu tuổi thì nó cũng xin chúng tôi cho nó đổi sang một cái tên khác, phổ thông hơn vào lúc bấy giờ, là James, James Vinci.
Tôi gật đầu xác nhận rằng đã nghe và hiểu thông tin ấy mà mồ hôi cứ vã ra như tắm. Tôi không dám nói ra điểm vô lý của câu chuyện vì sợ làm phật lòng người đối diện. Tiểu thư Maya tiếp tục trong mơ màng như đang cố vẽ ra những chi tiết của một câu chuyện trong trí tưởng tượng.
- Thế rồi chúng tôi cũng dựng vợ gả chồng cho các con. Luis lấy Monte, bác sỹ. Tina lấy Jonh, luật sư. Và James lấy Morgan, con gái chủ hãng thuốc lá. Rồi chúng đẻ con. Năm ấy chúng tôi có tới tám đứa cháu nô đùa trong sân. Vui lắm. Chồng tôi bế lên từng đứa để tôi quàng lên cổ chúng từng chiếc khăn quàng đỏ đang là mốt vào lúc bấy giờ.
Nước mắt bỗng rỉ ra nơi khoé mắt của người con gái. Tôi chưa biết phải nói sao thì tiểu thư Maya đã lên tiếng:
- Ngay năm sau đó thì chồng tôi mất. Ông ấy mới chỉ có sáu mươi bẩy tuổi thôi. Là một cơn đau tim đột ngột. Thời ấy y tế còn nghèo nàn. Nếu vào thời bây giờ thì chắc ông ấy đã sống thêm được vài năm nữa.
Tôi không thể kiềm được mình nữa mà đánh bạo chen ngang.
- Tôi rất tiếc thưa bà vì chuyên của ông nhà. Nhưng...nếu vậy thì...năm nay bà đã bao nhiêu tuổi rồi, thưa tiểu thư Maya? - Tôi cố nói thêm cho lịch sự.
Cô gái nhẹ mỉm cười khi rút từ trong túi ra một cái khăn tay trắng để chấm nước mắt. Trên chiếc khăn tay được thêu một dòng chữ đỏ: Maya và Bopp. Cô tiểu thư nói nhỏ nhẹ mà rằng:
- Đó cũng chính là nguồn cơn đau khổ của tôi, là lý do tôi phải tìm đến đây để gặp ngài, thưa bác sỹ.
Cô gái ngửa khuôn mặt xinh đẹp lên để hớp một hơi trước khi liền một tràng dài mà không thèm nhìn tôi.
- Từ khi tôi lập gia đình, mọi chuyện vẫn diễn ra yên bình, chẳng có biến cố lớn nào xảy ra. Thế rồi, rất từ từ, tôi dần nhận ra những điều kỳ lạ trên cơ thể mình. Ấy là tôi chẳng hề già đi. Ban đầu, tôi đã nghĩ rằng mình vốn là tiểu thư đài các, có vẻ đẹp trời cho, được chăm sóc tốt nên trẻ lâu cũng là chuyện bình thường. Tôi thường lấy làm vui sướng khi sánh bước cùng chồng đến dự những bữa tiệc trong vùng, để được nghe đám bạn cùng trang lứa hỏi han về bí quyết giữ gìn sắc đẹp. Mọi việc trở nên khôi hài hơn khi mấy đứa con của tôi lớn dần. Bạn bè của chúng khi đến chơi nhà thường nhầm tôi là bạn cùng trang lứa, có lúc còn tán tỉnh tôi thay vì hai đứa con gái. Đến khi được giải thích thì đỏ mặt tía tai cười trừ. Năm Bopp mất, tôi suy sụp trong lòng. Khoác trên người bộ áo goá phụ để đưa tang chồng, tôi những tưởng mình già đi chục tuổi chỉ trong một đêm. Tôi buồn rười rượi nên khuôn mặt trông cũng già đi nhiều. Ấy thế nhưng chỉ vài tuần sau, khi trở lại với cuộc sống thường ngày, tôi vẫn vậy, vẫn như ngài thấy tôi như bây giờ đây.
Mắt tôi mở lớn nhìn vào người đàn bà đang ngồi trước mặt. Khuôn mặt trẻ trung xinh đẹp, không một nếp nhăn của tuổi tác. Khoé miệng không có lấy một vết hằn của thời gian. Đôi cánh tay nhỏ nhắn với làn da mịn màng. Bộ ngực tròn trịa vẫn không ngừng nhấp nhô lên xuống. Đúng là dung mạo của một thiếu nữ tuổi xuân thì. Nếu đúng là một ca phẫu thuật thẩm mỹ hòng cải lão hoàn đồng thì hẳn đây là một trường hợp thành công mỹ mãn. Nhưng linh cảm báo cho tôi biết có điều gì đó không phải như vậy. Tôi vội vàng giơ hai bàn tay lên để xin ngừng cuộc trò chuyện. Tôi nói trong hơi thở gấp gáp khi vội vàng đứng lên.
- Xin tiểu thư tạm ngưng câu chuyện ở đây. Tôi biết tiểu thư phải kể nó với ai rồi.
Tôi đến bên bàn điện thoại và ấn số. Đằng sau, giọng tiểu thư Maya thốt lên với vẻ hốt hoảng.
- Ngài không tin tôi ư? Ngài đang gọi cho ai vậy?
Tôi quay lại giơ một tay lên trấn an.
- Một người đồng nghiệp của tôi. Xin bà hãy bình tĩnh.
- Ông cho rằng tôi bị tâm thần ư? Và ông đang gọi một chuyên gia thần kinh học có phải không? - Tiểu thư Maya đã đứng lên nói với giọng cao vút khi nhìn tôi. Ánh mắt tràn ngập lửa giận dữ.
Tôi biết mình đã lỡ lời nên ngay khi có tiếng nhấc máy ở đầu dây bên kia tôi đã cúp máy. Tôi rảo bước nhanh về lại ghế của mình và ngồi xuống để trấn an vị thiếu phụ xinh đẹp. Cô nàng tiểu thư cũng bặm môi để ngăn những lời trì triết khi lặng lẽ ngồi xuống. Hai tay cô gái đã ôm chặt chiếc cặp như thể chuẩn bị sẵn tư thế để ra về. Tôi biết giờ không còn gì khác là phải kể ra sự thật, may ra mới xoa dịu được sự nghi ngờ của cô gái.
- Thế này, thưa tiểu thư xinh đẹp. Tôi xin thú nhận với tiểu thư một điều rằng, tôi không phải bác sỹ đầu ngành trong lĩnh vực các căn bệnh lạ. Đó là tôi mượn danh mà thôi. Người mà tôi vừa nháy máy mới đích thực là chuyên gia trong lĩnh vực này. Anh ta sẽ tới đây ngay thôi.
Rồi tôi bắt đầu kể sơ qua về cuộc đời mình và mối quan hệ cộng sinh với Riddle cho cô nàng tiểu thư nghe. Tiểu thư Maya vừa nghe vừa dò xét tôi theo từng lời nói, từng dữ kiện. Mãi một lúc, cô gái mới dần tin những điều tôi nói mà hỏi lại:
- Đó có phải là anh chàng trợ giảng hay thay ông lên diễn thuyết không, thưa ngài?
Tôi gật đầu xác nhận.
- Đúng vậy, thưa tiểu thư. Lấy làm hổ thẹn vì sự gian dối đó, bởi tôi có biết gì đâu mà lên diễn giảng. À, mà cậu ấy tới rồi kìa.
Tôi chưa kịp đứng lên thì Riddle đã mở cửa và phăm phăm đi vào. Anh kéo ngay một chiếc ghế gỗ đến bên hai chúng tôi để tham gia cuộc trò chuyện.
Tôi lấy thêm nước cho cả ba rồi ngồi xuống giới thiệu.
- Đây chính là bác sỹ Riddle trứ danh, kẻ lang thang đi tìm bệnh lạ mà tôi đã kể cho tiểu thư. Còn đây là khách hàng của tôi. Hai người làm quen nhau đi.
Tiểu thư Maya và Riddle gật nhẹ đầu chào nhau rồi kể lể vài điều để xác nhận điều tôi vừa nói. Sau cùng tôi lên tiếng để bắt lại mạch cho câu chuyện.
- Vậy thì, tiểu thư Maya, xin phiền tiểu thư kể lại từ đầu câu chuyện cho cậu chàng này nghe. Vắn tắt cũng được, tôi sẽ bổ sung những chỗ còn thiếu.
Thế là tôi và nàng tiểu thư thay phiên nhau kể lại câu chuyện từ đầu. Riddle lắng tai nghe chăm chú mà không tỏ chút biểu cảm nào. Chỉ hai lần tôi thấy mắt anh mở lớn và môi hơi mấp máy định hỏi điều gì đó khi nghe kể về người chồng tên Bopp và sự trẻ mãi không già của người vợ.
Tiểu thư Maya hít thêm một hơi nữa để tiếp tục câu chuyện.
- Thế rồi năm tháng cứ thế trôi qua. Mọi sự đổi thay, nhưng tôi thì vẫn vậy. Sau khi Bopp qua đời, tôi tiếp quản công việc gia đình thêm vài năm rồi giao hết lại cho James. Không hẳn là tôi chán chường mà là vì nó cũng đã trưởng thành, đủ sức cáng đáng công việc. Từ đó tôi chỉ chú tâm vào công việc vườn tược, đôi khi là thơ ca. Không còn Bopp đón đưa, tôi cũng chẳng muốn đến rạp hát hay đi chơi lễ hội. Cuộc sống của tôi bó hẹp trong khu điền trang rộng lớn, chỉ thi thoảng ra ngoài để thăm vài người bạn. Thế rồi...những người bạn của tôi cũng lần lượt ra đi. Tiếp đó là những đứa con. Đầu tiên là Luis, rồi đến Morgan và Monte. Mấy năm sau thì James cưới thêm một người vợ nữa là Sophia. Con bé cũng ngoan, nhưng với tôi nó xa lạ quá. Vài năm sau thì đến lượt John. Chỉ còn Tina là gắn bó với tôi lâu hơn cả. Nó thường đến chơi với tôi, ở lại hàng tuần trước khi mấy đứa cháu đến đón về. Năm đó trời rét mướt. Tina đáng yêu của tôi qua đời vì viêm phổi. Nó chết ngay trên xe khi trên đường đến thăm tôi, trên tay vẫn cầm một bó hoa lương y trắng.
Quý cô Maya rút ra một chiếc khăn tay nhỏ và bắt đầu chấm nước mắt. Tôi và Riddle nghe rõ tiếng sụt sùi đầy cảm xúc của cô gái. Khoé mắt tôi cũng hơi cay cay khi thử nhập tâm vào tâm trạng của người mẹ. Nhưng ở bên cạnh, Riddle vẫn im lặng trong vẻ nghiêm túc đến bình thản. Sau chừng vài phút, quý cô Maya bắt đầu kể tiếp bằng một giọng nghẹn ngào hơn.
- Mấy ngày, à không, là mấy tháng sau đó, tôi tưởng như mình đã chết. Con tim tôi dường như đã tan vỡ. Tâm trí tôi cứ diễn đi diễn lại cảnh tượng từng người thân yêu lần lượt ra đi.
Tiếng sụt sịt dần nhỏ lại khi cô gái tiếp tục kể.
- Tôi quay trở lại với bốn bức tường trong căn phòng rộng rãi đến cô quạng của mình. Ở bên kia hành lang, bệnh viêm phổi cũng đang hành hạ James từng đêm. Cũng may là vợ con nó cũng tháo vát việc nhà mà lo cho nó được an tâm tĩnh trí. Mấy năm sau, dù nỗi buồn cũng đã nguôi ngoai, tôi vẫn chỉ nhốt mình trong phòng, chẳng muốn đi đâu. Ngày ngày tôi chìm đắm vào những triết lý tôn giáo trừu tượng. Và tôi cũng bắt đầu viết nữa. Ừ phải, thật sự là vậy, tôi có viết. Cũng chỉ là những điều tôi suy nghĩ thôi, rối rắm lắm. Rồi tôi cũng gửi nó cho những nhà triết gia, những sử gia, chính những người viết ra những cuốn sách đó. Rồi cũng có thư hồi âm. Vì thế mà cuộc sống cũng bớt nhàm chán.
Tiểu thư Maya uống thêm một chút nước rồi kể tiếp.
- Một lần, tôi muốn tự mình đi thăm mộ người thân. Lúc ấy James cũng đã ốm liệt giường được vài năm. Chẳng ai rỗi rãi để đi cùng. Thế là tôi khoác lên người bộ đồ của những ngày xuân trẻ, có thể là lỗi mốt vào lúc đó, nhưng có sao đâu, tôi không nghĩ nhiều về điều đó. Rồi tôi lẳng lặng ra khỏi nhà. Khung cảnh bên ngoài đã đổi thay nhiều, phố thị tấp nập hơn, khang trang hơn, đẹp đẽ hơn. Nhưng nghĩa trang thì vẫn thế. Tôi đi qua từng ngôi mộ, của Tina, của John, của Luis. Rồi tôi dừng lại trước mộ của chồng tôi, Bopp. Bao nhiêu kỷ niệm thời niên thiếu ùa về làm má tôi đỏ bừng, tim đập loạn xạ. Cũng chính lúc đó tôi phát hiện ra mình vẫn còn yêu đời lắm. Tôi vẫn thích nghe tiếng chim hót, ngắm những bông hoa rực rỡ. Thích những làn gió mát mẻ vuốt ve da mặt, thích ngắm nhìn những bông tuyết bay xoay vòng trong không trung. Tôi đánh mắt ra xa nhìn khắp nơi, tò mò muốn biết những con người ở đó, họ đang làm gì, họ có niềm vui gì mà cuốn hút thế. Tim tôi khi đó như lại tràn căng nhựa sống.
Tiểu thư Maya dừng kể, đôi mắt nhìn chăm chăm vào một điểm gì đó như đang chiêm nghiệm. Tôi tranh thủ quay sang Riddle để nhìn anh. Riddle trầm ngâm. Tôi không biết anh bạn tôi đang nghĩ gì, liệu có tin vào lời của cô gái đang ngồi trước mặt hay không. Nhưng tôi tin. Để nói ra được những điều như vậy, con người ta hoặc là phải trực tiếp trải nghiệm, hoặc cũng phải sống đủ dài để nhặt nhạnh những kinh nghiệm sống của đồng loại mới có thể nhập tâm đến như thế. Tiểu thư Maya hít một hơi sâu rồi kể tiếp như thể điều sắp nói ra sẽ khiến bà đau lòng.
- Vào một buổi chiều ấm áp, tôi đang ngồi đọc sách trong vườn thì nghe thấy một tiếng đàn du dương từ đâu đó vọng tới. Tôi lần tìm theo giai điệu, băng qua khu vườn mê cung của khu nhà mình, rồi đi sang một khu điền trang bên cạnh. Ở đó cũng có sân vườn và cây cối rậm rạp. Ngồi bên gốc cây làm một chàng trai trẻ đang chơi đàn. Tôi đến làm quen và cố giấu đi thân phận  của mình. Cuộc nói chuyện vui vẻ khi cả hai chia sẻ với nhau về âm nhạc và thi ca. Tôi như tìm thấy lại niềm vui cuộc sống của mình. Trong một phút giây xao xuyến, tôi đã để anh ấy lao đến và trao một nụ hôn. Và cũng thật kỳ lạ, cảm xúc đến với tôi bồi hồi như thời con gái mới lớn. Tim cũng đập loạn nhịp. Tôi ngồi im trên ghế nhìn anh ấy đỏ mặt nói lời xin lỗi.
Tiểu thư Maya kể tiếp với giọng buồn hơn.
- Chúng tôi chia tay nhau và không gặp lại nhau nữa. Phần vì tôi chợt cảm thấy xấu hổ vì trong tâm trí lại xuất hiện những tình cảm như vậy. Có lẽ là mặc cảm tuổi tác. Nhưng quan trọng nhất là đã có người đã chứng kiến sự việc ngày hôm đó. Mấy ngày sau, James gọi tôi đến bên giường bệnh. Nó đang hấp hối. Khi chỉ còn hai mẹ con, nó nắm lấy bàn tay tôi và cố gắng nói trong sự minh mẫn cuối cùng. Nó cho biết một cô hầu gái đã nhìn thấy những sự việc vào ngày hôm đó. Điều đó làm tôi thẹn đỏ cả mặt với đứa con trai của mình. Nhưng nó không trách tôi. Nó nói với tôi những điều mà tới nay tôi không thể nào quên được: "Con xin lỗi vì không thể ở bên mẹ lâu hơn. Con cũng xin lỗi vì không thể giúp mẹ giải quyết được cái vấn đề oái oăm đã giày vò mẹ bao lâu nay. Sau khi con chết, mẹ hãy rời khỏi đây, mang theo những gì mẹ muốn và xây dựng một cuộc sống mới. Không phải vì vợ con của con, các cháu chắt của mẹ không thể phụng dưỡng mẹ. Mà là vì họ không hiểu mẹ, không thể bảo vệ được mẹ trước thứ bệnh oái oăm này. Con chỉ xin, từ giờ cho đến lúc đó, mẹ hãy giúp con gìn giữ thanh danh gia đình ta được trong sạch".
Không gian im lìm khi cô gái ngừng kể. Tai chúng tôi chỉ còn nghe thấy tiếng chim hót ở ngoài vườn. Cả tôi và Riddle đều cố gắng thở thật khẽ để không làm phiền tới tâm trạng vốn rất não nề của người phụ nữ. Quý bà Maya nói tiếp, trong giọng nói lẫn tiếng hơi thở của xúc cảm bị nén chặt.
- Vài ngày sau thì nó mất. Tôi đứng bên cửa sổ nhìn xuống, chứng kiến lễ tang của nó, giả vờ như cũng đang bệnh nặng. Đoàn đưa tiễn có cả những người tôi quen, và cả những người xa lạ. Tôi ở thêm một tháng rồi gói ghém đồ đạc để ra đi, chỉ để lại một phong thư căn dặn làm tang lễ cho chính mình.
Cả tôi và Riddle đều thở hắt ra cùng một lượt. Câu chuyện của tiểu thư Maya làm nặng trĩu cả trái tim hai chúng tôi. Riddle khi ấy mới mở lời bằng giọng ân cần:
- Việc con người ta sống lâu và trẻ khoẻ vốn là một niềm ao ước, một đặc ân của tạo hoá. Nhưng nếu như chỉ có mình ta có được đặc ân thì đó chẳng khác nào một sự đoạ đày, tra tấn.
Tiểu thư Maya gật đầu. Tôi cũng hiểu tâm trạng của người phụ nữ ngồi trước mặt. Trong những năm cuối cùng đó, cô gái hẳn phải chịu những đau khổ lớn lắm. Nhìn những người thân mất đi, dần dần trở nên cô đơn. Rồi thì sợ bị người ta đàm tiếu, coi như phù thuỷ hay kẻ mạo danh. Rồi lại phải đấu tranh nội tâm để giữ lấy danh tiếng của gia đình trong khi trái tim vẫn có thể loạn nhịp vì tình yêu.
Tiểu thư Maya ngẩng đầu nhìn hai chúng tôi và tiếp tục kể. Tôi lấy làm bất ngờ vì câu chuyện vẫn tiếp diễn còn Riddle thì nở một nụ cười thích thú.
- Tôi chỉ mang theo chút tiền vàng và vài món đồ tư trang hay dùng. Thật ra thì cũng dư dả đấy nhưng tôi biết tôi không thể tiếp tục sống một cuộc sống xa hoa được nữa. Ban đầu tôi định bụng sẽ đi tìm một nơi yên tĩnh, an lạc để tu hành theo những cuốn sách tôn giáo mà tôi đã đọc. Tôi bắt một chuyến xe đi thật xa và tìm đến một ngọn núi cao thật là cao. Tôi lên đó và thử một cuộc sống chỉ có ngồi thiền và trồng rau ăn qua ngày. Tôi cố ăn thật kham khổ để mong cái chết đến với mình sau quá trình tu luyện. Nhưng tôi chẳng đạt được ý nguyện. Tôi dần gầy đi, hằng ngày bị cơn đói hành hạ, lại thêm chứng nở loét vì ăn đồ lạ. Nhưng tâm trí tôi vẫn minh mẫn lạ thường. Tôi chợt nghĩ, nếu muốn chết thì thà tôi về nhà mà thắt cổ tự vẫn còn hơn là chết trong cô quạnh và đau đớn ở đây. Vậy là tôi xuống núi và đi vào một ngôi làng nhỏ dưới thung lũng. Nhìn thấy những người nông dân ngày ngày lao động trên đồng ruộng, lòng tôi nửa thích thú nửa tò mò. Những cánh đồng vàng bạt ngàn. Những cối xay gió quay đêm ngày. Những bếp lò bập bùng thơm phức. Chẳng phải cả đời tôi chưa từng biết đến những việc như vậy hay sao. Thế là tôi quyết định từ bỏ việc tu hành mà lao vào một cuộc đời mới. Một cuộc sống mà tôi chưa từng biết tới, chưa từng trải nghiệm trước đây. Chả phải chết đi khi còn chưa biết tới những điều thú vị như vậy thì rất đáng tiếc hay sao?
Cô gái nhìn chúng tôi và cả tôi và Riddle cùng bật cười đồng tình. Tiểu thư Maya mỉm cười nói tiếp:
- Tôi vào làng và dốc hết tiền để mua một ngôi nhà với đầy đủ vườn tược. Tôi tự gọi mình là Rose May, một cách chơi chữ thôi mà. Rồi, khi họ hỏi tuổi tôi, tôi đã hỏi lại rằng: trông tôi thì đã bao nhiêu tuổi rồi? Một bà bảo rằng: chắc cô chỉ mới hai mươi lăm thôi. Và thế là tôi trở thành Rose May, hai mươi lăm tuổi.
Ngừng một chút, quý cô Rose nói tiếp với giọng tươi vui.
- Cuộc sống đồng ruộng vất vả hơn tôi tưởng. Nhưng tôi cũng thích nghi được. Tay chân tôi cũng dần bị chai sần vì lao động, không còn trắng trẻo mịn màng như một tiểu thư đài các nữa.
Cô gái mỉm cười với chúng tôi, tâm thế có vẻ đã ôn hoà và vui tươi hơn. Hít một hơi sâu, quý cô Rose May kể tiếp.
- Cuộc sống cứ bình lặng trôi vài năm sau đó. Thế rồi điều gì đến cũng phải đến. Bắt đầu có những chàng trai để ý đến tôi. Cũng phải thôi, tôi khác với những người phụ nữ ở đó. Như một bông hoa vàng giữa một rừng hoa đỏ, sẽ luôn nổi bật hơn đôi chút. Từ những ông lão goá vợ đến những chàng trai mới lớn. Họ đều thử tiếp cận tôi để tán tỉnh. Những bà cô lớn tuổi còn giục giã mạnh hơn. Họ khuyên tôi kết hôn với ai đó, có lẽ là để không trêu ngươi chồng con của họ. Điều đó cũng bình thường thôi. Ở những vùng nông thôn như thế, người ta sẽ bất ngờ, thậm chí là kỳ lạ khi thấy một cô gái không chịu lấy chồng. Tôi thì không nghĩ đến chuyện ấy nhiều lắm nên cứ khéo léo từ chối từng người. Mỗi khi có người đến bày tỏ tình cảm với mình, tôi lại bất giác nhớ đến Bopp. Một sự so sánh luôn thường trực trong tâm trí tôi. Nhưng tôi cũng dần hiểu rằng, sẽ chẳng có ai được như anh ấy. Không ai cả. Theo thời gian, tôi cũng không còn quá khắt khe với họ nữa. Vì tôi biết, ở một nơi mà đức tính duy nhất quyết định sự thành công của con người là chăm chỉ, thì tôi chỉ cần tìm một người đàn ông như vậy là đủ.
Quý cô Rose nhấp thêm một ngụm nước và kể tiếp với giọng vui tươi.
- Cuối cùng thì tôi cũng phải lòng một người. Anh ấy tên là Ken, Kenvin Wood, đã ba đời làm thợ mộc trong vùng. Ngoài công việc mưu sinh đó, anh ấy còn được giao cho việc tuần tra khu rừng để phòng thú dữ. Tôi biết đến anh ấy cũng từ một lần được anh ấy cứu khi bị sói tấn công. Thế là chúng tôi cưới nhau, cùng dọn ra sát bìa rừng để tiện cho công việc của Ken.
Nhấp thêm một ngụm nước, Rose bắt đầu kể về gia đình nhỏ thứ hai của mình.
- Anh ấy rất hiền, hiền như khúc gỗ vậy. Nhưng cũng không quá khô khan, mà là dịu dàng. Với những việc không thể làm được, không thể hiểu được, anh ấy chỉ ngồi im lặng mà chẳng hề buồn rầu hay cáu giận. Chắc hai vị cũng đoán ra rằng tôi có thể dễ dàng làm chủ gia đình của mình như thế nào.
Cả tôi và Riddle cùng gật đầu. Với một cô vợ sắc sảo, lại có tri thức uyên bác như người phụ nữ này, anh chàng kia quả thực không có cơ hội để trở thành trụ cột gia đình. Và nhất là với vẻ ngoài xinh đẹp ấy nữa. Tôi cũng không bất ngờ khi anh ta tự nguyện nghe vợ sai khiến chỉ để thấy bóng dáng xinh đẹp ấy mỉm cười. Tiểu thư Rose nói tiếp khi dựa hẳn lưng vào ghế. Cô gái đang tìm cho mình cảm giác thoải mái nhất.
- Thế rồi tôi sinh cho anh ấy hai đứa trẻ, cũng xinh xắn và khoẻ mạnh. Đứa lớn là Oliver, cao to như cha nó. Em gái nó là Betla.  Hỡi ôi, chúng giống cha nhiều hơn tôi. Tôi đã cố dạy chúng thật nhiều điều nhưng chúng chẳng thể tiếp thu trọn vẹn. Tuổi thơ của chúng là những tháng ngày vui đùa trên đồng ruộng như bao đứa trẻ khác ở đấy, chẳng biết gì về thơ ca hay triết học. Nhưng tôi đã lại có một gia đình của riêng mình. Một gia đình hạnh phúc. Trong thời gian đó, tôi thực sự đã quên mất rằng mình từng có một gia đình khác, một cuộc sống khác, một thân phận khác.
Ngừng một chút.
- Rồi chúng cũng lớn dần. Betla lấy con một ông chủ cối xay gió ở cách đó mấy ngôi làng. Nó theo chồng về bên ấy, cuộc sống cũng đủ đầy. Còn Oliver thì gian nan hơn. Chúng tôi phải đẩy nó đi học nghề nung gốm ở thị trấn bên cạnh, để nó bớt ù lỳ mà cưới vợ. Rồi nó cũng được ông chủ yêu quý mà gả con gái cho, sau lại sống luôn ở nhà vợ. Năm ấy nó đã gần bốn mươi.
Quý cô Rose thở dài nhìn vào hai bàn tay nắm chặt.
-  Thời gian trôi qua, như dòng nước suối bào mòn dần viên đá cuội, làm lộ ra những thứ ẩn giấu bên trong. Vấn đề của tôi cũng quay trở lại. Năm đó, đáng nhẽ tôi đã hơn sáu mươi tuổi, dù có ăn mặc tuềnh toàng và luôn cố khom lưng cho còng nhưng trong mắt những người dân ở đó, tôi vẫn trông như mới chỉ ngoài ba mươi. Ken bắt tôi ở nhà lo việc nội trợ khi thấy những ánh mắt hau háu nhìn vào vợ mình. Tôi cũng ngoan ngoãn nghe theo mà nhường việc đồng áng cho những người bà con bên chồng làm giúp. Một thời gian sau, chẳng những tôi không già đi, mà những vết chai sạn nứt nẻ cũng dần biến mất. Tôi trở về với hình hài vốn có như hai vị đang thấy bây giờ đây.
Tiểu thư Rose xoè hai bàn tay ra trước mặt chúng tôi và khẽ mỉm cười. Đôi bàn tay trắng trẻo mịn màng, làn da cũng trơn láng không tì vết, chẳng thể nhầm với đôi tay của người dân lao động nặng nhọc. Đôi mắt cô tiểu thư chùng xuống cùng với giọng nói:
- Rồi chồng tôi mất khi mới chỉ sáu mươi lăm tuổi, một năm sau khi Oliver cưới vợ. Anh ấy thấy đau ngực lúc nửa đêm, đến sáng thì tắt thở.
Tôi và Riddle nhìn nhau. Cả hai đều biết người kia đang nghĩ đến một cơn đau tim cấp tính. Tiểu thư Rose nói tiếp với giọng buồn buồn.
- Tôi chỉ còn một mình trong ngôi nhà ấy. Đứa con trai chỉ thi thoảng mới về thăm nhà, còn đứa con gái thì cách trở đường xá mà cứ biền biệt không tăm tích. Tôi cũng dần hiểu rằng, ngày tôi phải rời khỏi đây không còn xa nữa. Sớm muộn, những con người ấy cũng phát giác ra sự trẻ trung đến lạ kỳ của tôi. Hơn thế nữa, tôi cũng sợ những tiếng gõ cửa thì thào lúc đêm khuya của những kẻ chẳng đứng đắn.
Tiểu thư Rose ngừng kể để chỉnh trang lại tư thế. Tranh thủ lúc ấy, tôi thử ướm hỏi Riddle.
- Cậu nghĩ sao, có giả thiết gì không?
Riddle lắc đầu bảo:
- Còn thiếu nhiều thông tin quá. Mà chúng ta cứ nghe tiếp đã.
Quý cô tiểu thư đã lại ngồi thẳng dậy đối mặt với chúng tôi. Khuôn mặt trang nghiêm của cô gái cho chúng tôi biết đoạn tiếp theo của câu chuyện rất quan trọng.
- Ba năm sau khi chồng tôi mất, ừ, là người chồng thứ hai, tôi đã gói ghém đồ đạc và có thể ra đi bất cứ lúc nào. Nhưng mà luôn có vài chuyện khiến tôi dùng dằng chưa thể khởi hành. Cứ định đi thì lại có việc ập đến. Khi thì đón cháu mới sinh, khi thì con bệnh nặng, lúc lại có thiên tai. Mùa hè năm ấy, trời trong xanh rực rỡ. Tôi đã chuẩn bị xong và định bụng sẽ di cư đến một thành phố bên kia núi. Bởi lúc ấy ngọn lửa chiến tranh cũng đã gần sát ngôi làng. Người dân cũng nhộn nhạo chẳng ai để ý đến ai nữa.
- Chiến tranh? - Tôi bật hỏi và nhìn quý cô Rose mỉm cười gật đầu. - Tiểu thư đang nói về cuộc chiến nào thế?
Tiểu thư Rose nhấp thêm một ngụm nước và bình thản kể tiếp:
- Ôi, đừng hỏi tôi về chuyện đó. Đó là thứ của đàn ông, sinh ra vì đàn ông, phục vụ cho đàn ông,  cho mục đích của họ. Tôi chẳng hề quan tâm. (Ngừng một chút). Buổi sáng hôm ấy, ngay khi tôi vừa tỉnh dậy thì cả ngôi làng đã ngập tràn mùi thuốc súng và tiếng vó ngựa. Trời đất rung chuyển không ngớt. Người người lao ra khỏi nhà chạy trốn tán loạn. Tôi thì bình thản mà đóng cửa lại, ngồi trong nhà mà khâu vá. Tôi biết lúc ấy mà đi ra thì chỉ có chết. Nhưng rồi, tai hoạ cũng chẳng buông tha tôi. Một bên nào đó đã phun khí gây mê vào làng. Tôi ngất đi. Khi tỉnh dậy thì thấy mình đã bị bắt giam ở một nhà giam chật chội.
Tôi chột dạ nhìn sang Riddle. Anh cũng đang lộ vẻ căng thẳng khi nuốt vội một ngụm nước bọt xuống cổ. Tôi tự hỏi, cuối cùng thì cái sự kiện quái quỷ nào đang được người phụ nữ này nhắc tới. Khói đạn chiến tranh đã lùi xa khỏi mảnh đất này từ rất lâu rồi. Tiểu thư Rose khẽ nhắm mắt lại như đang hồi tưởng lại chuyện cũ, giọng kể chậm lại và đầy u uất.
- Tôi không biết họ là ai, hay họ chiến đấu vì điều gì nhưng trong câu chuyện này của tôi, họ là kẻ phản diện. Ngày ấy dân làng chúng tôi bị giam cầm trong những nhà ngục ngầm dưới lòng đất. Mãi sau này tôi mới biết nơi đó nằm trong một pháo đài bên triền núi lân cận, nơi những kẻ ấy chọn để đóng quân. Ban đầu, có vẻ họ chỉ muốn thuyết phục dân làng đi theo họ, chiến đấu cùng họ mà liên tục giao giảng về những điều tươi đẹp khi cuộc chiến thành công. Nhưng sau này, những kẻ chỉ huy dần thoái hoá. Thấy không thể lôi kéo được những con người chất phác đến ngu muội, họ dần thả chúng tôi ra. Một cuộc thanh lọc được diễn ra. Họ cho những người đàn ông về làng tiếp tục lao động, đổi lại là mang lương thực đến cung ứng thường xuyên. Sau đó là những người già và con trẻ. Đám lính cố giữ lại những người phụ nữ trẻ đẹp lâu chừng nào, tốt chừng ấy, cốt để mua vui cho chúng.
Tôi hoảng hồn hỏi ngay người phụ nữ đang ngồi trước mặt mình.
- Vậy là quý bà cũng bị bọn chúng...
Tiểu thư Rose lắc đầu buồn bã.
- Số phận của tôi ly kỳ hơn một chút. Tôi bị nhốt riêng với một vài cô gái có nhan sắc khác, được cho ăn đầy đủ và tắm giặt thường xuyên, nhưng không hề giở trò gì đồi bại. Không nói chắc các ngài cũng đoán ra. Bọn tôi được chọn ra là để phục vụ cho những tay chỉ huy cao cấp hơn. Cứ hai tuần một lần, lại có một vài cô gái được mang đi để phục vụ cho một vị nào đó mới tới. Điều đáng nói là họ thường không trở về, mà thường được chính kẻ làm nhục họ giữ lại để làm của riêng. Chính chúng tôi khi đó còn mong mình được lọt vào nhóm những cô gái bị cưỡng hiếp bởi đám lính. Chịu nhục nhã qua một đêm rồi được tự do còn hơn là bị chiếm đoạt cả đời.
Tôi nhìn Riddle và thấy anh vẫn bình thản lắng nghe quý tiểu thư xinh đẹp. Tôi ngạc nhiên vì sao anh lại có thể bình tâm đến thế, trước một câu chuyện đầy rẫy tội ác đang được kể ra. Có lẽ anh ta chỉ chú ý tới những tình tiết y khoa thôi sao? Tiểu thư Rose kể tiếp với giọng nhanh hơn để xoá tan sự căng thẳng.
- Ồ, ngài đừng lo, tôi không bị sao hết, ít nhất là vào lúc đó.
Cô gái mỉm cười để trấn an tôi.
- Tôi bị nhốt ở đó khoảng bốn tháng. Khi chỉ còn vài người, họ nhốt riêng chúng tôi mỗi người một buồng. Rồi thì chuyện gì đến cũng đã đến. Ngày hôm ấy có một đoàn khách tới viếng thăm toà lâu đài đổ nát và tôi được đem dâng lên cho họ. Và rồi, tôi gặp được Marco, người mà tôi coi là người chồng thứ ba của mình, dù không hề làm lễ cưới hay tỏ tình yêu đương. Anh ấy trẻ lắm, trông như mới chỉ ngoài hai mươi mà thôi. Anh chàng đến bên mấy buồng giam chúng tôi mà thảng thốt đến kinh ngạc.
Tiểu thư Rose cười khúc khích khi nhớ lại những kỷ niệm ấy. Cô nói tiếp.
- Anh chàng định từ chối lời mời của những kẻ ở đó, nhưng chính hai vị sếp đi theo anh ta lại giục rối rít lên, bắt anh phải chọn một ai đó, như thể đó là điều bắt buộc phải làm. Và các ngài biết không, anh ấy đã chỉ vào ba người sau khi đôi mắt ánh lên tia sáng. Sau này, tôi mới hiểu anh ấy định cứu càng nhiều người càng tốt. Nhưng mà chuyện không thành, những kẻ đó không cho phép. Và rồi anh ấy chọn tôi.
- Và bà đã... - Tôi ngập ngừng - Yêu anh ta sau khi đã trao thân.
Tiểu thư Rose lắc đầu quầy quậy nhìn tôi như có vẻ hờn trách:
- Thưa bác sỹ, ngài hạ thấp trái tim và xúc cảm của tôi như thế sao? Trải qua ngần ấy chuyện, ngài cho rằng tôi có dễ dàng để một chàng trai mới gặp len vào trái tim mình ư?
Tôi ngượng đỏ cả mặt cúi đầu xin cô gái kể tiếp. Tiểu thư Rose cũng nhẹ nhàng tiếp mạch câu chuyện.
- Anh ấy ôm lấy tôi rồi vác cả người tôi lên vai. Đôi tay giữ chặt lưng tôi khi ấy run lên vì giận dữ. Lúc ấy tôi đã tưởng mình sẽ bị một kẻ chỉ đáng tuổi cháu chắt đè ra hãm hiếp, nhưng không. Anh ấy bế tôi về phòng ngủ và đặt tôi lên giường nhưng không làm gì cả. Điều đầu tiên tôi thấy là anh chàng chỉ ôm đầu lẩm bẩm điều gì đó có vẻ giận dữ lắm. Sau đó, anh chàng bỏ mặc tôi nằm trên giường mà ngồi vào cái bàn bên cạnh mà hý hoáy viết gì đó. Tôi thì cũng tưng tửng mà ngồi dậy ngó nghiêng, sau đó đi loanh quanh trong phòng xem xét từng cuốn sách, từng tấm bản đồ. Lúc ấy tôi mới biết tên anh ta và cả cấp bậc nữa. Anh chàng dù còn rất trẻ nhưng đã là thiếu tá. Bức thư anh ta viết là gửi cho một vị tướng cấp trên để tố cáo những chuyện kinh khủng ở nơi đó. Có lẽ anh ta cũng nghĩ tôi chỉ là một cô gái thôn quê mù chữ nên cũng chẳng bận tâm. Thế rồi (quý cô Rose ngước lên trần nhà thư thái nói), chúng tôi ở trong đó liền ba ngày ba đêm. Đồ ăn được đưa vào đầy đủ, chiếc giường đôi được cả hai ngăn đôi để không đụng đến nhau. Ai cũng tưởng chúng tôi đang ân ái hưởng lạc trong những ngày đó. Phòng bên cạnh là tiếng la hét của những ông tướng già với các cô gái khác. Marco không hề động tới tôi nhưng anh ta cũng chẳng chịu nói với tôi lời nào.
Tiểu thư Rose ngừng nói như để chiêm nghiệm thêm, sau cùng cô đứng lên và đi loanh quanh trong phòng khách như đang suy tư nhiều lắm. Tôi và Riddle cũng đứng lên đi theo cô gái. Tôi cũng tận dụng vị thế chủ nhà mà rót thêm cho họ chút nước hoa quả. Tiểu thư Rose đột ngột quay người lại nhìn chúng tôi bằng một động tác xoay người trên những đầu ngón chân hết sức duyên dáng. Cô nói với giọng như hờn trách:
- Đó cũng là điểm tôi không ưa anh chàng này. Có thể anh ta theo đuổi một tình yêu lý tưởng mà cố bơ đi tất cả mọi cô gái khác không đúng gu của mình. Việc đối xử như thể tôi không tồn tại trong những ngày đó, quả thực đã khiến tôi bị tổn thương.
Riddle cất lời như để bào chữa cho người đàn ông trong câu chuyện.
- Có thể anh ta chỉ đơn giản là đang quá chú tâm vào một việc khác mà thôi. Đàn ông ở cái tuổi ấy luôn đề cao sự nghiệp, hơn những ước muốn cá nhân tầm thường.
Tôi cũng gật đầu đồng tình với Riddle và khiến tiểu thư Rose mỉm cười. Cô nói như đang trách chính mình đa đoan.
- Có lẽ tôi đã quá nhạy cảm. Vâng, các ngài nói đúng. Ngoài mấy cảm giác không tốt ấy ra, còn lại tôi đều cảm thấy người đàn ông ấy không có gì đáng chê trách.
Tiểu thư Rose lại ngồi xuống ghế và trở lại dáng ngồi nghiêm trang. Chúng tôi cũng ngồi xuống nghe cô kể tiếp câu chuyện.
- Đến ngày thứ tư thì Marco cũng như bao vị chỉ huy khác đến đây. Họ mang theo những người phụ nữ về như một món quà. Tôi theo anh lên một chiếc xe ngựa và đi ra khỏi toà lâu đài với một đám lính hộ tống phía sau. Chúng tôi đi được nửa ngày đường thì Marco đã tìm được cách để đi riêng. Khi chỉ còn hai chúng tôi, anh ta dừng xe và bắt tôi xuống. Sau đó thì anh chàng phóng xe đi thẳng, bỏ lại tôi bơ vơ giữa một bìa rừng heo hút. Dù vậy, lúc ấy tôi mới hiểu, anh ấy là người tốt.
Tiểu thư Rose im lặng nhìn chăm chăm vào một điểm trên sàn nhà, giọng trầm hơn.
- Tôi lần mò mất mấy ngày mới tìm được một ngôi làng gần đó. Ở đấy, phe đối thủ đang làm chủ. Khi biết tôi cũng là nạn nhân, họ cũng niềm nở đón nhận tôi vào. Tôi cũng tranh thủ lúc ấy để thay tên đổi họ mà khoác lên người một thân phận mới. Tôi lấy tên Alice Mongser, và vẫn là hai mươi lăm tuổi mà thôi. Tôi được phân vào một nhóm y tá lo việc chăm sóc cho binh lính bị thương.
- Vậy là xong rồi ư? Chuyện của cô với anh chàng thiếu tá đến đó là dừng rồi ư? - Tôi hỏi và quý cô tiểu thư buồn bã lắc đầu.
- Vài tháng sau, đội quân khởi nghĩa mà tôi tham gia cũng tiến đánh cái toà lâu đài ấy. Quân đội từ đâu cũng kéo đến tham chiến rất ác liệt. Hai bên đánh nhau gần một tháng thì bên tôi cuối cùng cũng giành được chiến thắng. Vào cái ngày cuối cùng của cuộc chiến, tôi thấy Marco dẫn đầu cho đoàn quân khởi nghĩa tiến đánh vào sở chỉ huy phe xâm chiếm. Thì ra anh ấy đã phản bội lại đội quân của chính mình, có lẽ chính vì những gì đã xảy ra trong lâu đài ấy chăng. Tôi cũng không biết. Nhưng đúng là từ khi có sự giúp sức của anh ấy, đoàn quân khởi nghĩa đã chiến thắng liên tục.
Tiểu thư Alice thở dài, trong giọng nói có chút đượm buồn.
- Sau khi chiến thắng trở về, họ mang những kẻ tù nhân ra xét xử và kết án. Marco, dù đã lập được công lớn, nhưng xét lại những việc anh ấy đã làm khi còn ở bên kia, cái tòa án đó vẫn kết tội anh bằng hình thức treo cổ. Bản án ấy đã gây ra tranh cãi rất nhiều. Nhiều người coi anh ấy như một anh hùng. Nhưng cũng lắm kẻ muốn công tội rạch ròi, công đâu thưởng đó, tội đâu phạt đó. Anh ấy, khi đó đang bị thương và phải nằm trên cáng nghe phán xử, vẫn gật đầu mỉm cười như thể bản án ấy là một quyết định công bằng cho tất cả những việc đã xảy ra. Chính hình ảnh đó của Marco đã chinh phục trái tim tôi.
Tiểu thư Alice quẹt nước mắt trong lời kể nghẹn ngào.
- Vì cũng lập được công nên Marco không bị giam. Anh ấy được lưu lại trong bệnh xá để chăm sóc chờ ngày xử tử. Nhưng cơn nhiễm trùng của anh ấy ngày một nặng. Người anh đã gầy đi, xanh xao vì mất máu quá nhiều. Hôm đó, tôi nghe được mấy vị bác sỹ nói thầm với nhau rằng có thể Marco chẳng thể sống được qua đêm nay để lên giá treo cổ vào ngày hôm sau. Tôi hớt hải chạy ngay đi tìm một bà thầy lang và dốc hết số tiền cỏn con mình kiếm được để mua một bài thuốc bổ. Bà ta chỉ biết lắc đầu khi biết bệnh tình người mà tôi muốn cứu. Nhưng sau cùng, bà ấy vẫn đưa cho tôi một gói bột nhỏ dùng để pha vào cháo.
Tôi ngắt lời quý tiểu thư và khiến cô mỉm cười:
- Nếu vào thời bây giờ, tôi cam đoan với cô là anh ta sẽ không chết.
- Vâng, đúng vậy, hồi ấy những bác sĩ thầy lang nào đã biết kháng sinh là gì.
Tiểu thư Alice nói chậm dãi như đang bộc bạch với chính mình:
- Đêm đó, dùng thân phận y tá, tôi chẳng khó khăn gì để tìm đến bên Marco. Anh ấy đã thiếp đi từ bao giờ với hơi thở rất yếu. Tôi cố lay anh dậy và bón cho anh từng thìa cháo ấm. Cũng chính lúc đó, tôi nhận ra mình đã yêu anh ấy rất nhiều. Dần dần, anh ấy cũng tỉnh lại. Anh ấy nhận ra tôi, nhận ra cô gái ngày trước đã cùng anh sống trong tòa lâu đài cổ. Tôi cố gợi chuyện nhưng Marco chỉ mỉm cười. Tôi cố hỏi anh về gia đình anh, hỏi rằng nếu một mai anh chết, tôi sẽ phải tìm đến ai để báo tin hoặc mang anh  về với họ. Nhưng mặt anh chợt đanh lại và lắc đầu nhè nhẹ. Mãi sau này khi tìm hiểu tôi mới biết, gia đình Marco là một thủ lĩnh quân phiệt, đã nhiều đời gây nhiều tội ác. Marco chán ghét gia đình mình và cũng đã phản bội họ. Và họ cũng chẳng thể chấp nhận anh nữa, bởi chính họ là một trong những kẻ đứng sau cuộc chiến vừa rồi.
Tiểu thư Alice ngước nhìn lên trần nhà như đang hồi tưởng lại đêm hôm đó.
- Đêm đó, trăng sáng lắm. Khi ấy cũng đã gần nửa đêm, Marco cũng lịm dần trở lại vào cơn mộng mị. Nhìn một vị ân nhân, một người anh hùng, hay đơn giản chỉ là một người tốt từ từ lìa xa cõi đời, tôi không thể đành lòng. Trái tim tôi không cho phép điều ấy xảy ra, nhưng cũng đành bất lực. Thế rồi, một đám mây bay qua che đi ánh trăng mờ ảo. Tôi lần mò trong bóng tối để tìm tới khẩu súng của Marco. Rồi tôi leo lên người anh, để anh nằm trong cơ thể mình. Tôi không thể cứu anh khỏi cái chết nhưng tôi quyết giúp anh lưu lại trên cõi đời này một điều gì đó. Và thế là tôi cứ hì hụi trên cơ thể người đàn ông sắp chết ấy. Tôi không biết anh có nhận ra điều tôi đang làm không. Nhưng khi bóng mây tan đi, trả lại ánh vàng rực rỡ của trăng tròn, thì tôi đã mang trong mình di vật của anh ấy. Tôi sà xuống ôm lấy Marco và cũng lịm dần. Khi tôi tỉnh dậy vào gần sáng hôm sau, Marco chỉ còn là một cái xác.
Tiểu thư Alice ngừng lại đôi chút khi lướt qua vẻ mặt ngỡ ngàng của cả hai chúng tôi. Riddle gục đầu câm nín. Có lẽ câu chuyện cũng đang thử thách sức chịu đựng của cậu ta. Tiểu thư Alice  kể lể nhanh những sự việc sau đó:
- Sau đêm đó, tôi đã mang thai thật. Tôi lấy làm vui mừng lắm. Chưa bao giờ tôi thấy vui đến thế dù đã sinh con nhiều lần. Nhưng mà kinh nghiệm sống cũng giúp tôi nhìn thấy những hiểm nguy cận kề. Marco được chôn cất nhưng chỉ sau vài hôm đã có kẻ quật mồ anh ấy lên. Rồi thì vài người vốn coi anh ấy là một anh hùng mà dựng lên một bức tượng ở giữa làng. Một đêm nọ, bức tượng vỡ tan ra thành ngàn mảnh, xung quanh là chi chít những dấu vết của sự đập phá. Nhưng nguy hiểm hơn, đã có người nhìn thấy tôi ở bên Marco vào cái đêm đó. Và cũng đã có kẻ nghi ngờ tôi mang thai con của anh ấy. Điều đó khiến tôi không thể chần chừ. Tôi phải rời khỏi đó trước khi đứa trẻ ra đời, trước khi tôi trong thời kỳ sinh đẻ, chẳng thể chống lại bất kỳ kẻ nào có ý muốn hãm hại. Vậy là nhân một lần theo đoàn xe đi vào thành phố để trao đổi hàng hoá, tôi đã trốn ở lại nơi đó. Rồi tôi cũng chẳng dám ở lâu mà bắt một chuyến tàu đi thật xa, đến một thành phố xa lạ.
Tiểu thư Alice ngừng nói để uống thêm chút nước. Tôi cũng nhanh nhảu hỏi ngay.
- Vậy tiểu thư đã đến thành phố nào vậy?
- Ember! - Quý cô Alice đáp ngay không chút do dự. - Tôi chọn nơi đó vì nó khá sầm uất và thịnh vượng. Phải nói là tôi đã chán một cuộc sống vất vả lao động bằng chân tay. Tôi muốn một cuộc sống đủ đầy cho đứa con sắp chào đời. Dù vậy, nơi đó khá nhiều sương mù và ẩm thấp, tôi cũng đã khá khốn khó để thích nghi với nó.
Tiểu thư Alice ngừng một chút như đang lục tìm trong ký ức những mẩu vụn của thời gian. Sau cùng cô cũng kể tiếp với từng câu chậm rãi như đó là những ký ức khó nhớ.
- Tôi cũng thay tên đổi họ một lần nữa để tránh bị lần ra. Phải, tôi khi ấy là Isabella, họ là Cowell thì phải. Chắc là vậy rồi. Xin hai ngài thông cảm. Cuộc đời tôi ở nơi này là những ký ức đau buồn nhất mà tôi luôn muốn quên đi.
Tiểu thư Isabella đặt hai tay lên ngực khẩn khoản nhìn chúng tôi như cầu xin sự thông cảm. Cả tôi và Riddle cùng gật đầu xin cô kể tiếp. Hít một hơi thật sâu, quý cô Cowell tiếp tục trần thuật cuộc đời mình.
- Đầu tiên tôi kiếm một công việc làm thuê trong một xưởng sản xuất bánh mì. Với kinh nghiệm mấy chục năm nơi đồng ruộng, không khó để tôi được trả công như một thợ làm bánh lành nghề.  Bà chủ nơi đó cũng khá tốt bụng mà cho tôi ở tạm tại một gian phòng nhỏ đằng sau quán. Đó là những ngày khó nhọc nhất của tôi khi vừa phải lao động nặng nhọc, vừa phải sống trong môi trường nóng bức thường xuyên. Bên ngoài trời thì luôn mưa tầm tã, không khí luôn ẩm ướt khiến cơ thể như bị hầm nhừ, bốc mùi khó chịu. Nhưng tôi cũng không còn cách nào khác. Đó là công việc phù hợp nhất với tôi khi bụng mang dạ chửa lưu lạc ở một nơi xa lạ không người thân thích.
Tiểu thư Cowell cúi đầu trầm tư kể tiếp với giọng buồn buồn, như thể cô đang cố lọc ra những sự kiện quan trọng nhất trong mớ hỗn độn của ký ức.
- Cuối cùng thì tôi cũng tới ngày khai hoa. Cũng may khi ấy tôi đã kết bạn được với một vài người phụ nữ đứng tuổi để nhờ vả nên ca sinh thuận lợi. Nó là một bé gái xinh đẹp. Tôi đặt tên cho nó là Mari và lấy họ Marco để tưởng nhớ bố nó. Ngay khi khoẻ lại, tôi quyết định chuyển đi để tìm một công việc tốt hơn. Tôi đã trù tính trong đầu một vài công việc để có thu nhập cao hơn nhưng cũng không ngờ mọi chuyện lại dễ dàng đến thế.
- Ồ, vậy tiểu thư đã làm gì? - Tôi hỏi và thấy cô gái mỉm cười có vẻ chỉ đợi câu hỏi ấy.
- Tôi xin vào làm ở một quán bar ở trung tâm thành phố, và làm một người kể chuyện.
Cả tôi và Riddle đều tỏ vẻ ngạc nhiên về cái nghề này. Riddle nói với vẻ thành thực:
- Đó là một nghề rất khó, đòi hỏi kiến thức và kỹ năng nói chuyện đều phải rất tốt. Nhưng thời nay không mấy người làm nữa.
Tiểu thư Cowell đáp niềm nở.
- Đúng vậy, thời đó chỉ có những người đã ngoài bốn mươi mới dám làm cái nghề đó.
Tôi vỗ nhẹ lên người anh bạn đồng nghiệp trêu đùa.
- Ồ, cậu lại quên mất vị khách của chúng ta đã bao nhiêu tuổi rồi ư? Tôi tin chắc là tiểu thư dư sức làm công việc ấy một cách hoàn hảo. Nhưng mà xin hãy kể lại cho tôi nghe tỉ mỉ về cái nghề đó. Kiến thức của tôi thật sự không có nhiều.
Tiểu thư Isabella mỉm cười đáp lại yêu cầu ấy của tôi.
- Đó là một công việc khó khăn với nhiều người, nhưng lại khá thú vị đối với tôi. Mỗi tối, tôi đến đó và thay một bộ đồ chỉn chu. Rồi bước lên một sân khấu ở giữa quán. Tôi sẽ hát một vài bài theo yêu cầu của khách, ngâm một vài bài thơ, kể một vài câu chuyện, hoặc pha một vài trò cười. Cũng còn tùy theo hoàn cảnh xem hôm ấy có những ai đang ngồi ở đó. Mỗi người mỗi vẻ, luôn phải lựa theo tính cách và tâm trạng của từng khách hàng, để chọn một câu chuyện, một bài hát để thu hút họ. Đúng như bác sĩ Riddle nhận xét, làm cái nghề đó quả thật cần một vốn kiến thức và vốn sống to lớn.  Và tiết mục khó nhất chính là khi một khách hàng cô đơn nào đó gọi bạn xuống ngồi cùng họ, tâm sự với họ. Khi lên sân khấu thì có thể kể nói những gì đã chuẩn bị từ trước. Nhưng khi ngồi trò chuyện mặt đối mặt, ta cần sự ứng biến và thấu hiểu.
- Và tôi thấy quý tiểu thư có tất cả những điều đó. - Riddle nói và khiến quý cô gật đầu cảm tạ.
Tiểu thư Cowell nói tiếp với giọng hồ hởi.
- Ngày ấy, người kể chuyện giữ một vai trò quan trọng trong những quán rượu đêm. Đôi khi, người ta đến cái quán ấy chẳng phải vì rượu ngon hay giá rẻ, hoặc đường đi gần gụi, mà là vì có một người kể chuyện hấp dẫn đang sẵn sàng tiếp đón. Tôi vào lúc ấy cũng vậy. Những buổi đầu tiên tôi chỉ giữ vai trò người ngâm thơ hoặc là ngồi đối ẩm cùng khách khi họ có yêu cầu. Một phần vì tôi mới sinh con nên vóc dáng vẫn chưa trở lại như bình thường. Phần vì cũng khó mà cạnh tranh được với những người đang làm ở đó. Rồi tôi chớp được thời cơ khi một lần người kể chuyện của quán vốn là một anh chàng ngoài năm mươi tuổi đổ bệnh. Những vị khách ở đó bất ngờ vì giọng hát của tôi, họ tán thưởng cách tôi ngâm nga một bài thơ dân gian xưa cũ, lúc thì ngẩn người ra suy tư khi tôi kể về những niềm tin tôn giáo. Rồi lại cười oà lên khi nghe tôi kể những câu chuyện cười mà tôi đã góp nhặt bao năm. Khi nhận tháng lương đầu tiên, tôi đã tự thưởng cho mình một bộ quần áo thật lộng lẫy và kiêu sa. Rồi tôi cũng từ việc được chia sẻ sân khấu dần trở thành người kể chuyện chính của quán. Quán bắt đầu đông khách dần. Tôi nghĩ phần nhiều vì sắc đẹp của mình. Còn lại có lẽ là tới từ những câu chuyện tôi kể ra, khi mà người đến có cả những nhạc sỹ, nhà thơ, bác sĩ, luật sư. Những người có tri thức đến một quán rượu chỉ để ngắm một cô gái ư, không, chắc hẳn là có gì hơn thế chứ. Ừm, chắc các ngài cũng đoán được, họ đến vì không ngờ một cô gái trẻ như tôi lại mang trong mình nhiều kiến thức uyên bác như thế.
- Và cả duyên dáng nữa chứ? - Tôi bổ sung và khiến quý cô Cowell mỉm cười gật đầu.
Người con gái tiếp tục câu chuyện bằng giọng nói thâm trầm.
- Tôi trở thành vật hút khách và giữ khách của quán nên họ trả lương tôi cao lắm. Cũng vì thế mà cuộc sống của tôi dần dễ chịu hơn. Tôi mua một căn nhà khi Mari được sáu tháng tuổi và thuê hai người giúp việc để chăm bẵm cho nó. Tôi muốn Mari bé bỏng của tôi luôn được đủ đầy. Nhưng đổi lại, tôi cũng ít dần những khoảng thời gian để dành cho nó. Quán thường mở khuya hơn, khách thường ngồi lâu hơn, yêu cầu tôi phục vụ họ nhiều tiết mục hơn. Và rồi, cũng là quy luật bình thường thôi, tôi lại có những người theo đuổi. Họ chẳng màng tới việc tôi đã là mẹ, cứ tối tối đến quán chỉ cốt được gặp tôi, rồi lại tranh nhau đưa tôi về nhà khi hết giờ đóng cửa. Giờ về của tôi cứ khuya dần, những người làm phiền cũng nhiều lên khi họ còn tới nhà tôi cả vào ban ngày để xin trò chuyện. Trong số đó cũng có nhiều người giàu có hoặc quyền thế hoặc cả hai. Tôi cũng cảm thấy bị căng thẳng bởi những thứ áp lực vô hình ấy đè nặng lên mình.
Quý cô Isabella thở dài khi vén một lọn tóc qua tai. Cô kể tiếp với giọng buồn rầu.
- Thế rồi, một loạt sự kiện xảy ra đã buộc tôi phải thay đổi cuộc sống của mình. Ấy là vào một đêm, trên đường về nhà từ quán rượu, đã có những kẻ lưu manh đợi sẵn để trấn tiền của tôi. Cũng may, người đánh xe đã nhanh trí nên tôi mới thoát nạn. Lần khác, có kẻ đã đột nhập vào nhà tôi. Tôi vừa về đến cửa thì bắt gặp kẻ đó trèo qua cửa sổ chạy trốn. Tôi không lo nghĩ nhiều về số của cải bị mất, mà lo cho Mari đáng thương của tôi. Nếu chẳng may, nó bị bắt cóc hay làm sao đó, tôi không biết mình sẽ sống tiếp như thế nào. Quả thật, bọn tội phạm đang hoành hành dữ dội trong thành phố vào thời điểm đó. Và nhất là, những lá thư cầu hôn, và cả những màn cầu hôn trực tiếp của những anh chàng si tình cứ đến với tôi ngày một thường xuyên. Tôi dần dần nảy ra ý nghĩ rằng mình phải tìm một nơi để nương tựa mới mong giải quyết hết những vấn đề này.
Tôi vỗ đùi tán thành ý kiến của tiểu thư Isabella nhưng chỉ nhận lại một nụ cười nhạt đầy mai mỉa đến chua xót.
- Tôi hoàn toàn nhất trí với ý tưởng đó. Một người đàn ông bên cạnh sẽ giải quyết vấn đề lúc đó của cô. Ủa, sao cô không được vui? Lẽ nào đó là một quyết định sai lầm?
Tiểu thư Isabella lắc nhẹ đầu nói tiếp bằng giọng đều đều.
- Ban đầu, đó đã là một quyết định sáng suốt.
Quý cô thở một hơi dài kể tiếp.
- Thế là tôi bắt đầu lựa chọn cho con mình một người cha dượng. Với những tiêu chí rất cụ thể đó là: giàu có, có một chút quyền lực trong vùng, hiền lành, không có thói vũ phu, và nhất là có thể chấp nhận Mari của tôi như con ruột. Tôi bắt đầu tìm hiểu những người đang theo đuổi mình và cuối cùng cũng chọn được một người ưng ý. Anh ta tên là Root Caven, khi ấy đã ngoài bốn mươi tuổi, và là con một trong một gia đình giàu có bằng nghề sản xuất xì gà. Root đã có vợ, người mà được gia đình sắp đặt khi mới mười sáu tuổi. Họ chưa từng có con, và nay người vợ ấy đang nằm liệt giường trong tình trạng thập tử nhất sinh. Nhưng tôi chọn anh ấy không phải chỉ vì gia thế ấy. Root có một thân hình mập mạp béo tốt nhưng không hề ù lì. Anh ấy tốt tính và rất yêu quý trẻ con. Tôi từng nhiều lần thấy anh cho tiền những đứa bé bán báo trên đường. Sau một lần mời anh vào nhà chơi, thấy Mari cười tươi roi rói trong vòng tay của Root, thì tôi cũng chọn được bến đỗ mới cho mình.
Tiểu thư Cowell ngừng lại để nhấp thêm một ngụm nước, có vẻ cô đang đắn đo xem nên kể tiếp như thế nào. Sau cùng, cô gái cũng tiếp lời một cách rành rọt.
- Tôi làm lễ thành hôn với Root khi Mari được ba tuổi. Tôi bồng theo con bé trong đám cưới. Khi ấy, vợ của anh ấy vẫn còn sống nhưng tôi cũng đã chính thức trở thành quý bà Caven. Tôi chuyển về toà biệt thự to nhất vùng ở ngoại vi thành phố, tránh xa bọn tội phạm và những kẻ si tình.
- Chắc hẳn quán rượu nơi cô làm việc ngày hôm ấy đầy rẫy những kẻ chán chường? - Riddle hỏi và khiến quý bà Caven bật cười.
- Đúng vậy. Họ là những người buồn nhất. Sau khi tôi đi được một thời gian, quán ấy cũng đóng cửa vì không có khách. Nghe đâu khách hàng đòi phải có tôi mới chịu đến quán. Họ đổ lỗi cho chủ quán đã không giữ chân được tôi nên mới giở trò ăn vạ ấy. Nhưng thế cũng may, tôi không còn bị họ quấy rầy nữa.
Quý bà Caven im lặng một lúc lâu khiến cả tôi và Riddle đều đã tưởng cô gái lại đang chìm đắm vào quá khứ. Tôi đành hắng giọng khi thấy cô gái đã ngồi im gần năm phút. Quý cô Isabella ngẩng mặt lên nhìn chúng tôi với một dòng nước mắt chảy ta từ khoé mắt. Cô gái mở lời với giọng run run.
- Xin các ngài cho tôi chút thời gian để bình tâm lại. Đó là quãng thời gian tôi luôn muốn quên đi. Được rồi, tôi sẽ kể, sẽ kể hết mọi sự tình, dù nó có đen tối đến đâu.
Hít một hơi sâu, tiểu thư Isabella bắt đầu nói.
- Cuộc sống của tôi ở nhà Caven ban đầu rất tốt. Cha mẹ chồng tôi yêu quý và chiều chuộng tôi lắm. Họ cho tôi thoả sức theo đuổi những thú vui như ca hát hay múa ba lê. Và khi biết tôi cũng rất rành chuyện buôn bán, họ càng yêu quý tôi hơn vì biết có thể trông cậy vào tôi mỗi khi họ đi vắng. Có một chuyện khi ấy đã làm tôi suy nghĩ và ám ảnh, nhưng giờ không còn nữa. Ấy là về người vợ đầu của chồng tôi. Người ấy mất chỉ một tuần sau lễ cưới của chúng tôi. Lúc ấy tôi đã hoảng sợ vì có điều gì khuất tất nhưng mãi sau này khi âm thầm tìm hiểu, tôi cũng hiểu ra là không có gì cả. Mọi chuyện chỉ là tự nhiên mà thôi.
Riddle hỏi ngay như một căn bệnh nghề nghiệp khó chữa.
- Người đó bị làm sao? Có thể cho tôi biết không?
Tiểu thư Isabella đáp ngay kèm theo với khá nhiều chi tiết.
- À, tôi nghe họ nói là bệnh trái rạ. Dù không được nhìn thấy trực tiếp nhưng sau này có dịp vào căn phòng ấy, tôi vẫn thấy trên sàn những vệt loang lổ của một thứ dịch gì đó chảy xuống. Nhà chồng tôi khi ấy tổ chức hoả táng một cách âm thầm cô ấy. Một đám tang không người thân đưa tiễn, chẳng có ai mặc đồ tang. Họ chỉ đơn giản mang cô ấy đi thiêu rồi gom xương cốt bỏ vào một cái huyệt đào sẵn. Chẳng có từng hàng người đến đưa tang, chỉ duy nhất có Root đứng bên mộ cô ấy vài phút rồi quay về. Những người trong nhà cũng cư xử bình thản như không có gì xảy ra. Mãi sau này tôi mới biết họ làm vậy là vì tôi. Họ theo lệnh của ba mẹ chồng tôi, luôn cố giữ cho không khí gia đình được vui vẻ bình yên. Có lẽ họ nghĩ tôi cũng giống như bao cô gái tầm thường khác, sẽ cáu giận ghen tuông khi thấy nhà chồng quan tâm đến người vợ trước. Không, tôi có ghen nhưng chưa bao giờ đi ghen với người quá cố.
Chúng tôi gật đầu khi đã dần hiểu ra tâm trạng của cô gái khi ấy. Tiểu thư xinh đẹp kể tiếp câu chuyện với ánh mắt nhìn đi xa xăm.
- Tôi sinh cho Root một đứa con trai, đặt tên là Bennie. Mọi người hay gọi nó là Ben. Nó kém Mari năm tuổi và rất khoẻ mạnh. Cuộc sống cứ thế êm đềm trôi đi. Thời gian của tôi đều giành hết cho hai đứa trẻ. Vì sinh trưởng trong cuộc sống đủ đầy, cả hai đều phát triển rất tốt, đều rất thông minh. Mari bộc lộ tiềm năng trong mấy bộ môn cưỡi ngựa bắn cung, còn Ben thì ham mê kinh doanh như cha nó. Chỉ có Root là khiến tôi lo hơn cả. Đây là người chồng đầu tiên tôi lấy mà không thực sự yêu đương. Tôi đã tưởng mình sẽ dần có tình cảm với anh ấy sau một thời gian chung sống. Nhưng không, trái tim có cái lý của nó, không ai hiểu được. Và tôi cũng chẳng thể ép nó làm theo ý mình. Tôi dần nhận ra hai chúng tôi khác xa nhau, không thể đồng cảm hay thấu hiểu. Tôi cố giữ sự quan tâm để níu kéo trái tim anh ấy. Nhưng có lẽ chính Root cũng dần cảm thấy như tôi. Tình cảm giữa chúng tôi dần trở lên xa cách. Thứ giữ chúng tôi bên nhau dần chỉ là trách nhiệm với gia đình mà thôi. Thế rồi anh ấy dần thay đổi. Thì các ngài cũng biết mà, ai cũng cần tìm một người hiểu mình để chia sẻ những chuyện buồn vui. Root cũng vậy. Anh ấy đi tìm nguồn vui trong những chuyến đi xa nhà. Tôi cũng phát hiện ra những chẳng thể làm gì. Cũng may, cha mẹ anh ấy như một khuôn thước thép luôn giữ anh ấy trong giới hạn, không dám làm gì quá đáng.
Ngừng một hơi để uống nước, tiểu thư Isabella kể tiếp với nhịp điệu nhanh hơn.
- Thế rồi Mari lấy chồng. Ừ, nó được nhiều người theo đuổi lắm. Có lẽ một phần vì tên tuổi của tôi hồi làm ở quán rượu. Các chàng trai đến với nó cũng mong nó hát hay và múa đẹp như tôi. Và nó đã không làm họ thất vọng. Nó kết hôn với một anh lính hải quân tên Rich, vốn là con cháu của một quý tộc trong vùng. Sau cái đám cưới lớn nhất thành phố ấy, Mari theo Rich về sống tại một pháo đài trông ra biển. Nó ít khi đến thăm tôi nhưng vẫn hay gửi cho tôi những bức ảnh làm kỷ niệm.
Nói đoạn tiểu thư Isabella mở chiếc cặp đen và lục tìm những thứ ấy. Tôi hỏi và quý cô đáp ngay chẳng hề nhìn lên.
- Cô có cho con gái biết về cha mình không? Về Marco ấy.
- Có chứ. Tôi kể tất. Nhưng nó cũng nói rằng nó không hề muốn tìm gặp những người họ hàng bên ấy. Nó chỉ cần mình tôi là đủ.
Tiểu thư Isabella chìa ra một xấp ảnh và đưa cho chúng tôi. Bức ảnh trên cùng là hình đen trắng chụp một cô gái trong bộ đồ diêm dúa đang tạo dáng. Đằng sau là một pháo đài cổ trông ra biển. Người con gái trong bức ảnh cũng rất xinh đẹp nhưng nếu so với người đang ngồi đối diện với chúng tôi thì còn kém xa. Thu về những bức ảnh cũ kỹ, tiểu thư Isabella kể tiếp câu chuyện, nơi mà tôi dám chắc sẽ đầy chuyện đen tối. Cả tôi và Riddle cùng nín thở lắng nghe.
- Mọi chuyện dần tồi tệ khi cha mẹ chồng tôi lần lượt qua đời. Root trở thành người chủ gia đình. Ừ, thì anh ấy cũng làm tốt thôi. Nhưng không có cha mẹ ghìm cương, con thú hoang trong người anh ấy bắt đầu sổng chuồng. Root bắt đầu sa đọa vào những thú vui hèn kém. Đầu tiên là cờ bạc thâu đêm. Tiếp đến là cặp bồ với những cô gái làng chơi. Tiếp đó là hút hít những loại thuốc gây nghiện. Tôi cố ngăn anh ấy mà không được. Sự suy đồi ngày một xấu hơn. Và điều tồi tệ nhất là về Ben. Nó rất yêu thương tôi. Một lần nó đã cự cãi với cha nó khi Root giở trò bạo lực với tôi. Sau lần ấy, cha con nó ngày một mâu thuẫn nhau, không thể hàn gắn. Chủ yếu là ở Ben, nó dần coi thường cha nó bởi những hành vi ấy. Nhưng nó cũng chẳng hơn gì. Không có sự làm gương của người cha, đứa con trai cũng dần đi theo con đường hư hỏng. Nó cũng bắt đầu đam mê cờ bạc, chểnh mảng học hành. Rồi lại đòi chúng tôi giao dần cho nó việc kinh doanh. Ừ thì nó cũng làm được nhưng cũng vì thế mà tự mãn hơn. Bạn bè của nó cũng dần có thêm những thằng lưu manh trộm cắp.
Hai hàng nước mắt tuôn rơi trên khuôn mặt người thiếu phụ khi cô khóc nấc lên kể tiếp.
- Bi kịch ập đến vào cái ngày thằng Ben nằng nặc đòi bố nó cưới cho nó một cô ca sĩ phục vụ ở quán rượu về làm vợ. Đương nhiên là Root không đồng ý vì con nhỏ hơn thằng bé cả chục tuổi. Khi ấy nó mới ngoài hai mươi. Thế rồi Root nói câu gì đó xúc phạm đến tôi, đại loại như là: cưới cái loại ấy về rồi lại như mẹ mày hả, vậy đó. Ben cũng nổi giận mà bảo rằng: Nếu bà ấy không phải mẹ tôi thì tôi đã cưới bà ấy rồi. Vậy đó. Một thời gian sau, tình hình không có gì tiến triển nhưng lại bình yên đến đáng sợ. Một ngày cuối tuần, Ben rủ cha nó đi câu cá. Khi nó trở về vào đầu giờ chiều, nó đã quỳ gối trước mặt tôi và thú nhận nó vừa mới giết cha mình để hai mẹ con được ở bên nhau. Rằng: chả phải lão ấy là người đã kìm kẹp mẹ bấy lâu nay hay sao. Và rằng: nó chỉ cay cha nó khi không cho nó làm theo ý mình thôi, chứ thực ra nó cũng không yêu đương gì cái cô ca sĩ kia cả. Và rằng: người nó yêu thực sự chỉ có mình tôi. Các ngài biết không, nó đã nói như vậy đấy. Rằng nó yêu tôi không phải như tình mẹ con máu mủ mà như tình cảm yêu đương trai gái vậy.
Tiểu thư Isabella khóc nghẹn khi kể lại sự tình.
- Tôi đã bàng hoàng trước những gì nghe được. Tôi định chạy ra hô hoán người đi cứu Root thì nó đã ngăn tôi lại. Nó như con thú dữ mà đè tôi xuống giường. Rồi mặc tôi la hét, nó đã cưỡng hiếp tôi trên chính cái giường của cha mẹ nó. Cưỡng hiếp chính mẹ ruột của mình.
Tiếng khóc lớn dần khi cô gái như đang sống lại ngày kinh hoàng đó. Cả tôi và Riddle bàng hoàng nhìn nhau. Đôi bàn tay tôi nắm chặt lại trong tức giận. Tâm trí tôi như lạc vào ngã ba đường, nửa muốn biết diễn biến tiếp theo của sự việc, nửa sợ những gì phải nghe thêm. Cố kìm tiếng khóc trong cổ, tiểu thư Isabella kể tiếp trong hơi thở đứt đoạn.
- Tôi bị ngất xỉu đi. Khi tỉnh lại thì Ben đã bỏ đi. Nó đã khoá trái cửa phòng để không ai tìm thấy tôi. Cũng vừa lúc ấy người người nháo nhào. Ai đó đã tìm thấy Root và báo cho quản gia. Họ vớt xác anh ấy lên và đem về. Tôi phá cửa xông ra thì cảnh sát và bác sĩ đều đã đến đủ cả. Họ kết luận chồng tôi bị đuối nước do tai nạn. Vị luật sư cũng tuyên bố bắt đầu mở thủ tục thừa kế theo di chúc của Root. Tôi gục ngã trước thi thể của chồng. Những người trợ lý thì chạy đôn chạy đáo để tìm Ben, vì họ biết Ben khi ấy sẽ trở thành chủ nhân mới của họ. Và rồi, đứa con trai hư hỏng của tôi xuất hiện. Nó nhanh chóng thâu tóm vấn đề và nắm quyền chỉ huy toàn bộ mọi người. Tôi căm giận đứng lên mắng chửi nó thậm tệ thì nó ra lệnh người hầu đưa tôi lên phòng để nghỉ ngơi, lấy lý do tôi đã quá đau buồn vì cái chết của chồng. Mặc cho tôi la hét kêu gào, nó ra lệnh nhốt tôi lại trong suốt một tháng trời. Tôi không thể làm gì, chỉ ngày ngày nhận đồ ăn từ người hầu. Họ cung phụng tôi tử tế nhưng vẫn coi Ben là chủ nhân thực sự. Rồi một hôm, tôi phát hiện mình đã mang thai. Cái thai của Ben. Tôi kinh hoàng đến điên dại. Cũng vừa lúc ấy nó đến gặp tôi và quỳ gối xin tôi tha thứ. Tôi đã trì triết nó đến thậm tệ. Nhưng nó vẫn chịu đựng mà khóc lóc bảo rằng: xin mẹ vì gia đình Caven mà tha lỗi cho con, tha cho cả đứa trẻ trong bụng, vì trẻ con không có tội. Tôi đã chết đứng trước lời cầu xin của nó. Sau cùng tôi đã không nói ra và để nó lãnh quyền thừa kế cơ ngơi của cha nó. Với giao hẹn, đứa bé sẽ được sinh ra trên danh nghĩa là em trai của nó. Nó gật đầu và từ hôm ấy nó cho tôi được tự do.
Riddle hỏi ngay, trong giọng nói thoáng chút giận dữ.
- Cô dễ dàng tha thứ cho những hành động ấy sao? Với tôi thì điều ấy không thể tha thứ.
Tôi cũng gật đầu đồng tình với anh bạn đồng nghiệp. Đó thực sự là một câu chuyện sẽ ám ảnh tôi suốt đời. Tiểu thư Isabella cúi đầu chùi nước mắt nói như cầu xin hai chúng tôi.
- Tôi cũng như các ngài thôi. Sự việc ấy nằm ngoài mọi luân lý đạo đức mà tôi đã nhất nhất tuân theo, nên chẳng thể nào tha thứ được. Nhưng xin hai ngài cũng hiểu cho, tôi thực sự không còn sự lựa chọn nào khác. Nếu chọn phanh phui toàn bộ sự thật, có thể tôi sẽ mất tất cả. Không không, không phải mất tất cả như những gì các ngài nghĩ đâu. Mà nó sẽ tồi tệ hơn nhiều.
Cả tôi và Riddle nhìn nhau rồi cùng nhìn cô gái ấy để tìm lời giải thích.
- Nếu tôi mang chuyện ấy kể ra, Ben cũng sẽ có cách chặn lại được, để câu chuyện không lan ra. Nếu cố tình, nó sẽ không ngại vu cho tôi bị điên mà bắt nhốt tôi lại. Bởi tôi biết, nó thực sự đã xây dựng được một mạng lưới các mối quan hệ tốt đẹp với rất nhiều người có thế lực ở trong vùng. Với tính cách của nó, nó sẽ chẳng bao giờ nhận sai mà sẽ cố hàn gắn lại, càng sửa lại càng sai. Và đến một lúc nào đó, nó sẽ chẳng còn cho tôi cái tôn nghiêm của người mẹ mà đè tôi ra để làm chuyện sai trái thêm một lần nữa. Tôi chấp nhận tạm tha cho nó, tạo cho nó cái cảm giác tội lỗi mỗi khi nhìn thấy tôi, để mà kiêng sợ rồi không dám làm những điều sai trái nữa.
- Đó là suy tính của bà ư? Và nó hiệu quả chứ? - Tôi hỏi và nhận được một cái gật đầu chắc chắn.
- Nhận thức tội lỗi đó đã khiến nó từ từ thay đổi. Mỗi lần gặp, tôi lại hỏi han nó về công việc, rồi lại ép nó làm tốt hơn, tốt hơn nữa, chỉ cho nó chỗ sai cần sửa chữa. Nó chẳng dám cãi lời rồi chú tâm vào công việc hơn, vì thế mà cũng ít thời gian hơn để đi sa đọa.
- Cậu ta thật sự thay đổi như thế ư? - Tôi thắc mắc. - Trước kia cậu ta còn dám làm những chuyện khủng khiếp như vậy cơ mà.
Tiểu thư Isabella lắc đầu bảo tôi.
- Chắc ngài chưa có con bao giờ phải không, thưa bác sĩ Carl. Đó là tâm lý của trẻ con, và thằng Ben chỉ như một đứa trẻ lớn xác. Khi nó không được làm một điều gì đó, nó sẽ nghĩ mình bị thiệt thòi, coi mình là nạn nhân. Nhưng một khi nó làm điều gì đó xấu cho ai đó như tôi, nếu tôi bỏ qua, coi như mình là kẻ chịu thiệt hại, nó sẽ có tâm lý hối hận và bứt rứt muốn chuộc lại lỗi lầm. Một lần tôi chỉ nói vu vơ rằng có một chỗ dột trong nhà kho, nó đã cho người thay cả mái nhà.
Riddle gật gù trước những lời ấy. Sự từng trải như vậy rõ ràng chỉ xuất hiện ở người đã làm mẹ nhiều lần. Anh hỏi ngay về điều nhạy cảm và khiến cô gái lại phải cúi đầu.
- Vậy còn đứa trẻ thì sao? Cô đã sinh nó chứ?
- Tôi đã. Nó là một bé trai, tôi đặt tên nó là Bogey. Đúng như thoả thuận với Ben, Bogey trở thành em trai của nó. Nhưng cũng vì thế mà tôi cảm thấy ghê tởm với chính mình khi đã cố sinh ra nó. Rồi cũng ghê tởm luôn sang cả nó. Tội nghiệp Bogey. Ngày ấy, tôi dửng dưng với chính đứa con mình đẻ ra. Tôi thuê hai bà vú để thay nhau chăm sóc cho nó. Còn tôi thì tự tìm niềm vui ở những khúc nhạc, bài thơ. Đúng vậy, tôi đã từng coi nó là thứ của nợ chướng tai gai mắt. Lớn lên một chút, tôi dạy dỗ nó bằng sự nghiêm khắc chưa từng có với bất cứ đứa con nào trước kia. Nhất là mỗi khi có mặt Ben, tôi lại càng đòi hỏi cao hơn ở Bogey bé nhỏ. Thế rồi, thời gian thấm thoát thoi đưa...
Tiểu thư Isabelle đưa đôi mắt nhìn đi xa xăm để hồi tưởng lại từng tình tiết của quá khứ.
- Năm Bogey lên tám tuổi thì Ben mất. Cơ thể nó đã phát tướng đến mức chỉ có thể nằm và ngồi. Nó uống rượu rất nhiều và thường xuyên quát mắng người làm. Dù vậy nó điều hành công việc vẫn rất suôn sẻ, như đã hứa rằng sẽ không để cơ ngơi của gia đình đổ bể trong tay nó. Có lẽ ra cơ sự ấy cũng là do tôi. Tôi chỉ hướng nó vào công việc mà không nhắc nhở nó quan tâm đến chính bản thân mình. Để rồi nó tự tàn phá bản thân bằng rượu và ăn uống quá độ. Những năm tháng ấy, tôi đã luôn nhìn nó bằng ánh mắt ghê tởm như muốn nó chết quách cho xong.
Tiểu thư Isabelle rút một cái khăn tay ra và oà lên khóc nức nở. Cô gái vùi mặt vào chiếc khăn tay mà thổn thức không ngừng. Hai kẻ đàn ông thô kệch chúng tôi không đủ sự tinh tế dịu dàng để vỗ về cô gái nên cũng đành nhìn nhau thở dài. Mãi một lúc, quý cô nhà Caven mới nói tiếp trong tiếng nấc cụt.
- Ngày hôm ấy, Ben nằm giữa nhà, trên một cái giường lớn, hơi thở nặng nhọc và nói không ngừng để giao việc cho mọi người. Nó không ngừng lầm bầm mắng mỏ và miệt thị những người không vừa ý nó. Nhưng khi nhìn thấy tôi, cơn giận trong người nó như biến mất. Nó gục xuống giường nhìn tôi. Hai khoé mắt chảy ra hai dòng nước mắt. Miệng nó lắp bắp nói trong hơi thở cuối cùng: Mẹ, con xin lỗi. Tôi chẳng biết phải làm gì, chỉ có thể vén mớ tóc ra khỏi trán nó rồi gật đầu một cái. Chắc nó coi đó như lời tha thứ của tôi mà thở ra một hơi cuối cùng rồi tắt thở.
Cả hai chúng tôi cũng cúi đầu. Lòng tôi chộn rộn vì những cảm xúc đan xen. Tiểu thư Isabelle kể nốt đoạn cuối cuộc đời mình trong gia đình Caven khi đã bình tâm hơn.
- Từ ngày đó, tôi tiếp quản công việc làm ăn của gia đình. Khi Bogey lên mười sáu tuổi, cũng đã quán xuyến được một phần công việc, tôi bắt đầu lên kế hoạch để ra đi. Tôi đến thăm Mari lần cuối. Khi trở về, tôi nhờ vả mấy người thân cận giúp đỡ Bogey rồi lặng lẽ rời đi. Nói dối rằng tôi có người bà con xa lâu ngày không gặp và muốn ở đó vài năm. Ngày chia tay, tôi mới thấy thương cho thằng bé. Mới mười mấy tuổi đầu mà đã phải gánh trên vai cả một gia tộc. Tôi cũng định ở lại thêm vài năm cho nó lớn hẳn, nhưng tình thế lúc ấy xem ra không còn kịp nữa rồi. Vì trong mắt họ, đáng nhẽ tôi phải là một bà cô già hơn năm chục tuổi chứ không phải phơi phới như thế. Tôi đành lòng ra đi, chỉ mang theo chút tiền bạc làm lộ phí.
- Và bà đã đi đâu? - Tôi hỏi ngay như muốn kết thúc cái không khí u ám ngột ngạt của hiện tại.
Tiểu thư Isabella trở lại dáng vẻ bình thường khi đã lau dần nước mắt.
- Tôi chẳng đi đâu xa cả. Tôi đi tới ngay thành phố bên cạnh và thuê một căn nhà nhỏ. Tôi định bụng sẽ quan sát gia đình mình từ xa. Hàng tuần vẫn viết thư gửi về nhà cho họ yên tâm. Cốt yếu là chắc chắn Bogey đủ sức quản lý công việc. Nếu có chuyện gì lớn xảy ra, hoặc là tôi sẽ bày cách giải quyết cho nó trong những bức thư, vạn bất đắc dĩ tôi mới quay trở lại để lo toan.
- Và cô đã thay tên đổi họ một lần nữa? - Riddle ướm hỏi và nhận được một cái gật đầu xác nhận.
- Đúng vậy, tôi lấy tên Anna và xin làm ở một cửa hàng bán hoa tươi. Nhờ am hiểu về cách giữ hoa tươi lâu mà tôi không khó để có được sự tin tưởng. Điều khó khăn với tôi lúc ấy là giấy tờ. Khi ấy tôi đã không thể bịa ra nhân thân cho chính mình. Vậy là tôi đã mượn danh chính quý bà Caven để nặn ra cái người tên Anna Evan ấy, một đứa cháu họ xa của chính mình.
Tiểu thư Anna mỉm cười chua xót. Còn chúng tôi hiểu rằng, có lẽ câu chuyện lần này sẽ không còn cách quá xa thời đại của chúng tôi. Cô gái lấy từ trong túi ra một lọ sáp thơm và bắt đầu bôi lên người khi tiếp tục câu chuyện.
- Tôi sống ở đó thêm sáu năm thì không còn viết thư về nữa. Khi ấy tôi đã hạ quyết tâm, sẽ tự kết liễu cuộc đời của mình.
Cả tôi và Riddle đều sửng sốt khi nghe đến đây. Riddle mím chặt môi như đang ghìm nén một câu hỏi. Nhưng tôi thì hỏi ngay chẳng hề do dự.
- Vì sao cô lại có ý nghĩ đó chứ? Cô vẫn không thể nguôi ngoai quãng thời gian u uất ở gia tộc Caven ư?
Tiểu thư Anna lắc đầu mỉm cười bảo tôi:
- Quả thực chúng đã nguôi ngoai. Nhưng ngài nghĩ xem, liệu tôi có nên sống thêm vào lúc đó không?
- Nên. - Riddle nói ngay một cách chắc nịch. - Sự sống đáng quý trọng lắm. Không nên vứt bỏ một cách dễ dàng như thế.
- Ồ, thưa bác sĩ, chắc ngài là người theo Phật giáo hoặc tin vào chúa ba ngôi. Coi sự tự sát là tội lỗi.
Riddle lắc đầu nói ngay khi chỉ vào tôi và anh.
- Chỉ đơn giản vì nghề nghiệp của chúng tôi mà thôi. Chúng tôi giành cả cuộc đời để nghiên cứu, học tập, thực hành để cứu sống từng mạng sống nhỏ nhoi. Mỗi nơi tôi đi qua, mỗi người tôi khám, chưa từng gặp ai từ bỏ đi hi vọng được sống.
Tiểu thư Anna hơi đỏ mặt gật nhẹ đầu. Cô nói trong hơi thở nhẹ.
- Tôi hiểu rồi. Có lẽ ước muốn của tôi khi ấy đã động đến bản năng nghề nghiệp của hai ngài. Mong hai ngài bỏ qua cho. Tôi chỉ muốn nói là, khi ấy tôi thực sự đã không còn thấy sự hấp dẫn của cuộc đời. Thấy rằng cuộc sống của mình không còn ý nghĩa gì nữa. Những người thân yêu đã không còn ở bên. Những việc có thể làm được cũng đã làm. Những việc không thể làm được chỉ còn là những dĩ vãng chua cay. Mọi niềm vui vào nghệ thuật khi ấy với tôi cũng thật tầm thường đến đáng thương hại.
- Tôi hiểu. - Riddle gật đầu.
- Nhưng cuối cùng cô đã không làm thế mà, phải không? - Tôi chồm tới hỏi vì tò mò những việc diễn ra tiếp theo. - Chuyện gì đã xảy ra vậy?
Cô gái tên Anna mỉm cười từ tốn nói.
- Tôi đã không thay đổi quyết định của mình. Tôi đã ghi chép lại cuộc đời của mình trong ba cuốn sổ, bằng ba thứ tiếng, tin rằng sẽ có ai người đến và tìm thấy chúng bên cạnh xác tôi. Vào một ngày chủ nhật trời trong xanh, tôi quyết định đã đến lúc. Tôi đi lang thang trong thành phố để ngắm nhìn mọi thứ lần cuối, thưởng thức mọi món ăn tôi muốn. Rồi tôi chợt có một khao khát được kể lại cuộc đời mình cho ai đó, một ai đó sẵn lòng lắng nghe mọi chuyện. Vậy là tôi rảo bước về phía một nhà thờ gần đó, dự định đi xưng tội với cha xứ. Dù thật ra tôi không hề theo đạo.
Kể đến đây, tiểu thư Anna bỗng cười khúc khích nhìn chúng tôi.
- Các ngài biết không, tôi đã đứng ngẩn ra khi nhìn thấy cái biển: "Đang trùng tu" trước cửa nhà thờ. Tôi mỉm cười vì một điều mong muốn nữa lại không thể làm được. Vậy là tôi tha thẩn dạo bước ở công viên gần đó, vẫn không thay đổi ý định sẽ về nhà và thắt cổ tự vẫn vào lúc chiều tà. Khi ánh chiều dần buông xuống, tôi cứ như mơ màng khi nhớ lại từng biến cố của cuộc đời. Và rồi...
- Và người đó xuất hiện, người đã thay đổi ý định của cô? - Tôi nhanh nhẩu đoán và làm cô gái phì cười.
Tiểu thư Anna gật đầu vài cái rồi lại lắc đầu làm chúng tôi cảm thấy khó hiểu.
- Tôi đã không để ý khi có một người đang tiếp cận mình. Kẻ đó chìa ra một con dao sắc và đòi tôi giao cho hắn toàn bộ của cải trên người. Phải, đó là một tên cướp. Tôi còn đang do dự, không biết có nên thí nốt cái mạng này để làm một việc tốt bằng cách lao vào đánh lộn với hắn hay không. Xin thưa là tôi chiến đấu cũng không hề tồi. Nhưng mà chưa kịp làm gì thì hắn đã ngó nghiêng xung quanh rồi lao vào tôi định cưỡng hiếp.
Tôi và Riddle nhăn mặt khi tưởng tượng những gì sau đó. Cô gái tiếp tục câu chuyện một cách bình thản.
- Nhưng cũng ngay lúc ấy, một bóng người khác lao tới và tấn công hắn ta. Hai bên lao vào nhau kịch chiến dữ dội. Tôi thì ngồi đơ dưới đất xem họ đánh lộn vì đã bị con dao rạch một vết dọc đùi.
Cô gái chỉ tay lên chiếc váy để mô tả lại vết thương.
- Sau cùng thì cái thiện cũng thắng. Tên cướp phải bỏ chạy. Người mới đến lao đến bên tôi và giúp tôi sơ cứu. Máu ra nhiều khiến tôi lịm dần đi. Khi tỉnh lại thì thấy đã ở trong một căn nhà xa lạ. Đó là một người đàn ông trung niên cao ráo, vẻ ngoài thì hết sức bình thường nếu không muốn nói là bụi bặm nhếch nhác. Anh ta sống trong một căn nhà bé xíu ọp ẹp ở một ngách nhỏ trong thành phố. Trong nhà bày đầy sách như thể là một cửa hàng. Dù biết sơ cứu y tế nhưng nhìn vết thương trên người, tôi ước lượng mình không còn sống được bao lâu. Đêm đó, tôi nằm trên giường kể cho anh ta toàn bộ câu chuyện về cuộc đời mình. Và cũng kỳ lạ làm sao, anh ta ngồi đó lắng nghe không sót một lời nào, như thể anh ta nghĩ tôi đang mộng mị nói mơ hoặc cố gắng nghe những lời trăn trối cuối cùng. Tôi cứ kể, cứ kể cho thoả lòng mình mà chẳng thèm hỏi tên người đang lắng nghe mình là gì.
Tiểu thư Anna ngừng lại uống một chút nước để chúng tôi buông vài lời nhận xét.
- Tôi hiểu. - Tôi nói trước - Chắc khi ấy cô cảm thấy bí bách lắm, muốn nói chuyện với ai đó để xả hết tâm can.
Riddle nói sau với lời nhận xét kỳ lạ.
- Tôi thì thấy anh chàng kia không đơn giản.
Tiểu thư Anna gật đầu lia lịa với nhận xét của Riddle.
- Bác sĩ nói đúng. Tôi kể xong câu chuyện của mình khi trời đã gần sáng. Khi biết ý định muốn tìm cái chết của tôi, người ấy, sau mấy lượt đắn đo suy nghĩ mới bộc bạch. Rằng anh ta tên là Colin Farrell, làm nghề bán sách ở đây. Nhưng anh ta còn có một bí mật khác, một thân phận khác, và cái tiệm sách ấy cũng chỉ là bình phong che mắt thiên hạ. Anh ta nói rằng anh ta đã tham gia vào một tổ chức bí mật của chính phủ, chuyên hoạt động ngầm để bảo vệ an ninh cho đất nước.
Tôi ngạc nhiên hỏi lại khi nghĩ cô gái đã bị lừa.
- Có một tổ chức như vậy thật sao? Chuyện đó khiến tôi không ngờ đấy.
Tiểu thư Anna quay sang nhìn tôi gật đầu bảo:
- Thật, mà cũng không phải vậy. Có một tổ chức làm công việc ấy thật nhưng nó không phải do chính phủ lập ra. Thật ra chính anh ta và tất cả những người trong tổ chức ấy cũng bị lừa. Sau này tôi tìm hiểu thì mới biết, tổ chức ấy vốn là do một ông phó cảnh sát trưởng đã về hưu lập ra, vì ông ta vẫn muốn tiếp tục làm công việc truy bắt tội phạm. Ông ấy là người tốt và những người trong tổ chức ấy cũng vậy. Họ phần lớn là những người lao động thực thà. Ông ấy gom họ lại, huấn luyện cho họ kỹ năng chiến đấu, dạy họ cách liên lạc bằng mật mã, cũng khá là chuyên nghiệp nếu so với năng lực của cảnh sát đương thời.
- Và họ làm những gì? - Tôi hỏi và được cô gái trả lời ngay.
- Nhiệm vụ chỉ đơn giản là bảo vệ trị an một cách âm thầm trong thành phố. Như: phát hiện và tố giác tội phạm, bắt giữ phạm tội quả tang. Và thú vị nhất là đi theo dõi những kẻ tình nghi là tội phạm hoặc gián điệp. Vị thủ lĩnh luôn nói rằng có một hệ thống tổ chức ngầm như thế này trên khắp cả nước, chẳng qua là bọn họ chỉ được phân công hoạt động trong thành phố này mà thôi.
- Và cô đã đồng ý? - Riddle hỏi và cô nàng Anna gật đầu.
- Tôi cũng đã suy nghĩ khá nhiều mới đi đến quyết định ấy. Tôi nằm lại tại nhà của Colin vài ngày để dưỡng bệnh. Anh ta cũng rất tốt khi liên lạc với những người trong tổ chức đến giúp tôi. Một người là bác sĩ đã đến và chăm sóc cho tôi khá chu đáo. Người ấy đã đề nghị những người trong tổ chức hiến máu cứu tôi và họ đã hưởng ứng rất nhiệt tình.
Tôi thốt lên với vẻ kính trọng.
- Ồ, họ thật đáng khâm phục. Tôi thấy họ không khác gì những nhóm làm tình nguyện xã hội hiện nay.
Tiểu thư Anna gật đầu đồng tình khi nói thêm.
- Họ được phân công nhiệm vụ chặt chẽ lắm. Mỗi người một việc. Những người lo nhiệm vụ hậu cần luôn đông đảo nhất.
Riddle gật gù. Anh định hỏi thêm gì đó nhưng lại thôi. Tiểu thư Anna nói tiếp thật chậm như đang diễn lại những suy nghĩ của mình trong đầu.
- Khi ấy tôi đã quyết định sẽ không sống một cuộc đời bình thường nữa, không lập gia đình, không sinh con đẻ cái nữa. Tôi đã nghĩ rằng, nếu có chết thì hãy chết như họ chẳng phải sẽ hay hơn sao. Ít ra cuộc sống của mình, cái chết của mình sẽ thêm ý nghĩa. Vậy là tôi đồng ý. Tôi vẫn lấy cái tên Anna và tiếp tục làm thuê ở tiệm bán hoa để làm bình phong. Họ đặt cho tôi bí danh là Mật vụ Hoa hồng vì tôi trông tươi tắn như loài hoa ấy. Công việc ban đầu của tôi cũng như bao lính mới khác. Đó là thu thập tin tức để báo cáo lại. Thường chỉ là ngồi lê đôi mách để hóng chuyện là hoàn thành nhiệm vụ.
Tiểu thư Anna phì cười và khiến chúng tôi cũng bật cười theo. Thật không thể ngờ làm đặc vụ ngầm mà công việc cũng thật quá đỗi bình dân. Tôi bật ra một câu pha trò khiến cả ba cùng cười rũ rượi.
- Vậy thì sau này tôi chắc chắn phải để ý đến những gã ở quán rượu mới được. Rất có thể đó là một đặc vụ ngầm đang thu thập tin tình báo.
Tiểu thư Anna cố nín cười để kể tiếp.
- Việc ấy cũng khá hiệu quả khi mà nhất cử nhất động của những tên lưu manh đều bị chúng tôi theo dõi. Quả thật những ngày đó, tôi cũng cảm thấy việc làm của mình  góp phần không nhỏ vào trị an của thành phố.
- Và rồi sao nữa? - Tôi lấy làm thích thú khi câu chuyện đến hồi hấp dẫn. - Chuyện gì đã xảy ra?
Tiểu thư Anna giơ lên một bàn tay ra hiệu cho tôi khi từ tốn nói.
- Sau vài năm, tôi được đôn lên dần. Từ người liên lạc đến tổ hành động. Một vài sĩ quan cảnh sát về hưu đến dạy chúng tôi kỹ thuật chiến đấu, thậm chí là cả cách dùng súng. Súng đạn thời ấy không khó kiếm như bây giờ. Một thời gian sau là học làm điệp viên chuyên đưa tin. Tôi được dạy đủ kiểu mật mã và cả cách phá mã chúng. Người dạy tôi chính là Colin. Anh ấy rất giỏi trong việc này.
- Và hai người đã dần yêu nhau. - Tôi hỏi và chỉ nhận được một cái lắc đầu của người đẹp.
 - Tôi đoán là anh ấy yêu tôi. Một vài chàng trai khác trong tổ chức cũng vậy. Tôi luôn là người được họ chờ đón trong những buổi họp bí mật. Nhưng tôi thì không. Trái tim tôi đã ngủ yên rồi. Nhưng quả thật, nếu buộc phải chọn một người trong những người đàn ông đó, tôi sẽ chọn Colin. Ít ra vì anh ấy đã biết những bí mật của cuộc đời tôi.
- Và quý bà cũng không thể ở mãi đó được phải không? - Riddle chắt lưỡi - Thời gian mà.
Tiểu thư Anna lắc đầu.
- Ồ không. Tôi đã không đi đâu cả. Vì đã có một biến cố lớn xảy ra.
Cả tôi và Riddle cùng ngạc nhiên, chăm chú nghe tiếp câu chuyện.
- Khoảng chục năm sau thì nơi ấy không còn bình yên nữa. Mồi lửa chiến tranh đang rất gần kề. Nhiệm vụ của chúng tôi dần chuyển dần sang việc phát hiện gián điệp trà trộn vào làn sóng dân di cư tới thành phố. Một buổi sáng mùa đông, Colin bị giết khi đang chuyển giao một tin tình báo quan trọng. Thủ lĩnh của chúng tôi ngay lập tức nhận ra sự nguy hiểm của tình thế nên đã lệnh cho toàn bộ thành viên lui vào bí mật, sẵn sàng chiến đấu. Vài tháng sau, một đội quân với xe tăng, máy bay tràn tới xâm chiếm nơi chúng tôi đang sinh sống. Chẳng mấy chốc, quân đội của chúng tôi bị đập tan và cả thành phố rơi vào tay của những kẻ vẫy trên tay lá cờ in hình chữ thập ngoặc.
Tôi và Riddle nhìn nhau. Cả hai cùng mường tượng ra cái thời đại mà cô gái đang kể. Tiểu thư Anna kể tiếp trong sự hồi hộp như đang sống lại trong những ngày đó.
- Rất nhiều người bị giết. Thủ lĩnh của chúng tôi là một trong số đó. Và cũng từ ông ấy, chúng tôi cũng lần lượt bị lần ra. Chỉ bằng một lệnh triệu tập giả, cả tổ chức ngầm bị bứng tận gốc không sót một ai. Chúng tôi bị nhốt trong ngục chờ ngày hành quyết.
- Chỉ vậy thôi ư? - Tôi ngạc nhiên hỏi. - Bọn họ không thẩm vấn hay tra tấn gì ư?
Tiểu thư Anna lắc đầu.
- Bọn chúng có nhiều mối nguy cần phải lo hơn. Đám chúng tôi đã được xác nhận là tổ chức đối địch nên chúng cũng chẳng ngần ngại mà trừng trị thẳng tay. Nhiều người đã hoảng sợ mà cầu xin chúng. Nhưng cũng có người ngoan cường lắm. Tôi thì vẫn bình tâm vì không còn sợ chết nữa.
Tiểu thư Anna hít một hơi sâu khi nghĩ lại một điều gì đó đã làm cô xúc động sâu sắc. Sau cùng cô nói.
- Đêm ấy là đêm cuối cùng trước khi chúng tôi bị hành quyết. Ai cũng trong tâm trạng não nề. Nhưng rồi một anh diễn viên đứng lên pha trò và khiến mọi người lạc quan trở lại. Tôi cũng đứng lên hát cho họ nghe vài bài. Rồi từng người lần lượt đứng lên hát hò hay kể một câu chuyện gì đó. Phần lớn là kể về chính cuộc đời mình. Kể xong lại được tất cả vỗ tay khích lệ. Thế rồi tôi chợt chú ý tới một người. Anh ấy có mật hiệu là Mật vụ Áo trắng, cũng chính là vị bác sĩ đã cứu tôi khi xưa ở nhà của Colin. Anh ấy cũng đứng lên và kể câu chuyện của mình. Rằng anh ấy vốn là công tử trong một gia đình giàu có, được cha mẹ cho ăn học đàng hoàng tới khi trở thành một bác sĩ. Nhưng rồi vì một mâu thuẫn mà anh phải rời xa cha mẹ để tự lập trong cuộc sống. Anh ấy yêu một cô gái nghèo hèn với tình yêu chân thành nhất. Cô ấy cũng yêu anh như vậy và đã bỏ cả thời thanh xuân để chờ anh học xong. Nhưng cha mẹ anh không đồng ý. Đôi trẻ đã quyết định ra đi, đến thành phố này để lập nghiệp. Thế nhưng trong ngày thành hôn, cô dâu đã bị bắt cóc không một dấu vết. Người trai tội nghiệp tìm kiếm khắp nơi nhưng vô vọng. Cuối cùng, anh tham gia vào tổ chức này hòng tìm kiếm thông tin về vị hôn thê của mình. Anh không dám rời khỏi đây vì sợ rằng nếu người ấy quay lại, sẽ không thể tìm thấy mình. Anh chàng đó năm ấy đã gần bốn mươi. Anh ta nhắn nhủ với tất cả mọi người rằng: anh ta tin họ sẽ sống, quân đồng minh đang tiến vào để hạ những lá cờ kia xuống, và rằng nếu anh chết, xin mọi người hãy giúp anh tiếp tục tìm kiếm người anh yêu thương. Anh ấy nói trong hai hàng nước mắt tuôn rơi: Xin ghi nhớ giúp tôi, cô ấy tên là Lyly Muissa.
- Và điều ấy đã khiến cô cảm động. - Riddle hỏi và nhận được một cái gật đầu từ cô gái.
- Phải, lần đầu tiên sau nhiều năm, trái tim tôi thổn thức vì cảm xúc. Tôi đã bật khóc vì thương xót cho tình cảnh của họ. Tôi cũng rất biết ơn anh ấy vì đã cứu mình khi trước nên đã hô to cùng mọi người: Lyly Muissa, tôi nhớ rồi.
Tiểu thư Anna lấy mu bàn tay gạt nước mắt kể tiếp những tình tiết cuối cùng.
- Tiếng ồn ào dần lắng xuống khi đã quá nửa đêm. Mọi người đều mệt mỏi và chán chường. Tôi không ngủ được mà tìm đến bên anh ấy. Chúng tôi ngồi tâm sự cùng nhau. Anh ấy nói chuyện rất vui mà cũng thật lạ đời. Biết sắp chết đến nơi mà anh ta vẫn không cho tôi biết tên thật. Vẫn gọi tôi là Mật vụ Hoa Hồng và tự xưng là Áo trắng. Bên cạnh chúng tôi cũng chỉ còn những tiếng rù rì nói chuyện của từng nhóm nhỏ. Rồi thì không còn ai nói với ai nữa. Tất cả cùng yên lặng cho màn đêm thức giấc. Tôi thì vẫn ngồi cạnh anh ấy mà cùng nhìn qua một ô cửa sổ ra bên ngoài. Trời có vẻ trong và đẹp lắm.
Cả tôi và Riddle cùng nín thở nghe nốt đoạn cuối ấy. Tiếng cô gái hít một hơi sâu trước khi kể tiếp:
- Khi tia nắng đầu tiên chiếu rọi qua khe cửa vào buồng giam. Cả tôi và anh ấy đều bừng tỉnh vì biết rằng cuối cùng thời khắc ấy cũng đến. Tâm trí tôi bùng nổ khi không thể chịu được sự bất lực ấy, khi phải chờ đợi cái chết đến với mình. Tôi tự nhủ nếu không có ngày mai thì tội gì không sống cho thật đáng. Tôi để tay lên lồng ngực và quay sang nhìn người ngồi cạnh. Trái tim tôi dường như lại rung động sau nhiều năm yên tĩnh. Chẳng trù trừ, tôi trèo lên người đó và lục tìm thứ cần tìm. Rồi tôi bắt anh phải đi vào giai điệu của mình. Cả phòng giam im ắng đến lạ thường. Dường như mọi người cũng đang giả vờ ngủ cho chúng tôi đến với nhau.
Tiểu thư Anna đỏ mặt cúi đầu xuống đất đầy e thẹn. Thấy cô gái không nói gì nữa, Riddle đành mở lời động viên.
- Nếu là tôi, tôi cũng sẽ làm như vậy. Họ muốn chúng ta chết, chúng ta lại đi reo mầm sự sống. Cô làm đúng lắm. Một việc làm rất ý nghĩa.
Tôi biết anh bạn đồng nghiệp đã tâng bốc hơi quá nhưng cũng nhanh miệng động viên.
- Đúng vậy. Việc đó đúng là cách hay nhất để chống lại những sự áp bức. Tôi hiểu những cảm xúc ấy và hoàn toàn thông cảm. Vậy chuyện gì đã xảy ra sau đó? Hai người có đến được với nhau không?
Tiểu thư Anna khịt mũi một cái rồi ngẩng đầu lên kể tiếp.
- Ngay khi anh ấy nổ pháo vào người tôi thì tiếng đạn pháo ầm ầm cũng từ đâu vọng tới. Chúng tôi chồm dậy hân hoan. Thì ra quân đồng minh đã tiến vào thành phố. Chỉ vài tiếng sau thì cả nhà tù được giải phóng. Chúng tôi được phát vũ khí và theo chân những người giải phóng lao ra ngoài. Tôi được phân vào nhóm cứu thương nên phải lui về sau. Anh ấy thì ở trong nhóm chiến đấu. Trước khi đi, người đàn ông ấy quay sang nắm tay tôi và và bảo: Anh sẽ cưới em, anh hứa đấy. Rồi anh lao lên dẫn đường cho những người lính đồng minh.
Cả tôi và Riddle cùng lo sợ đến điều tồi tệ nhất. Tiểu thư Anna nói tiếp với vẻ mặt buồn rầu đến não nề.
- Và rồi anh ấy không quay lại nữa. Tôi tìm thấy xác anh ấy nằm lẫn lộn giữa bao nhiêu người. Họ đã chiến đấu anh dũng đến khi ra đi mãi mãi. Thế rồi thành phố được giải phóng nhưng cuộc chiến vẫn còn dai dẳng, và cuộc sống không còn như trước được nữa. Mấy tuần sau thì tôi phát hiện mình đã mang thai. Vậy là tôi lại phải ra đi, để tránh chiến tranh, và cũng để bảo vệ cho đứa bé trong bụng.
Im lặng. Cả tôi và Riddle đều không biết phải nói sao. Không biết câu chuyện này sẽ còn kéo dài đến bao giờ nữa đây. Tiểu thư Anna kể tiếp bằng một giọng trầm buồn:
- Thế là tôi đã đi thật xa để tránh vùng chiến sự. Cuối cùng thì đến đây, thành phố Luis này.
Cả tôi và Riddle như thở phào khi biết câu chuyện đã sắp đến hồi kết. Tiểu thư Anna nở một nụ cười nhẹ.
- Kể cũng trùng hợp mà, phải không? Vì nơi này cũng có chút quan hệ với tôi.
Tôi và Riddle còn chưa hiểu điều cô gái muốn nói thì đã được giải thích khiến cả hai vỡ lẽ.
- Thành phố này mang tên con gái của tôi, đứa con đầu tiên. Người sáng lập thành phố đã lấy tên của bà cố nội anh ta để đặt tên cho nơi này. Điều đó tôi chỉ mới biết sau khi đã đến đây gần chục năm. Cháu chắt tôi vẫn sống đầy trong thành phố, nhưng mà tôi làm sao có thể bảo với chúng rằng mình chính là cụ tổ của chúng được. Vậy đó.
- Vậy thân phận của tiểu thư ở đây là gì? - Tôi hỏi.
- Tôi dĩ nhiên là sẽ lấy cái tên Lyly Muissa để tưởng nhớ đến người đàn ông ấy. Và tôi coi anh ấy như chồng mình, người chồng thứ năm. Tôi mở một cửa hàng bán vải vóc để mưu sinh. Sau vài tháng thì tôi cũng hạ sinh được một đứa bé kháu khỉnh. Vì không biết họ tên của cha nó nên tôi cũng đành nghĩ ra một cái tên cho thật ý nghĩ. Và cuối cùng tôi gọi nó là Colin, với họ Doctor, để tưởng nhớ một người đã cứu tôi và nghề nghiệp của chồng tôi. Vâng, nó là Colin Doctor.
Tôi há hốc mồm vì kinh ngạc khi hỏi lại.
- Chả nhẽ ngài Doctor là con trai bà ư? Suốt thời gian qua anh ấy đã giúp đỡ chúng tôi rất nhiều.
Tôi đang nghĩ tới vị doanh nhân chỉ hơn tôi vài tuổi đã ủng hộ tiền để các bác sĩ trong đoàn có điều kiện ăn ở tốt nhất. Tiểu thư Muissa lắc đầu cười nhẹ.
- Ồ, không. Nó là cháu trai tôi, Billy Doctor. Còn Colin của tôi năm nay đã hơn bảy mươi tuổi rồi. Nó đang nằm hấp hối ở nhà vì biến chứng suy gan nặng. Thằng Billy chắc cũng muốn nhờ các ngài đến xem bệnh cho cha nó nhưng còn ngại chưa dám mở lời.
Tôi ngẩn tò te nhìn cô gái xinh đẹp đang ngồi trước mặt. Thật khó tin vào câu chuyện mà cô ta vừa kể, bởi vì...
- Đúng, thưa các ngài. Thật sự tôi đã hai trăm sáu mươi chín tuổi rồi. Có thể các ngài không tin tôi nhưng...
- Không, tôi tin... - Tôi lắp bắp trả lời.
- Tôi tin. - Riddle đáp chắc nịch khi đã ngồi thẳng dậy với vẻ mặt nghiêm túc.
Tiểu thư Lyly kể nốt câu chuyện của mình trong sự nhẹ nhõm hiện rõ trên khuôn mặt.
- Rút kinh nghiệm từ lần kết hôn với người chồng thứ ba, tôi quyết định ở vậy nuôi Colin khôn lớn, gạt đi mọi lời mối mai. Cửa tiệm của chúng tôi làm ăn khấm khá và dần chuyển sang lĩnh vực thời trang. Nhưng đứa con trai của tôi không giúp tôi được nhiều trong việc ấy. Colin là người chính trực và giàu tình cảm như cha nó. Và quả thật, tính cách nó thích hợp để làm bác sĩ hơn, giống như các ngài vậy. Vậy mà tôi đã từng ép nó lo toan việc buôn bán. Rồi tôi cũng lấy vợ cho nó. Rồi Billy ra đời. Nó khá hơn cha nó ở khoản làm ăn nhưng vẫn mang trong mình niềm yêu thích với y học. Có lẽ cũng bởi vậy mà nó đã bỏ không ít tiền ra để đón tiếp các ngài suốt thời gian qua. Cũng chính vì sự nhiệt thành, hết lòng ca tụng các ngài trong suốt thời gian ấy, nó cũng dần thuyết phục được tôi. Tôi đã theo dõi các ngài suốt hai tuần qua. Cuối cùng mới quyết định đến đây để gặp mặt. Tôi không cho nó đi cùng, cũng không báo danh gia đình mình, bởi tôi muốn trực tiếp đánh giá các ngài. Dù ngài Carl đây đã khiến tôi có đôi chút thất vọng, nhưng với bác sĩ Riddle thì tôi hoàn toàn tin tưởng. Tôi tin, với vốn sống hơn hai trăm có lẻ của mình, tôi không nhầm, rằng chính anh là người đã viết ra những cuốn sách, những đề tài y khoa về những căn bệnh hiếm ấy.
Tôi cúi đầu hổ thẹn trước cô gái.
- Xin quý bà thứ lỗi. Việc gian dối của chúng tôi đã làm hoen ố danh tiếng của những bác sĩ chân chính. Nhưng tôi cũng xin cam đoan với quý bà, chúng tôi làm những việc ấy với trái tim trong sáng, không gì khác hơn là mong nền khoa học y tế được tiến bộ, đạt nhiều thành tựu.
Riddle cũng nói đỡ cho tôi bằng một giọng trầm ấm.
- Anh Carl là tiền bối của tôi. Chúng tôi, một chính một tà, một ngoài sáng, một trong tối, cũng là vì những điều cao đẹp ấy. Chính tôi mới là người mắc nợ anh ấy khi không ai dám đặt chân vào cái địa hạt mơ hồ nhiều uẩn khúc này.
Tiểu thư Lyly mỉm cười gật đầu nói với vẻ khoan thai.
- Tôi hiểu chứ. Tôi đã nhìn thấu điều ấy suốt từ nãy tới giờ rồi. Các ngài thực sự đã rất nghiêm túc lắng nghe.
Riddle hỏi ngay khi thấy bóng chiều đã dần đổ sang màu hồng nhạt. Xa xa, tiếng chim chóc gọi bầy đã râm ran.
 - Vậy, câu chuyện kết thúc rồi. Quý bà có thể cho chúng tôi biết quý bà muốn điều gì từ chúng tôi không? Nếu không phiền, xin để chúng tôi khám và điều trị căn bệnh này cho bà, và cả việc đến khám và chữa cho ngài Colin nữa.
Quý bà Muissa lắc nhẹ đầu khi dùng cả hai tay để bê chiếc va li nặng trịch để lên đùi. Cô gái mở ra và lần lượt chìa ra từng món đồ khi nói.
- Chuyện của Colin, dù rất muốn nó được sống tiếp nhưng tôi cũng không dám nhờ tới các ngài đâu. Bởi vì, dù rằng tôi gần như chỉ là một kẻ ngoại đạo, nhưng với vốn kiến thức y khoa ít ỏi của mình, tôi cũng biết là nó không thể cứu chữa được nữa. Xơ gan mất bù, chuyển thành ung thư gan giai đoạn cuối, chớm suy đa tạng, máu nhiễm độc nặng. Tôi chỉ dám hi vọng nó sẽ ra đi không quá đau đớn.
Cô gái lắc đầu buồn bã và giơ ra một tập hồ sơ trông như một giấy khám sức khoẻ của mình. Tôi đón nó từ tay cô gái và nghe cô kể lể.
- Đây là kết quả khám sức khoẻ gần nhất của tôi. Về tổng thể họ kết luận tôi hoàn toàn khoẻ mạnh. Dĩ nhiên là tôi đã phải dùng một thân phận khác để tránh bị chú ý.
Riddle đón lấy tập giấy từ tay tôi và lật lia lịa từng trang để xem. Mắt anh lướt nhanh với vẻ tập trung cao độ. Trong khi ấy, cô gái đang úp mặt vào hai lòng bàn tay để đắp lên lớp mặt nạ già nua. Riddle hỏi nhỏ và khiến quý bà Muissa gật đầu thảng thốt.
- Quý bà có thân nhiệt cao hơn người bình thường và còn tăng cao hơn nữa vào ban đêm, phải không?
- Đúng vậy, làm sao anh biết? Quả thực cơ thể tôi có thân nhiệt luôn là ba bẩy độ bẩy suốt bao năm qua. Nhiều người luôn tưởng tôi sốt. Về đêm thì còn cao hơn, có thể lên ba mươi chín độ, nhưng người tôi lại thấy rất bình thường.
- Và khi gần sáng thì lại tụt xuống phải không? Thậm chí dưới ba mươi bẩy độ.
Đôi mắt của bà cụ mở lớn với vẻ ngạc nhiên tột độ, nhưng giọng nói vẫn còn thanh khiết như của một cô gái trẻ.
- Là ba mươi năm độ sáu. Ồ, thật tài tình, sao ngài biết được điều đó. Điều ấy chỉ có mình tôi biết, cả Colin và Billy đều không biết gì.
Riddle dứt mắt ra khỏi tập hồ sơ nhìn bà cụ nhăn nhúm ngồi trước mặt. Anh bảo với vẻ buồn rầu.
- Chí ít thì những triệu chứng lâm sàng đó cho tôi biết đây không phải do một thế lực siêu nhiên nào đó gây nên, nó có thể được lý giải bằng khoa học. Dĩ nhiên là quý bà phải cho phép tôi thêm cơ hội để nghiên cứu.
Bà lão lắc lắc đầu và cười thật hiền hậu khi bảo với cả hai chúng tôi.
- Thật sự hai ngài quả là những người khổng lồ của thời đại.
Câu khen ngợi có từ mấy trăm năm trước ấy khiến cả tôi và Riddle đều đỏ mặt vì hổ thẹn. Quý bà Muissa nói tiếp và khiến cả hai chúng tôi không khỏi hụt hẫng.
- Nhưng tôi e là tôi không thể đáp ứng yêu cầu ấy được. Vì tôi đã dự định sẽ tự kết liễu cuộc đời mình cùng với Colin của tôi. Thậm chí là đi trước, vì tôi không muốn phải chứng kiến một đứa con nữa ra đi trước mắt mình. Xin hai vị hãy thông cảm cho tôi.
Hai dòng nước mắt chảy ra từ đôi mắt của cụ bà. Quý bà Muissa chỉ tay vào cái va li rồi đẩy nó về phía chúng tôi. Bà nói như đang gửi gắm những điều quan trọng.
- Tôi sẽ để lại thứ này lại đây cho các ngài. Nó chứa đựng tất cả những gì các ngài cần để nghiên cứu về tôi. Từ những kỷ niệm, những dấu mốc cuộc đời, đến những thứ vụn vặt nhất. Đó là thứ tôi muốn thật nhiều người biết đến sau khi tôi mất. Để họ biết rằng đã từng có một người như thế tồn tại: một Maya Rose, một Rose May, một Alice, một Isabella Cowell, một Anna Coven, và một Lyly Muissa trọn vẹn và đầy đủ nhất, và là duy nhất một người.
Chúng tôi đều định mở lời khuyên ngăn cụ bà tìm đến cái chết nhưng khi nhìn thấy đôi mắt đầy vẻ cương quyết ấy, cả tôi và Riddle cũng đành câm nín. Riddle gật đầu như đang hứa hẹn một điều từ tận đáy lòng.
- Xin bà cứ yên tâm. Tôi sẽ giành hết sức lực để làm cho rõ điều bí ẩn ấy, để trả lại cho bà danh tính thật sự.
Bà lão gật nhẹ đầu rồi run run đứng lên. Có lẽ vì diễn xuất ấy quá chân thật mà cả tôi và Riddle đều đưa tay ra để đỡ lấy bà cụ.
Khi bà cụ lòng khòng đã đi khuất trong một chuyến xe taxi, Riddle nhanh tay kéo tôi trở lại vào nhà để nghiên cứu đống hồ sơ. Tôi cũng như một đứa trẻ được cho đồ chơi mới mà hí hửng đến bên anh.
Từ chiếc va li, chúng tôi lôi ra những bức tranh vẽ, những bức ảnh của từng người, từng gia đình. Tranh vẽ gia đình của tiểu thư Maya với Bopp, tranh của từng người con: Luis, Tina, James. Tiếp đó là tranh và ảnh của những gia đình, những đứa con khác, của những cuộc đời khác của cô gái. Trên góc tranh và mặt sau của những bức ảnh đều ghi rõ ngày tháng và tên những người xuất hiện bên trong. Không khó để nhận ra những bức tranh do chính tay cô gái ấy vẽ lên. Còn những bức ảnh thì cũng đi dần từ đen trắng đến ảnh màu hiện đại. Tiếp đó là những túi ni lông đóng kín ghi tên người. Chúng tôi không khó để nhận ra đó đều là tên của những đứa con của cô gái ấy. Và bên trong, Riddle cười lên mừng rỡ khi nhận ra một mẩu dây rốn khô queo của cái túi có tên Colin Doctor. Vậy là cô gái đã rất chu đáo khi gửi cho chúng tôi những vật phẩm sinh trắc học của những đứa con. Điều ấy sẽ giúp ích rất nhiều cho việc nghiên cứu. Tôi mở tiếp vài cái túi và nhận ra bên trong chỉ đơn giản là những búi tóc buộc chặt, có lẽ đây là di vật của những người con đầu tiên, khi mà không thể tìm được những di vật khác. Tiếp đó là thông tin của những người chồng cũng được lưu lại, dù vậy chỉ có hai mẫu mang tên Kenvin và Root mà thôi. Riddle lôi ra thêm ba cuốn sổ nhỏ dạng nhật ký. Bên trong đúng là viết bằng ba thứ tiếng kể về cuộc đời của cô gái ấy. Cả ba đều đã cũ sờn đến phai tróc. Và cuối cùng là ở một góc của cái va li, chúng tôi tìm thấy năm chiếc khăn tay màu trắng thêu chữ đỏ giống y như chiếc khăn mà quý bà nhà Muissa đã dùng. Chúng đều còn khá mới, có vẻ như cô gái ấy đã tự thêu lên chúng, mỗi chiếc khăn là một dòng chữ riêng biệt: Maya và Bopp, Rose và Kenvin, Alice và Macro, Isabella và Root, Anna và Mật vụ Áo Trắng. Tôi thở dài bảo Riddle:
- Chắc hẳn bà ấy vẫn còn yêu họ lắm. Kỷ niệm gắn bó bằng cả trái tim không thể nào quên được.
Riddle nhún vai khi thả người ngồi lún xuống chiếc ghế bành để nghiên cứu lại tập giấy khám sức khoẻ. Tôi nhìn anh mà dò hỏi:
- Vậy cậu có giả thiết nào không? Về tình trạng của cô gái ấy.
Riddle nhún vai nhìn tôi khi nghiêng mặt nhìn qua tờ giấy.
- Bây giờ thì còn khá mơ hồ vì thiếu dữ kiện. Hình như trong ấy cũng có mẫu máu của quý bà đó thì phải?
Tôi gật đầu xác nhận khi giơ lên một ống máu ghi tên: Eri Sinvia. Vì tò mò mà tôi đến bên Riddle để cùng anh phân tích. Riddle bỗng chỉ chi tôi thấy một điểm hay ho trong tập hồ sơ:
- Anh xem này Carl, đây là chỗ khiến tôi phải giơ tay ra đỡ lấy bà ấy lúc trước.
Tôi nhìn nơi ngón tay Riddle chỉ tới, số đo cân nặng của quý bà chạm mức tám mươi tư. Một chỉ số khá lớn nếu so với thân hình mảnh mai đó. Riddle nhoẻn miệng cười nhìn tôi và bảo:
- Tôi đã xác nhận đúng là cô ta nặng thật. Dù khá khó hiểu nhưng cũng là tiền đề cho những giả thiết của tôi sau này. Và bây giờ...
Riddle đứng bật dậy và đóng ập lại cái va li khi bảo tôi.
- Nếu anh không phiền, xin để tôi giữ chiếc va li này.
Tôi gật đầu ngay mà chẳng chút do dự, vì tôi biết năng lực của mình có hạn, có được những thứ ấy thì cũng chẳng biết bắt đầu từ đâu.
- Tôi sẽ chia sẻ mẫu cho anh một nửa, và sẽ chụp lại ảnh tất cả các giấy tờ, rồi gửi cho anh một bộ.
- Ồ, không cần đâu. Tôi đâu biết sẽ phải nghiên cứu ra sao. - Tôi thật thà bảo Riddle.
- Vậy thì hãy bảo quản giúp tôi. Tôi cũng cần một bản sao để đối chiếu, phòng khi thất lạc.
- Ồ, được, vậy để tôi chia mẫu và chụp ảnh cho.
Riddle lắc đầu khi đặt một bàn tay lên vai tôi.
- Thôi, việc đó để tôi, tôi làm việc ấy tốt hơn anh. Và nhất là tôi muốn nhờ anh làm giúp một việc trọng đại đây.
- Việc gì thế, tôi xin sẵn lòng!
Riddle trầm ngâm suy tính, sau cùng anh bảo tôi.
- Anh hãy giúp tôi đặt một cuộc hẹn tại nhà với gia đình Doctor. Sẽ có bốn người đến đó. Thời gian vào khoảng tối ngày kia. Và anh hãy làm ngay, vì biết đâu chúng ta có thể cứu được một, không chừng là hai mạng người đấy.
Tôi gật đầu xác nhận.
- Anh yên tâm, tôi sẽ làm ngay.
Riddle rời đi ngay sau đó. Tôi thì lập tức gọi điện đến gia đình Doctor để xin một cuộc hẹn. Người chủ nhà là Billy mừng lắm khi biết tôi quan tâm đến sức khoẻ của cha anh ta nên đã nhận lời ngay, thậm chí còn ngỏ lời mời ăn tối.
Cúp máy khi nhiệm vụ của mình đã hoàn thành, tôi ngẩn người đứng ngắm hoàng hôn đang buông xuống qua ô cửa sổ. Từng cánh chim đang rập rờn bay về phía chân trời. Lòng tôi lại chộn rộn nhớ lại câu chuyện của quý cô xinh đẹp. Không kìm được lòng mình, tôi lấy ra cây vĩ cầm và kéo một giai điệu đầy xúc cảm. Miệng thì lẩm nhẩm lời của một bài hát mà tôi đã từng nghe ở một đất nước xa xôi nhưng giờ chỉ còn trong ký ức.
- Lá khô mùa này lại rơi. Thương em mênh mông chân trời lạ, bơ vơ chốn xa xôi.
****
Sáng hôm sau thì Riddle đến. Anh đưa tôi một chiếc cặp nhỏ chứa bản sao của những thứ trong chiếc va li. Tôi nhận lấy và cất kỹ sau khi phân loại.
Hai ngày tiếp sau đó tôi sống trong niềm khấp khởi và hi vọng vì mong mình sẽ lại được chứng kiến một kỳ tích y học nơi Riddle.
Đến buổi chiều của ngày hẹn, tôi đến cửa nhà Riddle đợi sẵn. Lát sau thì thấy anh dẫn theo hai người nữa đến. Họ đều rất trẻ và trông rất ưa nhìn. Một chàng trai ăn mặc giản dị trông không quá nổi bật nhưng đôi mắt sáng và có vẻ rất tinh anh. Bên cạnh là một cô gái xinh đẹp có vẻ như là bạn gái của cậu ta. Cô gái dù đeo một cặp kính nhưng với nụ cười luôn nở trên môi, toả ra một cảm xúc tích cực. Riddle chỉ giới thiệu chung chung rằng đó là bạn anh rồi bắt xe để tất cả lên đường. Chỉ cần nghe vài điều trong câu chuyện của họ, tôi cũng đoán ra họ đều là người trong ngành, có kiến thức chuyên sâu về y khoa.
Khi đến nơi, đã có ba chiếc cặp to đùng được ai đó mang đến và giao cho họ. Cả ba người đón lấy trong khi tôi đi tới để gọi cửa.
Quý ngài Billy tiếp đón chúng tôi rất nồng hậu. Sau khi tôi giới thiệu, Riddle đã ngỏ lời ngay rằng muốn được thăm khám cho cha và bà nội của Billy. Vậy là một người giúp việc dẫn ba người họ lên tầng trên trong khi tôi ngồi lại bên vị chủ nhân để trò chuyện. Chúng tôi nói chuyện hợp nhau lắm và chẳng mấy chốc đã nhận nhau làm anh em kết nghĩa.
Thời gian cứ dần trôi khiến cả hai cũng lấy làm sốt ruột. Vài lần chúng tôi đi lên để xem xét. Ba người ấy đang quây quần bên giường của ông cụ Colin để thăm khám. Họ lôi ra những dụng cụ y khoa tân tiến nhất, sử dụng những thủ thuật y khoa khó nhất mà chính tôi cũng thấy khó khăn khi giải thích. Sau cùng tôi và ông anh kết nghĩa của mình cũng đành lui xuống nhường cho họ làm nốt công việc chuyên môn của mình.
Khi gần hai giờ sáng, cuộc điều trị cũng kết thúc. Ba con người trẻ tuổi bước xuống với vẻ mệt mỏi nhưng vui tươi. Chúng tôi rời đi ngay không quên hẹn sẽ tới tái khám hằng ngày, và người sẽ lo việc ấy là Riddle.
Ra khỏi toà nhà tráng lệ, Riddle chia tay hai người bạn ấy và không quên lời cảm ơn chân thành. Tôi đi cùng Riddle về lại nhà mình, trong đầu đầy ắp câu hỏi nhưng không biết phải bắt đầu từ đâu. Cuối cùng, vì không chịu nổi, tôi đánh bạo hỏi anh bạn đồng nghiệp dù thấy anh đã rất tiều tụy.
- Mọi việc tốt chứ? Chúng ta có cứu được ai không?
Riddle ngáp dài bảo tôi như mọi lần.
- Rồi anh sẽ thấy, Carl ạ. Tôi cũng không dám nói trước điều gì.
- Ồ, tôi hiểu. Vậy còn hai người cộng sự của anh. Có phải cả hai đều nằm trong ... hình như tôi đã nhận ra một người...
Riddle mỉm cười bảo tôi.
- Ồ, anh cũng nhận ra rồi à. Cậu ấy lần trước cũng đến giúp chúng ta rồi mà.
Tôi ngờ ngợ hỏi lại.
- Có phải là anh chàng được mệnh danh là thần gì đó có phải không?
Riddle xác nhận kèm thêm vài thông tin nhỏ giọt.
- Là Wolley thần thánh. Người còn lại là bạn gái của cậu ấy. Tôi cũng không biết tên cô ấy là gì nhưng chắc chắn cô ấy cũng là một nhà y sinh tài năng. Mà thật ra chỉ có anh chàng ấy cùng nhóm bạn với tôi thôi. Tôi cũng định nhờ thêm vài người nữa nhưng việc này chỉ cần cậu ấy là đủ. Nếu nhờ đến Antoine Toàn năng e là có hơi phí phạm.
Riddle ngáp một hơi dài rồi chào tạm biệt tôi khi rẽ vào con đường dẫn về nhà anh. Tôi cũng quá mệt mỏi lên cũng chia tay để về lại nhà, lòng đầy háo hức và hi vọng.
***
Hai tuần sau đó, tôi tiếp tục đi khắp thành phố Luis để diễn giảng về y khoa. Tôi cũng tranh thủ tìm hiểu về lịch sử của cái thành phố nên thơ này. Và đúng như tiểu thư Lyly đã kể, người sáng lập thành phố, một con chiên ngoan đạo, ngài Charlie, đã đặt tên cho nó theo tên cụ cố nội của mình. Tượng của ngài ấy được dựng ở giữa một quảng trường cổ kính, ngày ngày cũng có nhiều khách đến ngưỡng vọng.
Một tháng hoạt động của chúng tôi ở đây cũng đã hết. Sau khi kết thúc buổi diễn giảng cuối cùng của mình, tôi dự định sẽ giành ba ngày cuối cùng của chuyến đi này để đến chơi nhà của ông anh kết nghĩa. Cốt yếu là được gặp bà nội của anh ấy, được nghe quý bà xinh đẹp ấy kể chuyện một lần nữa, giải đáp một vài khúc mắc, và nhất là có thể khuyên cô gái ấy từ bỏ ý định tự sát. Thế nhưng tôi chưa kịp thực hiện điều ấy thì đã có biến cố xảy ra.
Sáng hôm ấy, vừa ngủ dậy, tôi đã nhận được một tin sét đánh từ bộ phận truyền thông. Họ báo tin gia đình ngài Billy Doctor, một người tích cực đóng góp và kêu gọi gây quỹ cho chuyến đi, bất ngờ có tang sự. Bên lãnh đạo muốn tất cả các bác sĩ cùng đến chia buồn với gia đình nhà thiện nguyện. Tôi bàng hoàng. Chả nhẽ Riddle đã thất bại sao. Nhưng khi cố dò hỏi thêm, tôi còn bàng hoàng hơn nữa. Người mất không phải ngài Colin Doctor, cha của Billy. Mà là bà nội của anh ấy, Lyly Muissa.
Tôi ngồi thụp xuống ghế với vẻ thất vọng não nề. Vậy là cô gái ấy thật sự đã không thay đổi quyết định, chọn cách ra đi để không phải chịu thêm đau đớn.
Hai ngày sau, tôi cùng những người đồng nghiệp đến dự lễ tang của quý bà Muissa. Đó là một buổi chiều mưa phùn phảng phất. Đoàn xe tang đưa chúng tôi ra tận nghĩa trang. Chúng tôi lần lượt tiến tới để nói điều sau cùng với người quá cố. Tôi khẽ nhìn qua ô cửa kính bên trên quan tài. Một khuôn mặt già nua hiện ra như đang ngủ, trông rất bình yên đến lạ kỳ.
Tôi chúc quý bà được bình yên nơi thế giới bên kia rồi cũng đứng lùi lại. Ông anh kết nghĩa Billy của tôi đang dìu một ông cụ đi tới. Tôi kinh ngạc khi biết đó chính là cha anh ta, Colin Doctor. Trông ông ấy ấy hơi yếu nhưng chắc chắn là khoẻ hơn nhiều nếu như so với một bệnh nhân ung thư gan giai đoạn cuối. Gia đình Billy đứng nhìn từng người đến đưa tiễn, cảm ơn họ mà khuôn mặt cũng không quá buồn đau. Billy gật đầu chào tôi trong khi tôi mải đảo mắt tìm Riddle. Mãi sau, tôi mới thấy anh chàng đồng nghiệp từ một góc xa đi tới, khuôn mặt tươi cười hóm hỉnh.
Tôi lao tới bắt chuyện ngay khi thấy anh bạn cũng không định đi đến nơi huyệt mộ. Tôi hỏi ngay với giọng nhỏ hết cỡ mà chẳng cần chào hỏi:
- Thế này là thế nào vậy? Cậu có thể cho tôi biết được không?
Riddle nháy mắt bảo tôi khi chỉ về phía ông cụ Colin:
- Anh cũng thấy thành quả rồi đấy. Ông ấy đã khoẻ lại rồi mà. Công đầu thuộc về Wolley. Thay gần hết nội tạng đấy. Nếu sinh hoạt điều độ thì tiên lượng cũng phải sống được tầm chục năm nữa. Nhưng cái chính là tinh thần vẫn còn tỉnh táo, không lú lẫn tới nỗi cần người chăm sóc.
Tôi gật đầu khi hỏi sang vấn đề đáng quan tâm hơn.
- Tôi thấy rồi. Nhưng còn về quý bà ấy thì sao? Cậu đã không thuyết phục được bà ấy ư? Chí ít cũng khuyên bà ấy sống tiếp vì đã cứu được người con chứ?
Riddle nhấp nhổm bằng hai chân mà không nói gì. Bất chợt từ trong một đám người ở đằng xa, tôi nhìn thấy một cô gái đang giơ tay lên cao vẫy gọi chúng tôi.
- Bác sĩ Carl, anh Riddle, tôi ở đây.
Tôi kinh ngạc khi nhận ra bộ đồ trắng quen thuộc ấy. Khi cả hai chúng tôi cùng tiến lại gần thì cô gái xinh đẹp nở một nụ cười toe toét nhìn chúng tôi. Cô gái nháy mắt bảo tôi như trêu chọc:
- Này bác sĩ Carl, anh làm sao mà nhìn tôi như thế?
Tôi quay sang Riddle để chờ nghe một lời giải thích. Riddle cố nín một nụ cười khi chỉ tay sang cô gái.
- Đây là Mimi, em họ của tôi. Nó mới tốt nghiệp nên muốn đi theo tôi để học tập.
Tôi ngớ người ra rồi thở phào vì cuối cùng cũng hiểu chuyện gì đã xảy ra. Tôi hỏi cô gái khi thấy cô đang cố nhóng về phía đám tang của chính mình.
- Ồ, vậy là, quý bà ... À, tiểu thư Mimi đây... đã quyết định có một... Ừ, một bước ngoặt mới, một cuộc đời mới.
Cô gái trẻ tên Mimi cười hóm hỉnh nhìn tôi đáp lời.
- Tôi thích cách dùng từ của anh đấy, bác sĩ Carl. Vâng, đúng vậy, tôi sẽ có một cuộc đời mới.
- Ồ, vậy là hai người sẽ ...
Tôi đã mường tượng ra anh bạn của tôi và cô gái ấy sẽ gắn kết với nhau. Nhưng Mimi gạt đi như coi đó chỉ là một trò đùa.
- Anh đùa hơi thiếu tế nhị đó, bác sĩ Carl. Thật ra thì tôi không định thay đổi quyết định của mình đâu. Nhưng cuối cùng thì tôi cũng bị thuyết phục. Tôi đã nhìn thấy sức mạnh của khoa học. Một thứ mà tôi chưa từng mường tượng ra là lớn đến nhường nào. Bằng chứng là con trai tôi vẫn ở kia, khoẻ mạnh và có thể còn sống thêm nhiều năm nữa. Không, tôi sẽ không lấy chồng hay sinh con thêm nữa. Tôi quyết định sẽ đi theo bác sĩ Riddle đây, trước là để học tập, sau đó là làm cùng, rồi kế tục công việc ấy. Bởi tôi đã hiểu ra rằng, cái chết làm cho cuộc sống có ý nghĩa. Tạo hoá cho tôi một cuộc sống và tôi đang sống đây, vậy mà tôi lại tự tìm đến cái chết ư? Một cái chết vô nghĩa, chấm dứt một cuộc đời ít ý nghĩa. Tôi sẽ sống và tiếp tục cống hiến, để cả cuộc sống và cái chết của tôi thêm ý nghĩa.
Tôi gật đầu cười tán thưởng những suy nghĩ tích cực của Mimi. Cô gái ấy dường như đã giũ bỏ hết những phiền muộn quá khứ, như đã tạo kén rồi chui ra một con người khác, một tâm hồn khác, trong sáng, vui tươi.
Riddle bảo Mimi đi sắp đồ lên xe và cô gái chạy đi với điệu bộ hết sức nhí nhảnh. Còn lại hai người, tôi không thể ngăn mình thốt lên những câu hỏi.
- Vậy là anh sẽ dẫn theo cô ấy sao? Thật khó để thuyết phục một người với vốn sống phong phú như vậy. Anh dự định sẽ cho cô ấy vai trò gì?
Riddle bước đi cùng tôi và bắt đầu bộc bạch.
- Tôi dự định sẽ đào tạo cô ấy trở thành một bác sĩ như tôi. Trước mắt sẽ là y tá kiêm phụ tá cho tôi. Ngay trong buổi gặp đầu tiên, tôi đã thấy tiềm năng của cô ấy. Mimi thông minh lanh lợi, lại có tấm lòng bao dung, sẽ không khó để trở thành một bác sĩ giỏi.
- Liệu cô ấy có thích hợp với công việc đó không? - Tôi đặt ra nghi ngờ. - Vì dẫu sao cô gái ấy cũng thừa hưởng một nền giáo dục lạc hậu từ mấy trăm năm trước. Lĩnh vực của cậu lại có chuyên môn rất cao. Tôi e cô gái sẽ khó mà theo kịp.
Riddle mỉm cười trả lời từ tốn.
- Anh quên là cô ấy có vô số thời gian ư. Tôi sẽ đào tạo cô ấy thật là bài bản, không nhảy cóc hay học tắt. Tôi sẽ không thay đổi nguyên tắc của mình trong công việc.
Hít một hơi sâu, anh bạn đồng nghiệp của tôi bắt đầu tâm sự.
- Anh biết không. Tôi cho rằng cô ấy là một người hoàn hảo để làm những công việc  như này đấy. Tuổi thọ trung bình của chúng ta chỉ khoảng bẩy tám chục tuổi. Mỗi người giành khoảng hai mươi năm đầu chỉ để học tập, thu nạp kiến thức, kỹ năng. Để tiếp cận được với những kiến thức đỉnh cao nhất ở một lĩnh vực nào đó, thì phải ba bốn chục tuổi mới coi như hấp thụ hết kiến thức của người đi trước. Từ đó mới có thể nghiên cứu, phát triển lĩnh vực đi xa hơn để đạt được thành tựu mới. Nhưng khi đến sáu bảy chục tuổi thì não bộ đã não hoá, không còn minh mẫn để nghiên cứu được nữa, cùng lắm chỉ còn đóng vai trò dẫn dắt lớp người sau. Trong cả cuộc đời, chúng ta thực sự chỉ đóng góp một phần tư, cùng lắm là một phần ba cho những phát kiến mang tính đột phá. Thật là lãng phí. Ấy là còn chưa kể, không phải ai cũng có đủ trí tuệ và vật chất để theo đuổi con đường nghiên cứu. Tôi cảm thấy tạo hoá đã giăng ra một rào cản để ngăn giống loài chúng ta tiến quá nhanh trong khoa học.
Tôi gật gù trước lời nhận xét của Riddle. Quả thực đời là vậy. Đối với những nhà khoa học như chúng tôi, thời gian luôn là một thứ xa xỉ. Luôn phải nỗ lực trau dồi kiến thức, vừa học vừa nghiên cứu, thậm chí nghiên cứu cùng lúc nhiều đề tài. Cốt yếu là để chạy đua với thời gian, làm sao để mình có thành quả gì đó, trước khi tuổi già ập đến cuốn phăng đi sự minh mẫn. Riddle tiếp lời khi nói về Mimi.
- Mimi là một món quà dành cho tôi, cho khoa học, thậm chí là cả nhân loại này. Nếu thành công, ừ, tôi sẽ không ngại dành cả đời mình chỉ để dạy cô ấy thành tài, từ những điều cơ bản nhất. Mất vài chục năm cũng được. Nhưng tôi tin, với sự thông minh ấy, khối nhiệt huyết ấy, cô ấy sẽ nghiên cứu không ngừng nghỉ suốt cả trăm năm sau đó, thậm chí lâu hơn. Nhân loại khi ấy sẽ có được những đột phá to lớn. Ôi, tôi mong được thấy ngày ấy quá!
Tôi gật đầu đồng tình. Nhìn thấy cô gái đang bê từng chiếc va li nhỏ lên một chiếc xe taxi lớn ở một góc phố phía xa, tôi thử đề cập đến vấn đề cuối cùng.
- Vậy còn về tình trạng của cô ấy. Cậu đã có giả thuyết gì chưa?
Riddle quay sang nhìn tôi, mở lời thật chậm rãi.
- Tôi mới chỉ thu thập được một chút ít thông tin nên cũng chưa dám làm thành một đề tài nghiên cứu. Dù vậy cũng phác thảo được đôi chút về cơ chế hoạt động và kèm theo đó là một vài giả thiết. Dù vậy nó chưa thật hoàn hảo lắm.
Tôi lấy làm mừng rỡ lắm liền hỏi ngay vì tò mò.
- Có thể chia sẻ với tôi được không? Tôi hứa sẽ giữ nó trong đầu, chỉ đến khi cậu muốn công bố.
Riddle gật đầu và bắt đầu nói.
- Có hai trở ngại chính ngăn sinh vật đạt đến sự bất tử: một chủ quan từ bên trong cơ thể, một là khách quan không thể tránh khỏi. Trước hết, chúng ta vốn được lập trình để chết, ngay từ trong bộ gen của chính mình. Cơ thể lành lại sau mỗi chấn thương là nhờ các tế bào liên tục nhân lên để chữa lành cho cơ thể. Nhưng sự nhân lên ấy cũng có giới hạn. Đó chính là giới hạn Hayflick. Mỗi khi tế bào trải qua quá trình nguyên phân, các telomere ở hai đầu của mỗi nhiễm sắc thể sẽ rút ngắn lại. Sự phân chia tế bào sẽ chấm dứt khi telomere rút ngắn đến một chiều dài tới hạn. Một tế bào nguyên bản lấy từ bào thai sẽ phân chia từ bốn chục đến sáu chục lần, tương đương với tuổi thọ không bao giờ vượt quá một trăm năm mươi. Không có thêm tế bào mới, cơ thể không thể sữa chữa các hư tổn. Cái chết sẽ đến như điều tất yếu.
Riddle giơ lên hai ngón tay khi nói tiếp.
- Điều thứ hai là do tác động của ngoại cảnh khách quan. Trong quá trình phân chia tế bào, bộ gen của chúng ta luôn phải đối mặt với sự tàn phá của các gốc hydoxyl, các tia phóng xạ, dẫn tới tỷ lệ xuất hiện đột biến gen là một trên mười tỷ. Nói thực tế ra thì, ngay khi tổ tiên chúng ta, khi còn là các thực thể đơn bào từ hàng triệu năm trước, đã lựa chọn việc hô hấp bằng ô xi, cũng coi như là đã ký vào một án tử chắc chắn. Việc sử dụng ô xi để thở khiến các gốc tự do tràn ngập trong cơ thể, dần dần bào mòn đi vật chất di truyền. Hơn thế, trong quá trình sống, một số gen có hại sẽ dần dần được đánh thức. Cơ thể tích lũy những thương tổn nhỏ rồi sẽ đến lúc hỏng hóc mà sinh ra bệnh tật. Để có thể đạt được trạng thái trẻ mãi không già, thậm chí là bất tử như Mimi, ắt hẳn hai cơ chế đó phải bị ngăn chặn bằng một cách nào đó. Tôi đã tập trung vào đó và có được vài khám phá hay ho.
Tôi nín thở chờ nghe những lời giải thích. Riddle mím môi để lựa chọn từ ngữ.
- Trước tiên, tôi phát hiện ra môi trường nội tế bào của cô ấy rất đậm đặc. Trong chất tế bào trôi nổi rất nhiều cấu trúc protein dạng sợi. Chúng bám vào thành tế bào, các bào quan và nhất là khối nhân. Từ đó làm khối lượng tế bào tăng lên khoảng hai mươi phần trăm dù kích thước không đổi. Điều đó giải thích cho cân nặng lớn bất thường của cô ấy.
Tôi cau mày thử phỏng đoán.
- Coi như cô ấy đậm đặc hơn chúng ta, thay vì là thể dịch chứa nhiều nước thì sẽ là những sợi protein đóng vai trò như dung môi, phải không? Vậy chúng còn có tác dụng gì nữa không?
Riddle gật đầu đồng tình về lý giải của tôi và đưa ra một giả thuyết khiến tôi bất ngờ.
- Tôi cho rằng hành vi của các dải sợi protein này khá giống với các sợi protein Dsup của gấu nước. Chúng có tác dụng liên kết với các nhiễm sắc thể, làm thành  lớp áo giáp cho vật chất di truyền. Từ đó tăng khả năng bảo vệ cho bộ gen trước các tác động gây hại. Việc ấy ngăn các lỗi hỏng hóc nhỏ xuất hiện trong cơ thể.
Riddle ngừng lại một chút để ngẫm nghĩ trước khi bổ sung.
- Dù vậy, thứ ấy cũng có những hạn chế. Vì thay thế nước làm dung môi nội bào nên tác dụng cân bằng nhiệt của tế bào bị rối loạn. Nó làm cho môi trường thể dịch ngoại bào luôn có nhiệt độ cao. Trong khi môi trường bên trong tế bào, nhiệt độ lại thấp hơn đáng kể. Từ đó làm chậm quá trình trao đổi chất của tế bào.
Tôi kết nối các mảnh ghép lại trong đầu khi nhớ ra các chi tiết.
- Và điều đó giải thích cho việc thân nhiệt của cô ấy luôn cao hơn người bình thường. Đồng thời luôn khát nước và có vẻ như tăng hoạt động trao đổi nước để giải nhiệt.
Riddle gật đầu đồng tình khi nói tiếp.
- Đúng vậy. Đó mới là cơ chế thứ nhất. Cơ chế thứ hai mới thật kỳ diệu đến oái oăm. Ban đầu tôi đã nghĩ cơ thể của Mimi sản sinh ra một loại enzym có tác dụng tái tạo vùng mở rộng telomere, giống như enzym telomerase ở tế bào ung thư, từ đó giúp các tế bào phân đôi vô hạn. Nhưng không, cơ chế còn kỳ quặc hơn thế. Đó là vào hằng đêm, một số lượng rất ít các mô tế bào của cô ấy bắt đầu rơi vào một trạng thái mà tôi tạm gọi là Chuyển dịch tế bào. Khi ấy, một số nhóm mô sẽ dần thoái hoá trở lại thành tế bào gốc, cụ thể là tế bào gốc toàn năng. Quá trình ấy diễn ra rất chậm và phát sinh nhiệt rất lớn. Hệ quả là làm thân nhiệt cô gái tăng lên. Đến gần sáng, các tế bào gốc ấy sẽ biệt hoá trở lại trở thành nhóm mô ban đầu. Toàn bộ quá trình trao đổi chất như dừng lại đột ngột dẫn tới thân nhiệt giảm nhẹ. Trong khoảng vài chục phút ấy, Mimi chìm vào giấc ngủ sâu bất thường. Điện não đồ tắt hẳn rồi bất chợt hoạt động trở lại như bình thường.
Tôi thốt lên kinh ngạc với cảm tưởng cơ thể cô gái như một cỗ máy được sửa chữa lại hằng đêm.
- Thật vậy sao? Việc ấy xảy ra với tần suất như thế nào?
- Hằng đêm. Suốt hai tuần qua tôi luôn ở nhà của ngài Billy. Tôi chụp được mười tấm ảnh thân nhiệt bằng hồng ngoại. Có vẻ như việc ấy diễn ra với những nhóm mô ngẫu nhiên rải rác trên cơ thể. Và tôi cũng chưa tìm ra quy luật của chúng. Dù vậy, theo ước tính của tôi, mỗi tháng các tế bào của cô ấy đều ít nhất sẽ có một lần chuyển dịch như vậy.
Tôi cúi đầu ngẫm nghĩ.
- Vậy là tỷ lệ một trên ba mươi mỗi đêm ư. Thật là vi diệu. Và còn điều gì nữa không?
Riddle lắc đầu nhìn tôi.
- Đó là tất cả những gì tôi quan sát được cho đến lúc này. Nhưng đúng là, chỉ với riêng hai cơ chế ấy thôi cũng đảm bảo cho ta trẻ mãi không già.
Tôi gật đầu khi suy nghĩ về điều ấy, và càng thắc mắc hơn về điều đã gây ra tình trạng ấy.
- Theo cậu thì nguyên nhân là gì? Có phải là một đột biến gen đã khiến cô ấy có khả năng đặc biệt ấy không?
Riddle gạt đi ngay khi cười.
- Không hề. Các con của cô ấy không xuất hiện tình trạng này. Và khi so sánh gen giữa mẹ con họ, tôi không thấy điểm đột biến nào cả. Điều đó cho thấy tình trạng này là do yếu tố bên ngoài ảnh hưởng tới Mimi.
Riddle trầm ngâm khi bắt đầu suy đoán.
- Tôi chỉ thắc mắc là tại sao cô gái ấy lại mắc kẹt vào cái tuổi hai mươi lăm ấy mà không phải cái tuổi nào khác. Lẽ nào đã có một chuyện xảy ra với cô ấy và làm cô gái bị đóng đinh luôn vào khoảnh khắc ấy, không thể thoát ra.
Tôi lục tìm trong đầu những chi tiết mà quý cô tiểu thư đã kể rồi bật ra một manh mối rõ nét.
- Lẽ nào là... Năm ấy cô ấy đã kết hôn với người chồng đầu tiên.
Riddle gật đầu khi tiếp tục bồi đắp thêm cho nhận xét của tôi.
- Chính tôi cũng đã nghi ngờ về điều ấy khi lật lại dòng thời gian. Tôi đã chú ý tới người chồng ấy, Bopp Vinci. Anh ta mang đầy đủ các đặc điểm của Mimi bây giờ. Không cha mẹ hay anh chị em, có tiền, có kiến thức uyên bác trong mọi lĩnh vực đương thời. Rất có thể anh ta cũng chính là một người bất tử như Mimi.
Tôi bổ sung và khiến Riddle bật cười.
- Chỉ khác là anh ta đã chết.
- Ừ, phải rồi. Chết vì tuổi già. Nhưng thật sự ra thì trong những trang sử của loài người, ta có thể dễ dàng bắt gặp những con người lang bạt như anh ta vậy. Những người đàn ông cô độc đến một thành phố, kết hôn rồi mang gia đình đến một nơi khác Rồi lại đột ngột rời khỏi gia đình để đi lang thang, để lại điều tiếng cho toàn bộ giới đàn ông. Tôi không quy kết nhưng nếu như giả thuyết của tôi đúng, anh ta phải chịu một phần trách nhiệm cho tai tiếng đó. Tôi cũng cho rằng Bopp Vinci chỉ là một cái tên giả. Anh ta đã đi nhiều nơi, sống rất nhiều cuộc đời trước khi gặp được tiểu thư Maya. Chỉ có việc anh ta đã chết vì tuổi già là khiến tôi bối rối.
Tôi thử đưa ra giả thuyết về vấn đề này.
- Có thể đó là một khả năng của anh ta, một sức mạnh siêu nhiên. Anh ta cũng đã chán chường cuộc sống như cô gái ấy mấy tuần trước. Đến khi gặp được cô nàng tiểu thư xinh đẹp với trí tuệ hơn người ấy, anh chàng Bopp đã quyết định hi sinh để truyền lại khả năng ấy cho vợ.
Riddle bật cười vỗ vai tôi.
- Giả thuyết của anh thật lãng mạn. Nhưng tôi cho rằng không có sức mạnh siêu nhiên nào ở đây cả. Tôi đang thiên về giả thuyết có một loại virus đã lây từ anh chàng Bopp sang người tiểu thư Maya. Vì bằng chứng cho thấy những sợi protein ấy hoàn toàn ngoại lai, và nó tự nhân lên trong mỗi tế bào mà không hề phụ thuộc vào quá trình phân bào. Nó khiến tôi nhớ đến ty thể và lục lạp, hai bào quan đã nội cộng sinh vào một tế bào nhân sơ từ hàng triệu năm về trước. Nhưng nay ở cấp độ của một cơ thể đa bào, việc ấy không thể chỉ đơn giản như ngày xưa. Hẳn phải có một thứ gì đó mang chúng đến từng tế bào của cơ thể. Và tôi nghĩ đến virus, với khả năng trà trộn vật chất di truyền vào tế bào vật chủ. Đó hiện giờ là giả thuyết khả dĩ nhất mà tôi có.
Tôi gật gù nhưng vẫn dè dặt bám theo giả thuyết của mình.
- Nếu như anh chàng ấy, anh Bopp ấy, quả thực cũng đã nhiễm một loại virus như anh nói khiến anh ta trở nên bất tử. Thì cũng rất có thể, anh ấy đã đẩy nó sang cho tiểu thư Maya lắm chứ. 
Riddle bật cười nhìn tôi.
- Ôi, bạn của tôi ơi. Con người chúng ta, dù có được thần thánh hóa thế nào đi chăng nữa, cũng chưa thể dùng ý chí để điều khiển một thực thể như vậy làm theo ý mình đâu.
Riddle đưa tay lên cằm tập trung suy nghĩ. Sau cùng anh cũng phác hoạ thêm vài nét về giả thuyết của mình.
- Tôi cho rằng việc bất tử ấy cũng không phải là mãi mãi. Có thể người đàn ông ấy đã tồn tại từ rất lâu. Đến khi gặp được tiểu thư Maya, anh ta truyền thứ đó cho Maya nhưng chính cơ chế giúp anh ta bất tử cũng gặp trục trặc. Cơ thể anh ấy trở lại như bình thường và bắt đầu già đi rồi chết. Bằng chứng là Mimi cũng không hoàn toàn trẻ mãi như chúng ta tưởng đâu. Tôi đã phân tích tuổi sinh học của cô ấy, cơ thể cô ấy thực ra đang bước vào ngưỡng tuổi hai mươi sáu.
Tôi thốt lên kinh ngạc vì điều vừa được nghe.
- Ôi, chỉ thêm một tuổi trong suốt hơn hai trăm năm đã qua sao. Bạn tôi ơi, đó cũng là điều rất điên rồ rồi. Nhưng nếu như vậy thì còn những người phụ nữ khác thì sao, ở những cuộc đời khác của người đàn ông tên Bopp Vinci ấy.
Riddle tiếp tục đẩy giả thuyết đi xa hơn với đầy vẻ mơ mộng.
- Có thể Mimi là một trong những người hiếm hoi có thể dung nạp thứ ngoại lai ấy vào cơ thể. Hoặc là, ở ngoài kia vẫn còn có những người như cô ấy sống lẩn khuất giữa chúng ta. Và cũng có thể là  tôi sai. Cô ấy là trường hợp đầu tiên và duy nhất ghi nhận tình trạng này. Và cũng vì thế, anh Carl ạ. Tôi chắc rằng anh nhận thức rất rõ những hiểm nguy mà cô gái ấy đang và sẽ gặp phải, nếu như chúng ta không cẩn trọng trong việc đẩy thông tin ra cho công chúng.
Tôi nghĩ tới những kẻ điên rồ với một đống lý luận ngụy khoa học trong đầu có thể đẩy những giả thuyết của Riddle lên cao trào. Từ đó tạo thành một cuộc săn lùng cô gái ấy khi ai cũng nghĩ rằng cô nắm trong tay bí quyết trường sinh. Một viễn cảnh đen tối lờ mờ hiện ra khiến tôi tự nhận lấy một phần trách nhiệm để ngăn nó xảy ra. Riddle nói tiếp về lộ trình của mình cho tôi kèm theo một lời căn dặn nghiêm túc.
- Tôi và Mimi sẽ tới gặp Wolley và Antoine để thiết lập một sự bảo vệ chắc chắn. Sau đó chúng tôi sẽ tạm thời ẩn dật để học tập cùng nhau. Anh biết cách liên lạc rồi đấy. Và tôi cũng tin tưởng rằng anh sẽ luôn đặt vụ này lên mức bảo mật cao nhất trong số những đề tài nghiên cứu của chúng ta.
Tôi gật đầu xác nhận mình đã hiểu khiến cậu chàng đồng nghiệp có phần hài lòng. Riddle dừng bước bên vệ đường khi thấy chiếc xe đang tiến lại. Mimi đang cười tươi rói đằng sau vô lăng. Riddle lấy lại vẻ vui tươi khi tự bộc bạch lòng mình.
- Từ khi kiến tạo nên thế giới nhân văn, đề cao những giá trị văn minh, con người chúng ta đã luôn tìm kiếm sự hoàn hảo. Đó chính là vẻ đẹp của sức mạnh thể chất và vẻ đẹp của tinh thần cùng song hành trong một cơ thể. Nhưng trớ trêu thay, hai điều đó chẳng bao giờ chịu ở cùng nhau. Khi trẻ trung khoẻ khoắn thì tâm hồn ta non dại, trí tuệ ta ngu muội. Khi đã đạt đến độ tinh anh trong não bộ thì cái xác thân dần xuống cấp. Trên thế giới này, chỉ có một số ít người, trong một vài thời điểm ngắn ngủi là đạt được nó mà thôi. Nói vậy để anh thấy tôi kỳ vọng vào cô gái này thế nào. Đúng vậy, bạn tôi ạ. Thật là một kỳ quan của tạo hoá. Có thể cô ấy cũng sẽ phải chết, nhưng chắc là phải rất lâu nữa. Thôi, cũng đã đến lúc phải chia tay rồi. Tạm biệt ông anh đáng mến. Người hậu bối này sẽ nhớ anh lắm đấy.
- Cả em nữa.
Mimi chạy ra khỏi xe và ôm chầm lấy tôi như một người thân của mình. Tôi cũng ôm lại cô nàng để động viên. Chúng tôi chia tay nhau sau khi trao nhau những lời chúc nhau may mắn, để lên đường đi theo đuổi sự nghiệp của riêng mình.
Tôi nhìn theo chiếc xe đi khuất mà mừng cho Mimi. Cô gái đã thực sự trở thành một con bé đáng yêu ở độ tuổi hai mươi sáu. Chỉ khi quên được những sự kiện đau buồn trong quá khứ, con người ta mới có tâm trí để sống tiếp ở hiện tại và hướng đến tương lai.
***
Tôi đến chơi nhà ông anh kết nghĩa Billy Doctor vào ngày hôm sau, dự định cũng để chia tay khi đoàn bác sĩ chúng tôi đã có kế hoạch mới. Chúng tôi ngồi hàn huyên với nhau và được biết cả nhà đã đấu tranh với nhau rất lâu để đồng ý cho bà nội của anh, quý bà Lyly Muissa, đi theo bác sĩ Riddle để học việc. Billy nói chân thành với tôi khi chìa ra một bàn tay.
- Tôi ấn tượng với họ lắm, cả ba người đã chữa cho ba tôi đêm hôm đó. Họ thật sự là đỉnh cao của nhân loại, cả về tài năng, vẻ đẹp bề ngoài lẫn y đức, tâm hồn. Tôi đồng ý cho bà nội mình đi theo cậu ấy vì đúng là không còn nơi nào thích hợp hơn. Bà nội tôi muốn được cống hiến tất cả cho khoa học, bằng một sự kiên định mà tôi chưa từng thấy.
Khi tôi hỏi xem họ có còn liên lạc với nhau, ông anh cũng niềm nở bày tỏ tấm lòng.
- Bà vừa điện về hôm qua. Coi bộ đang vui lắm vì vừa học thêm một kỹ thuật gì đó mới. Bà còn dặn chúng tôi luôn quan sát những người họ hàng khác giúp bà. Vì chính bà ở nơi đó cũng đang quan sát chúng tôi, sẽ giúp đỡ chúng tôi khi thật cần thiết.
Tôi gật đầu tỏ vẻ thấu hiểu. Vậy là mọi việc đã được an bài ổn thoả. Và ở phương trời kia, cô gái ấy lại đang sống một cuộc đời mới. Một cuộc đời chắc chắn là nhiều màu sắc và ý nghĩa hơn rất nhiều trước kia. Quan trọng nhất là cô gái đã tìm lại được sự lạc quan yêu đời.
Tôi rời biệt thự nhà Doctor mà lòng vui phơi phới. Lòng mong ngóng được gặp lại Riddle để được nghe anh kể những điều mới mẻ hay ho vừa được khám phá. Và lần tới sẽ có cả Mimi nữa. Hai con người họ chắc chắn sẽ không làm tôi thất vọng.
Thành phố Luis bên dòng sông thơ mộng.
Tháng chín, ngày hai mươi mốt.