Tôi thuê một căn phòng nhỏ ở tầng bốn một khu tập thể cũ bên ngõ Lò Đúc. Cầu thang xi măng bong tróc, mỗi bậc như giữ lại dấu giày của những người đã rời đi. Ban đêm, gió đi qua hành lang giống một người khách thở dài. Ở đây, tiếng chuông tàu từ ga Trần Quý Cáp không đến được; chỉ có tiếng thìa đũa va nhau từ quán bún cá dưới sân. Tôi làm biên tập số liệu cho một công ty giáo dục trực tuyến, công việc không đòi hỏi nhiều ngoài việc giữ đôi mắt mở và không gây chuyện với Excel.
Tôi hay tỉnh dậy lúc 3 giờ 17, không phải vì mơ xấu, cũng không phải vì mất ngủ. Đơn giản là trong đầu có ai đó bật một công tắc, tôi lập tức thức. Tôi gọi người đó là “người gác đèn.” Họ không nói gì với tôi, chỉ đẩy một luồng sáng qua những sợi dây nâu ở đáy hộp sọ. Tôi ngồi dậy, uống ngụm nước, nghe tiếng mèo cào vào cửa.
Con mèo trong khu tập thể không thuộc về ai. Bộ lông nó màu xám tro, mắt xanh, cái đuôi cụt một khúc. Tôi đặt tên nó là Nốt Fa vì tiếng kêu của nó khá phẳng. Fa đến mỗi khi tôi bật đèn bếp, cọ đầu vào bắp chân đòi cá khô. Ăn xong nó hay nhảy tót lên bệ cửa sổ, ngắm những kẻ đi làm sớm như thể đang xem một cuộc diễu hành buồn tẻ.
Trong phòng có một chiếc gương oval cũ treo chênh chếch, viền gỗ mục điểm vài lỗ mọt. Sáng nào tôi cũng nhìn vào đó để kiểm tra xem mình còn là mình không. Ánh sáng dư của bóng đèn huỳnh quang bôi một lớp xanh mỏng lên khuôn mặt. Có hôm tôi thử giơ tay chạm vào mặt kính. Đầu ngón tay lạnh đến mức tôi nghĩ nếu ấn lâu, người trong gương sẽ rùng mình trước tôi một giây. Nhưng hắn vẫn là tôi, im lặng, chấp nhận.
Một buổi tối, tôi gặp Linh ở quán bún cá dưới sân. Cô bước vào với chiếc ô màu đỏ sẫm còn vương vài giọt mưa, mùi bưởi nhón gót theo sau. Cô gọi bún không thì là, thêm ớt tươi, ăn chậm như đang lắng nghe thứ gì khác ngoài tiếng sợi bún đứt. Khi cô đứng dậy trả tiền, ví trượt khỏi túi áo. Tôi nhặt lên đưa, thấy trong ví có một thẻ nhân viên: Trung tâm nghiên cứu giấc ngủ Hà Nội, kỹ thuật viên EEG.
“Anh hay thức khuya,” cô nói sau khi cám ơn, không hỏi.
“Tôi hay dậy sớm,” tôi nói.
“Lúc nào?”
“3 giờ 17.”
Cô cười, lúm đồng tiền buồn bã. “Giờ đó trên điện não đồ khá tĩnh. Nếu anh không mơ, có thể anh đang qua một ngưỡng. Anh đã thử ghi lại chưa?”
“Tôi chỉ biết người gác đèn trong đầu mình khá đúng giờ.”
“Người gác đèn?”
“Tưởng tượng thôi.”
Cô gập ô, khẽ gõ đầu ô vào gót giày. “Nếu anh muốn, đến chỗ tôi. Tôi cho anh xem người đó trông như thế nào trên giấy.”
Tôi đến vào tối thứ Năm. Trung tâm nằm trên tầng năm một tòa nhà cũ hơn cả khu tập thể của tôi. Hành lang treo những bức ảnh đen trắng: những cái đầu đội mũ điện cực như những quả cầu sáng bị trói. Linh dẫn tôi vào phòng đặt giường, sơn tường xanh nhạt. Mùi đồ điện mới, lạnh. Cô gắn lên trán tôi vài điểm keo, luồn dây mảnh như tóc bạc nối vào một hộp máy.
“Nếu anh buồn ngủ thì ngủ,” cô nói. “Nếu không ngủ được thì cứ nhắm mắt. Tôi chỉ đo khi anh tỉnh và khi anh qua ngưỡng. Anh cứ làm điều anh thường làm lúc 3 giờ 17.”
“Tôi không làm gì cả.”
“Vậy thì rất tốt,” cô mỉm cười.
Tôi nằm trên giường, nghe tiếng máy điều hòa thở. Linh ngồi sau vách kính, cúi mặt vào màn hình. Ánh đèn trên trần xòe ra như một bông hoa không mùi. Tôi không biết mình đã ngủ chưa, chỉ biết khi mở mắt, đồng hồ trên tường chạy đến 3 giờ 16. Tôi nhìn trân trân vào con số. Phổi tôi hít một nhịp dài. Trong đầu như có ai bước dọc một hành lang, kiểm tra các công tắc, chạm tay vào từng chóa đèn, hỏi “được rồi chứ?” Không ai trả lời, nhưng ánh sáng bắt đầu loang.
Khi đồng hồ nhảy sang 3 giờ 17, một ý nghĩ xuất hiện, lạ như một vị khách gửi nhầm thư: Đừng quay đầu. Tôi không muốn nghĩ vậy, nhưng câu đó mở một cửa sổ trong tôi, để gió lùa. Tôi nghe tiếng chân ai đó, không thuộc về tôi, đi quanh giường.
Tôi nằm im, nhắm mắt lại, đếm đến 150. Khi mở mắt ra, Linh đã đứng bên giường như một cái bóng mỏng. Cô tháo từ mặt tôi những sợi dây bạc, đặt chúng vào chiếc khay inox.
“Anh nghe thấy gì không?” cô hỏi.
“Tôi nghe một câu.”
“Câu gì?”
“Đừng quay đầu.”
Cô chống tay vào thành giường, ngẫm nghĩ. “Không có gì bất thường. Sóng alpha ổn, chuyển theta khá sạch. Chỉ là lúc 3 giờ 17, anh vượt ngưỡng thức sang ngưỡng dậy. Có thể tư duy tự phát tạo ra câu đó. Não thích đặt biển chỉ dẫn ở chỗ ngã ba.”
“Nhưng nó không giống tôi nghĩ.”
“Ý anh là cảm giác như có ai khác nghĩ hộ anh?”
“Đúng vậy.”
Cô không cười. “Thỉnh thoảng điều đó xảy ra. Anh không phải bệnh nhân tâm thần. Chỉ là đường trộn tín hiệu hơi ồn. Não anh giống một phòng thu, nhiều đường ghi riêng lẻ. Bình thường người biên tập trộn chúng thành một bản duy nhất. Hôm nay, có một đường lọt ra trước.”
Chúng tôi xuống quán nước dưới sân. Cô gọi trà nóng, tôi gọi cà phê đen. Trời lất phất. Cô giơ chiếc ô đỏ ra che một chiếc lá bàng rơi, như thể bảo vệ một ý nghĩ khỏi ướt.
“Cô có bao giờ nghĩ rằng đỏ của ô cô khác đỏ của mắt tôi không?” tôi hỏi khi trà còn nghi ngút.
“Ngày nào cũng nghĩ,” cô nói. “Đôi khi đỏ là một mùi. Đôi khi là một ký ức. Có hôm là một thứ âm thanh. Tôi gọi những mặt cắt đó là mùi vị của cảm giác. Có người gọi là qualia.”
“Tôi nghĩ đến một quả bưởi bị bóc vỏ dưới đèn vàng,” tôi nói. “Cái đỏ của ô cô nghe như tiếng vỏ bưởi rơi trên sàn men.”
Cô nhìn tôi. “Cám ơn,” cô nói, như thể tôi vừa khen một nốt nhạc cô chơi đúng.
Từ hôm đó, Linh thỉnh thoảng ghé căn phòng của tôi. Cô ngồi trên bệ cửa sổ cạnh Fa, mở một cuốn sổ bìa đen, viết những dòng chữ nhỏ như dấu kiến. Tôi hỏi cô viết gì, cô nói: “Những từ trước khi chìm.” Mỗi người có một danh sách. Có người là tên những người yêu cũ, có người là số xe buýt, có người là mùi nước rửa bát thời bé. Cô bảo viết ra giúp cố định một mỏ neo cho ý thức, để khi trôi quá xa có thể kéo về.
Tôi thử. Trước khi ngủ, tôi viết: “Khe cửa, giọt mưa, muỗng gỗ, đèn bếp, lưng mèo, quai ô đỏ.” Tôi chìm xuống khá nhanh, rơi qua những lớp vải chồng lên nhau. Và đúng 3 giờ 17, người gác đèn chạm tay vào công tắc. Câu nói trở lại, lần này mềm hơn: Đừng quay đầu. Tôi ngồi dậy, nhìn gương. Người trong gương nhìn lại tôi, chậm nửa giây. Tôi tiến gần, như thể cái mặt kia là cửa sổ. Fa bước ngang, đuôi nó lia qua mặt gương khiến người kia nhăn mày.
Tôi thử giơ tay lên. Bàn tay người kia cũng lên, nhưng ngón út khựng lại một chút, như bị kéo bởi một sợi chỉ. Tôi chạm mặt kính. Lạnh. Một ý nghĩ khác xuất hiện, cũng không phải của tôi: Nếu anh chạm lâu hơn, người kia sẽ rút tay trước. Tôi giữ tay ở đó, đếm đến hai trăm. Mồ hôi rịn ra, nhưng không có gì xảy ra. Người kia không rút tay. Tôi cười một mình, thua một ván cờ trước kẻ vô hình.
Những ngày sau, Linh bận ca đêm. Tôi ở nhà với Fa và chiếc gương. Một đêm mất điện, cả khu tập thể tối đen như một con cá lớn ngậm mực. Tôi nghe tiếng chân ai lên cầu thang, dừng ở bậc thứ mười ba. Tôi mở cửa, hành lang trống rỗng. Gió thổi qua những tờ thông báo dán trên tường. Tôi quay vào, nghĩ mình nên đun nước. Nhưng câu nói bật lên, tự như dây cót: Đừng quay đầu.
“Được rồi,” tôi nói với căn phòng tối. “Không quay thì không quay.”
Tôi đi thẳng vào bếp, đụng phải bàn. Cốc rơi vỡ. Mùi trà cũ bốc lên. Fa nhảy phốc khỏi ghế, trượt mất. Tôi bật di động soi nền nhà. Những mảnh sứ trắng như răng rụng. Trong chốc lát, tôi thấy thèm được nghe tiếng linh hoạt của đèn neon. Tôi tưởng tượng người gác đèn đang chạy khắp nơi, thử từng công tắc: “Không cái này, không cái kia.” Họ thở nhẹ khi chạm đúng cái có tiếng “tách,” ánh sáng bật lên.
Sáng hôm sau, Linh nhắn một tin: Tối nay tôi có ca. Nếu 3 giờ 17 anh tỉnh, đi qua đây. Tôi muốn anh thử một thứ.
Tôi đến. Cô không nói chuyện nhiều. Gắn dây. Tắt bớt đèn. Bảo tôi nằm thở đều. Tôi nằm, đếm từng hơi chậm. Đêm vắng như một tờ giấy chưa viết. Khi đồng hồ đạt đến 3 giờ 16, tôi nghe tiếng máy chạy êm hơn. 3 giờ 17, câu nói lại đến, nhưng lần này là một lời mời: Quay đầu cũng được.
Tôi quay đầu sang phải, nhìn qua vách kính. Linh không ở ghế điều khiển. Cốc trà của cô vẫn bốc khói. Cánh cửa sau lưng vách mở hé, một dải hành lang chìm vào tối. Tôi ngồi dậy, tháo một sợi dây khỏi thái dương, bước xuống sàn. Chân trần gặp lạnh. Tôi đẩy cửa, đi vào hành lang. Đèn cảm biến nháy một cái rồi tắt. Tôi đi tiếp, tay quờ qua tường. Tôi đến cuối hành lang, đụng một cửa kính. Bên kia là mái hiên, mưa lắc rắc. Chiếc ô đỏ đứng ở đó, tựa vào tường, như người chờ. Tôi cầm ô lên. Vải vẫn ướt, nhưng mùi bưởi khô.
Một giọng nói khác, rất nhẹ, nổi lên: Linh xuống trạm phát điện. Anh cứ vào phòng số 5. Tôi nghe theo, mở cửa phòng số 5. Trong phòng là một cái giếng tròn xây bằng gạch, miệng giếng đậy nắp gỗ. Không khí ẩm và mát, mùi rêu. Tôi không ngạc nhiên. Những ngày gần đây, tôi quen với việc đầu mình trượt sang một vạch khác như kim radio bắt một đài mới.
Tôi nhấc nắp. Trong giếng không có nước, chỉ có một cầu thang sắt xoắn ốc đi sâu xuống. Tôi cầm ô, bước từng bậc. Tiếng chân vọng lên như tiếng ai đó đi ngược chiều. Ở bậc thứ mười ba, tôi dừng lại, nghĩ về người gác đèn. Chắc họ không thích tối tăm. Tôi chạm vào tay vịn, lạnh như gương. Một ánh đèn vàng bật lên đâu đó rất xa, như ai đó thử công tắc của một căn phòng ngủ.
Xuống thêm mươi bậc, tôi đến một nền đất phẳng. Phía đối diện là một tường gạch. Không có cửa. Nhưng có một gương oval giống hệt cái trong phòng tôi. Viền gỗ mục, vết mọt. Tôi tiến đến. Người trong gương là tôi, nhưng có gì đó trễ một nhịp. Tôi giơ chiếc ô đỏ, người kia cũng giơ. Màu đỏ trong gương đậm hơn, như bị pha rượu vang.
“Anh là ai?” tôi hỏi. Câu hỏi nghe như một đồng xu rơi xuống đáy giếng, lâu lắm mới dội lên.
“Anh,” người kia trả lời. Miệng hắn mấp máy nhưng tôi nghe tiếng từ phía sau lưng. Tôi quay lại theo bản năng, nhưng một mẩu câu, lâu rồi không nghe, bật ra: Đừng quay đầu.
“Được,” tôi nói, nhìn thẳng. “Vậy anh có biết người gác đèn không?”
“Biết,” hắn nói. “Người đó vừa bật đèn ở phòng 5. Vừa mở cửa giếng. Vừa dẫn anh xuống đây.”
“Tôi tưởng người đó ở trong đầu tôi.”
“Trong đầu tôi,” hắn nói.
Chúng tôi đứng im một lúc. Trên đầu, tiếng mưa bị tắt đi như ai giảm âm lượng. Tôi chạm tay lên mặt gương. Lạnh. Người kia cũng chạm. Ngón út của hắn run nhẹ, rồi dừng. Tôi nhớ lại trò chơi cũ. Tôi giữ tay lâu hơn, đếm. 49, 50, 51. Hắn không rút. Đến 103, tay tôi tê đi. Đến 150, một cảm giác mới xuất hiện: như thể mặt kính dưới tay không còn cứng. Nó mềm ra, mặt nước ngầm nhúc nhích. Tôi đẩy thêm chút nữa. Ngón tay lọt qua một lớp mỏng, lạnh điếng. Tôi rút tay lại, nhưng phía bên kia có một lực kéo nhẹ. Một tiếng nói vẳng lên, không rõ của ai: Nếu còn đẩy, anh sẽ qua.
“Tôi không biết quay đâu về,” tôi nói.
“Anh có thể ở lại,” người kia nói. “Bên này ánh sáng ổn định. Không người gác đèn. Không có 3 giờ 17.”
“Tôi cần 3 giờ 17,” tôi nói. “Nó là một mỏ neo.”
“Hay là một cái chuông ngục,” hắn nói. “Một ngày nào đó, người gác đèn sẽ quên anh.”
Tôi nghĩ đến Linh. Mùi bưởi lẫn trong hơi lạnh. Tôi nghĩ đến Fa, đến chiếc bát nhỏ ở bệ cửa. Tôi nghĩ đến những danh sách “những từ trước khi chìm.” Tôi không muốn mất chúng. Nhưng tôi cũng không muốn là một phòng thu ồn ào nữa.
“Tôi sẽ lên,” tôi nói.
Người kia không nói gì. Tôi kéo tay ra khỏi gương, da nổi gai. Tôi đặt nắp giếng lại, cầm ô đứng dậy. Lúc qua bậc mười ba, tôi nghe tiếng chân ai đó đi xuống. Không phải tôi. Tôi dừng, lắng tai, nhưng tiếng ấy tan vào mùi rêu. Lên đến miệng giếng, tôi thấy Linh đứng đó, tay cầm một bó dây điện nhỏ, mặt lấm tấm mồ hôi.
“Anh vào trong làm gì?” cô hỏi.
“Tôi xuống giếng.”
“Ở đây không có giếng.”
Tôi nhìn phía sau. Cánh cửa phòng số 5 mở vào một phòng trống trơn. Sàn gỗ, tường trắng, một cái bàn kim loại, một chiếc ghế. Không có giếng, không có gương. Tôi giơ tay, trên đầu ngón trỏ còn một vệt nước lạnh không bay hơi. Linh nhìn theo, nhưng không nhận thấy gì.
“Có lúc,” cô nói chậm, “não trộn một bản thu cũ vào một bản mới. Người biên tập bối rối. Anh không sao chứ?”
“Tôi nghĩ tôi vừa nói chuyện với một phiên bản khác của mình.”
“Anh có thắng không?”
“Không có ván nào cả,” tôi nói. “Chỉ có cú chạm tay.”
Cô không cười, nhưng mắt giãn ra như vừa nghe một giai điệu đúng khóa. “Vậy anh còn muốn đo tiếp không?”
“Tôi muốn thử một chuyện khác.”
“Chuyện gì?”
“Giấc mơ sáng suốt,” tôi nói. “Tôi muốn xem lúc đó người gác đèn làm gì.”
Cô gật đầu. “Được. Về viết danh sách đi. Lần này thêm vài mùi vị. Đỏ của ô, tiếng trà rót, hơi mèo ngủ. Càng cụ thể càng tốt.”
Đêm đó, tôi về nhà, viết một danh sách dài hơn. Tôi để chiếc ô đỏ Linh cho mượn dựa vào tường, treo cái gương oval cho thẳng lại. Fa cuộn tròn dưới chân, thở đều như một chiếc quạt nhỏ. Tôi tắt đèn bếp. Căn phòng tối lại, nhưng không hẳn tối. Có những vùng mực và vùng ngà. Trong đầu, người gác đèn đi dọc hành lang, kiểm tra công tắc, vặn từng cái một như người chăm một vườn đom đóm.
Tôi chìm xuống. Khi 3 giờ 17 đến, tôi đã ở trong một căn phòng có mùi bưởi, tường xanh, một giếng tròn và một chiếc gương oval. Tôi biết mình đang mơ. Tôi nhìn vào gương, thấy mình. Tôi giơ tay. Người bên kia giơ tay. Tôi không chạm vào kính. Tôi ngồi xuống mép giếng. Tôi lấy từ túi áo một mảnh giấy nhỏ: “Khe cửa, giọt mưa, muỗng gỗ, đèn bếp, lưng mèo, quai ô đỏ.” Tôi đọc từng chữ như đọc tên những người bạn.
Một giọng nói hỏi: Anh có muốn ở lại không?
“Tôi muốn qua lại,” tôi nói. “Tôi muốn dùng giấc mơ như một hành lang an toàn, để lúc cần thì đi, lúc cần thì về.”
Người gác đèn sẽ không thích, giọng nói nói.
“Tôi sẽ làm cho họ thích,” tôi nói. “Tôi sẽ để một chiếc ghế cho họ ngồi.”
Tôi mở ô đỏ ra, che miệng giếng. Màu đỏ phủ lên mặt nước tưởng tượng. Tôi nghe tiếng bước chân rất xa của ai đó đi trên sàn gỗ. Họ đến gần, thử một công tắc, rồi một cái nữa. Ánh sáng bật lên ở một góc không ai ngờ. Gương lấp lánh như một con cá phơi nắng. Tôi biết người gác đèn vừa ngồi xuống chiếc ghế tôi để cho họ.
Sáng ra, tôi đến trung tâm. Linh bảo sóng của tôi đêm qua kỳ lạ: phạm vi thấp nhưng ổn định, như một người đi trên một cây cầu tre mỏng mà không rơi. Cô nói tôi đã qua ngưỡng ba lần, mỗi lần đều để lại một dấu lặng.
“Tôi nghĩ anh đã tìm ra cách hòa âm,” cô nói, đưa tôi một bản in. Trên giấy là những đường nhịp đều, thi thoảng có chấm dày lên như một nốt trầm nhấn.
“Tôi chỉ đặt một chiếc ghế,” tôi nói.
“Cho ai?”
“Cho người gác đèn,” tôi nói. “Họ cũng cần nghỉ.”
Linh mỉm cười. “Nếu họ nghỉ, ai bật đèn?”
“Tôi,” tôi nói. “Lúc cần. Còn phần lớn thời gian, tôi muốn sống trong một phòng thu không quá ồn.”
Chúng tôi ra quán bún cá. Linh đặt chiếc ô đỏ vào góc tường, vệt nước chảy xuống nền xi măng tạo thành một con sông nhỏ. Fa xuất hiện từ đâu, ngồi chồm hỗm trước cửa, nhìn tôi như một thượng đế bất đắc dĩ. Tôi bẻ cục cá ném ra, nó đớp gọn. Trong khoảnh khắc, tôi thấy đỏ của ô là một vị mặn của bọt nước, là tiếng dây đàn bị gảy vừa đủ, là mùi áo len cũ phơi nơi hiên. Tôi nghĩ nếu đó là qualia của tôi, nó cũng có thể là một tấm bản đồ, không phải tới nơi nào khác, mà quay lại đúng căn phòng cũ của tôi, gương oval treo ngay ngắn và con mèo thở đều.
Sau bữa, Linh nói phải quay về ca trưa. Tôi tiễn cô đến cửa, nhìn theo chiếc ô đi vào mưa. Tôi trở về phòng, ngồi trước gương. Tôi chạm vào mặt kính, không để thử ai rút tay trước. Chỉ để đo nhiệt độ của chính mình. Người trong gương làm theo. Chúng tôi đứng đó một lúc, không thắng thua, không mời gọi. Rồi tôi bật đèn bếp, đun nước. Trong ấm, nước sôi như tiếng mưa từ một thời tiết khác.
Đêm đó, tôi lại viết danh sách. Lần này, ở cuối, tôi thêm một dòng: “Một chiếc ghế gỗ cho người gác đèn.” Tôi tưởng tượng họ ngồi xuống, chỉnh lại mũ bảo hộ, thả lỏng vai. Tôi sẽ không quấy họ trừ khi cần. Còn lại, tôi xin tự bật vài ngọn, và tắt vài ngọn. Tôi muốn học cách đi trong phòng thu của mình mà không đạp lên dây mic.
Khi đồng hồ chạy đến 3 giờ 17, tôi thức. Không có câu nói nào đến. Chỉ có tiếng Fa cào nhẹ vào cửa. Tôi mở cửa, nó lách vào, trèo lên giường cuộn tròn. Tôi tắt đèn, căn phòng rơi vào một thứ tối ấm. Ở nơi nào đó trong tôi, một bóng đèn nhỏ tắt đi, rồi một bóng khác bật lên, như dàn đèn trong một nhà hát tập dượt. Tôi nghe có tiếng ai búng tay nhè nhẹ. Người gác đèn đang thử ánh sáng. Tôi gật đầu. Rồi ngủ tiếp.