Château Silencieux nằm ở rìa vùng Provence, giữa những đồng hoa Oải Hương với sắc màu tím gần như đã trôi đi hết theo làn gió mùa Thu, và những bụi cây Hương Thảo chẳng còn gợi chút gì chữa lành mà chỉ toàn một mảng kí ức sắp lụi tàn.
Từ ngày dòng họ De Laucier bị cuốn trôi trong hỗn mang Cách mạng, nơi ấy không còn ai sống – chỉ có tháp chuông vẫn đứng đó, cao vút như một lời phủ nhận sự lãng quên. Người dân quanh vùng gọi nơi này là “Lâu đài Lặng Im”, bởi hơn bốn thập kỉ qua, chuông chưa từng ngân. Nhưng mỗi khi trăng non, vẫn có kẻ nghe thấy một tiếng rung rất khẽ, như vọng từ trong đá.
Helmys đến vào một ngày mưa. Từng giọt nước bay nghiêng trong gió, đậu lên khuôn mặt đã sạm nắng đường xa. Chiếc áo choàng nâu sậm chẳng còn mới, lấm tấm bùn đất, vướng vào những bụi oải hương nở muộn bên lối mòn đá vụn. Bên hông chàng, cuốn sổ tay buộc bằng dây gai rung khẽ theo từng bước chân – như đang thì thầm với gió những điều đã ghi, hoặc còn chờ được viết.
Khi leo lên bậc thềm đá lạnh, chàng gặp một ông lão tóc bạc như khói, tay cầm một mảnh giấy lụa từng là chiếc khăn tay của tiểu thư quý tộc xua kia.
"Cháu đến trú mưa nhỉ?"
Ông hỏi, giọng khàn đặc đúng như dư vị của tuổi già, nhưng trong chất giọng ấy lại không hề có gì là run rẩy, hay quên đi sự cường tráng trước kia của bản thân.
Helmys mỉm cười, lắc đầu:
"Không phải trú mưa cho cháu mà là cho bầy cừu kia." - Chàng chỉ tay về phía những con thú với bộ lông trắng đã đượm một màu đất, chúng rụt rè, co người vào nhau phía trong căn biệt thự đã bám đầy rêu xanh và nhìn như chực chờ sụp đổ.
Ông lão ngó đàn cừu một lúc, rồi gật gù – chẳng phải để tỏ vẻ thấu hiểu cho những con vật đang cơ nhỡ, mà như đang hồi tưởng một điều đã cũ lắm.
“Chúng không phải là sinh vật đầu tiên trú ở đây,” ông chậm rãi nói, mắt không nhìn Helmys mà nhìn về tháp chuông đổ bóng, “Ngày xưa, cũng từng có một đàn thiên nga. Cô tiểu thư út nuôi chúng, cứ mỗi chiều lại ra đọc sách dưới gốc phong, còn chúng thì bơi quanh hồ, trắng muốt như chưa từng có điều gì trên đời làm nhơ được chúng.”
“Rồi cô ấy đi đâu?” – Helmys hỏi, không vì tò mò, mà như một phản xạ thường tình của người luôn chờ những câu chuyện đến để được lắng nghe.
"Đã lâu lắm rồi…từ cái hồi mà Marseille còn là trung tâm cách mạng của vùng này ấy, dòng họ De Laucier đã trở thành nạn nhân chính trị của cách mạng Pháp, họ bị tước ruộng đất, địa vị và cả những đặc quyền chỉ có của giới quý tộc, hay tệ hơn nữa là bị xử tử. Vì vậy mà cô út đã theo chân cha trốn tới Alsace - một vùng nằm ở phía Đông Bắc nước Pháp…tự đó đến nay đã gần 40 năm rồi."
Ông lão ngồi xuống bậc thềm bên khung cửa, tay lần lần tách trà đã sứt quai, đôi mắt xanh già cỗi đung đưa qua màn mưa mang theo một chút gì sâu sắc mà đượm buồn: " Lâu đài này từng có người. Không phải quý tộc hay hầu gái mà là những người lữ khách ghé ngang. Có người chỉ ở một đêm, nhưng để lại cả mùi hương, cũng có người bầu bạn với ta suốt cả ngày nhưng khi rời đi chẳng ai buồn tiếc nuối, rồi thì cũng có kẻ vì tò mò mà tới đến khiteau Silencieux nằm ở rìa vùng Provence, giữa những đồng hoa Oải Hương với sắc màu tím gần như đã trôi đi hết theo làn gió mùa Thu, và những bụi cây Hương Thảo chẳng còn gợi chút gì chữa lành mà chỉ toàn một mảng kí ức sắp lụi tàn.
Từ ngày dòng họ De Laucier bị cuốn trôi trong hỗn mang Cách mạng, nơi ấy không còn ai sống – chỉ có tháp chuông vẫn đứng đó, cao vút như một lời phủ nhận sự lãng quên. Người dân quanh vùng gọi nơi này là “Lâu đài Lặng Im”, bởi hơn trăm năm qua, chuông chưa từng ngân. Nhưng mỗi khi trăng non, vẫn có kẻ nghe thấy một tiếng rung rất khẽ, như vọng từ trong đá.
Helmys đến vào một ngày mưa. Từng giọt nước bay nghiêng trong gió, đậu lên khuôn mặt đã sạm nắng đường xa. Chiếc áo choàng nâu sậm chẳng còn mới, lấm tấm bùn đất, vướng vào những bụi oải hương nở muộn bên lối mòn đá vụn. Bên hông chàng, cuốn sổ tay buộc bằng dây gai rung khẽ theo từng bước chân – như đang thì thầm với gió những điều đã ghi, hoặc còn chờ được viết.
Khi leo lên bậc thềm đá lạnh, chàng gặp một ông lão tóc bạc như khói, tay cầm một mảnh giấy lụa từng là chiếc khăn tay của tiểu thư quý tộc xua kia.
"Cháu đến trú mưa nhỉ?"
Ông hỏi, giọng khàn đặc đúng như dư vị của tuổi già, nhưng trong chất giọng ấy lại không hề có gì là run rẩy, hay quên đi sự cường tráng trước kia của bản thân.
Helmys mỉm cười, lắc đầu:
"Không phải trú mưa cho cháu mà là cho bầy cừu kia." - Chàng chỉ tay về phía những con thú với bộ lông trắng đã đượm một màu đất, chúng rụt rè, co người vào nhau phía trong căn biệt thự đã bám đầy rêu xanh và nhìn như chực chờ sụp đổ.
Ông lão ngó đàn cừu một lúc, rồi gật gù – chẳng phải để tỏ vẻ thấu hiểu cho những con vật đang cơ nhỡ, mà như đang hồi tưởng một điều đã cũ lắm.
“Chúng không phải là sinh vật đầu tiên trú ở đây,” ông chậm rãi nói, mắt không nhìn Helmys mà nhìn về tháp chuông đổ bóng, "Ngày xưa, cũng từng có một đàn thiên nga. Cô tiểu thư út nuôi chúng, cứ mỗi chiều lại ra đọc sách dưới gốc phong, còn chúng thì bơi quanh hồ, trắng muốt như chưa từng có điều gì trên đời làm nhơ được chúng.”
“Rồi cô ấy đi đâu?” – Helmys hỏi, không vì tò mò, mà như một phản xạ thường tình của người luôn chờ những câu chuyện đến để được lắng nghe.
"Đã lâu lắm rồi…từ cái hồi mà Marseille còn là trung tâm cách mạng của vùng này ấy, dòng họ De Laucier đã trở thành nạn nhân chính trị của cách mạng Pháp, họ bị tước ruộng đất, địa vị và cả những đặc quyền chỉ có của giới quý tộc, hay tệ hơn nữa là bị xử tử. Vì vậy mà cô út đã theo chân cha trốn tới Alsace - một vùng nằm ở phía Đông Bắc nước Pháp…tự đó đến nay đã gần 40 năm rồi."
Ông lão ngồi xuống bậc thềm bên khung cửa, tay lần lần tách trà đã sứt quai, đôi mắt xanh già cỗi đung đưa qua màn mưa mang theo một chút gì sâu sắc mà đượm buồn:
" Lâu đài này từng có người. Không phải quý tộc hay hầu gái mà là những người lữ khách ghé ngang. Có người chỉ ở một đêm, nhưng để lại cả mùi hương, cũng có người bầu bạn với ta suốt cả ngày nhưng khi rời đi chẳng ai buồn tiếc nuối, rồi thì cũng có kẻ vì tò mò mà tới đến khi nhận ra mình chẳng hiểu gì, lại đi rất vội – như thể sợ sẽ để lại chính mình ở đây.”
Ông lão mỉm cười, nhấc tách trà đã nguội khỏi tay rồi nhìn về phía cửa sổ, nơi những sợi mưa mảnh như chỉ bạc vẫn đang rơi chậm:
“Ta nhớ một cô gái – tóc đen, mặt nhỏ, hay ngồi bệt dưới chân tháp chuông mà vẽ. Cô ấy vẽ rất nhanh cứ như là một họa sĩ thật thụ vậy, nhưng lại chẳng bao giờ tô màu. Ta từng hỏi, vì sao để tranh dở? Cô bảo: "Vì nếu hoàn thiện, nó sẽ không còn giống thứ tôi thấy lúc ban đầu nữa." "
Ông dừng lại một lát. Như thể những lời sắp nói đã trôi đâu mất trong những nếp gấp của ký ức cũ kỹ. Tiếng mưa bên ngoài đã mỏng dần, chỉ còn đọng lại trên bậu cửa vài giọt rơi thưa thớt – như thể trời cũng đang mỏi mệt, chẳng còn sức để khóc cho tròn một cơn buồn.
“Có người chỉ để lại một tiếng cười. Có người để lại một cái tên viết dở trên mặt bàn gỗ. Nhưng tất cả đều là người – người thật, không phải bóng ma. Và ta nhớ họ… không vì họ đặc biệt, mà vì họ từng thật lòng tồn tại nơi này, dù chỉ một chút thôi.”
Rồi ông nhìn Helmys, giọng nhẹ như một câu đố không cần lời giải:
“Còn cậu? Cậu sẽ để lại gì?”
Helmys không trả lời, có lẽ bởi vì chính chàng cũng không biết bản thân sẽ thực sự để lại gì. Chỉ đơn giản là lẳng lặng nhìn vào bức tường đã lốm đốm rêu xanh, nơi một dòng chữ mờ nhạt ai đó từng khắc bằng dao nhỏ: Je suis passé ici – “Tôi đã từng ghé qua nơi này.”
Ông lão nhìn theo ánh mắt Helmys, rồi khẽ bật cười – một tiếng cười mơ hồ giữa bụi thời gian.
"Ta không còn nhớ ai đã viết câu đó, thời gian trôi qua mau lắm, kéo theo nhiều người tới thăm lắm, Có người dừng chân chỉ một buổi, có người ở đủ lâu để nghe hết ba hồi chuông tưởng tượng ta kể. Nhưng dẫu là ai, họ cũng đều đi. Câu chữ ấy là lời thật lòng nhất ta từng thấy nơi lâu đài này.”
Helmys không đáp. Nhưng trong mắt chàng, có một điều gì đó dịu lại. Như thể chính dòng chữ đơn sơ ấy đã nói hộ điều chàng chưa kịp hiểu, rằng không phải ai cũng để lại một tiếng vang lớn, rằng có đôi khi, chỉ cần để lại một chút tồn tại là đủ.
Trời đã ngừng mưa hẳn.
Ông lão ngồi xuống bên ngưỡng cửa, nơi cơn mưa đã thôi gõ nhịp lên mái ngói xưa. Nhìn Helmys thắt lại dây cuốn sổ tay, ông hỏi khẽ:
"Cậu sẽ rời đi vào sáng mai à?"
Helmys gật đầu.
Một lúc sau, ông lão lại hỏi, giọng chậm rãi mà điềm nhiên:
"Cậu nghĩ tại sao người ta ghé qua rồi lại nhớ mãi một nơi chỉ toàn gió và đá…như nơi này?"
Helmys siết chặt cuốn sổ da dày trong tay, mùi hương của hoa Oải Hương từ khung cửa sổ lùa vào một hương vị mới - hương vị mới mẻ còn đượm cả tiếng mưa.
"Có thể là vì đây vốn là một biệt thự từng rất tráng lệ, bản chất con người là loài thích thuần hóa nhưng sâu bên trong vẫn mang điệu hoang dạivùng Provence, giữa những đồng hoa Oải Hương với sắc màu tím gần như đã trôi đi hết theo làn gió mùa Thu, và những bụi cây Hương Thảo chẳng còn gợi chút gì chữa lành mà chỉ toàn một mảng kí ức sắp lụi tàn.
Từ ngày dòng họ De Laucier bị cuốn trôi trong hỗn mang Cách mạng, nơi ấy không còn ai sống – chỉ có tháp chuông vẫn đứng đó, cao vút như một lời phủ nhận sự lãng quên. Người dân quanh vùng gọi nơi này là “Lâu đài Lặng Im”, bởi hơn bốn thập kỉ qua, chuông chưa từng ngân. Nhưng mỗi khi trăng non, vẫn có kẻ nghe thấy một tiếng rung rất khẽ, như vọng từ trong đá.
Helmys đến vào một ngày mưa. Từng giọt nước bay nghiêng trong gió, đậu lên khuôn mặt đã sạm nắng đường xa. Chiếc áo choàng nâu sậm chẳng còn mới, lấm tấm bùn đất, vướng vào những bụi oải hương nở muộn bên lối mòn đá vụn. Bên hông chàng, cuốn sổ tay buộc bằng dây gai rung khẽ theo từng bước chân – như đang thì thầm với gió những điều đã ghi, hoặc còn chờ được viết.
Khi leo lên bậc thềm đá lạnh, chàng gặp một ông lão tóc bạc như khói, tay cầm một mảnh giấy lụa từng là chiếc khăn tay của tiểu thư quý tộc xua kia.
"Cháu đến trú mưa nhỉ?"
Ông hỏi, giọng khàn đặc đúng như dư vị của tuổi già, nhưng trong chất giọng ấy lại không hề có gì là run rẩy, hay quên đi sự cường tráng trước kia của bản thân.
Helmys mỉm cười, lắc đầu:
"Không phải trú mưa cho cháu mà là cho bầy cừu kia." - Chàng chỉ tay về phía những con thú với bộ lông trắng đã đượm một màu đất, chúng rụt rè, co người vào nhau phía trong căn biệt thự đã bám đầy rêu xanh và nhìn như chực chờ sụp đổ.
Ông lão ngó đàn cừu một lúc, rồi gật gù – chẳng phải để tỏ vẻ thấu hiểu cho những con vật đang cơ nhỡ, mà như đang hồi tưởng một điều đã cũ lắm.
“Chúng không phải là sinh vật đầu tiên trú ở đây,” ông chậm rãi nói, mắt không nhìn Helmys mà nhìn về tháp chuông đổ bóng, “Ngày xưa, cũng từng có một đàn thiên nga. Cô tiểu thư út nuôi chúng, cứ mỗi chiều lại ra đọc sách dưới gốc phong, còn chúng thì bơi quanh hồ, trắng muốt như chưa từng có điều gì trên đời làm nhơ được chúng.”
“Rồi cô ấy đi đâu?” – Helmys hỏi, không vì tò mò, mà như một phản xạ thường tình của người luôn chờ những câu chuyện đến để được lắng nghe.
"Đã lâu lắm rồi…từ cái hồi mà Marseille còn là trung tâm cách mạng của vùng này ấy, dòng họ De Laucier đã trở thành nạn nhân chính trị của cách mạng Pháp, họ bị tước ruộng đất, địa vị và cả những đặc quyền chỉ có của giới quý tộc, hay tệ hơn nữa là bị xử tử. Vì vậy mà cô út đã theo chân cha trốn tới Alsace - một vùng nằm ở phía Đông Bắc nước Pháp…tự đó đến nay đã gần 40 năm rồi."
Ông lão ngồi xuống bậc thềm bên khung cửa, tay lần lần tách trà đã sứt quai, đôi mắt xanh già cỗi đung đưa qua màn mưa mang theo một chút gì sâu sắc mà đượm buồn:
" Lâu đài này từng có người. Không phải quý tộc hay hầu gái mà là những người lữ khách ghé ngang. Có người chỉ ở một đêm, nhưng để lại cả mùi hương, cũng có người bầu bạn với ta suốt cả ngày nhưng khi rời đi chẳng ai buồn tiếc nuối, rồi thì cũng có kẻ vì tò mò mà tới đến khiteau Silencieux nằm ở rìa vùng Provence, giữa những đồng hoa Oải Hương với sắc màu tím gần như đã trôi đi hết theo làn gió mùa Thu, và những bụi cây Hương Thảo chẳng còn gợi chút gì chữa lành mà chỉ toàn một mảng kí ức sắp lụi tàn.
Từ ngày dòng họ De Laucier bị cuốn trôi trong hỗn mang Cách mạng, nơi ấy không còn ai sống – chỉ có tháp chuông vẫn đứng đó, cao vút như một lời phủ nhận sự lãng quên. Người dân quanh vùng gọi nơi này là “Lâu đài Lặng Im”, bởi hơn trăm năm qua, chuông chưa từng ngân. Nhưng mỗi khi trăng non, vẫn có kẻ nghe thấy một tiếng rung rất khẽ, như vọng từ trong đá.
Helmys đến vào một ngày mưa. Từng giọt nước bay nghiêng trong gió, đậu lên khuôn mặt đã sạm nắng đường xa. Chiếc áo choàng nâu sậm chẳng còn mới, lấm tấm bùn đất, vướng vào những bụi oải hương nở muộn bên lối mòn đá vụn. Bên hông chàng, cuốn sổ tay buộc bằng dây gai rung khẽ theo từng bước chân – như đang thì thầm với gió những điều đã ghi, hoặc còn chờ được viết.
Khi leo lên bậc thềm đá lạnh, chàng gặp một ông lão tóc bạc như khói, tay cầm một mảnh giấy lụa từng là chiếc khăn tay của tiểu thư quý tộc xua kia.
"Cháu đến trú mưa nhỉ?"
Ông hỏi, giọng khàn đặc đúng như dư vị của tuổi già, nhưng trong chất giọng ấy lại không hề có gì là run rẩy, hay quên đi sự cường tráng trước kia của bản thân.
Helmys mỉm cười, lắc đầu:
"Không phải trú mưa cho cháu mà là cho bầy cừu kia." - Chàng chỉ tay về phía những con thú với bộ lông trắng đã đượm một màu đất, chúng rụt rè, co người vào nhau phía trong căn biệt thự đã bám đầy rêu xanh và nhìn như chực chờ sụp đổ.
Ông lão ngó đàn cừu một lúc, rồi gật gù – chẳng phải để tỏ vẻ thấu hiểu cho những con vật đang cơ nhỡ, mà như đang hồi tưởng một điều đã cũ lắm.
“Chúng không phải là sinh vật đầu tiên trú ở đây,” ông chậm rãi nói, mắt không nhìn Helmys mà nhìn về tháp chuông đổ bóng, "Ngày xưa, cũng từng có một đàn thiên nga. Cô tiểu thư út nuôi chúng, cứ mỗi chiều lại ra đọc sách dưới gốc phong, còn chúng thì bơi quanh hồ, trắng muốt như chưa từng có điều gì trên đời làm nhơ được chúng.”
“Rồi cô ấy đi đâu?” – Helmys hỏi, không vì tò mò, mà như một phản xạ thường tình của người luôn chờ những câu chuyện đến để được lắng nghe.
"Đã lâu lắm rồi…từ cái hồi mà Marseille còn là trung tâm cách mạng của vùng này ấy, dòng họ De Laucier đã trở thành nạn nhân chính trị của cách mạng Pháp, họ bị tước ruộng đất, địa vị và cả những đặc quyền chỉ có của giới quý tộc, hay tệ hơn nữa là bị xử tử. Vì vậy mà cô út đã theo chân cha trốn tới Alsace - một vùng nằm ở phía Đông Bắc nước Pháp…tự đó đến nay đã gần 40 năm rồi."
Ông lão ngồi xuống bậc thềm bên khung cửa, tay lần lần tách trà đã sứt quai, đôi mắt xanh già cỗi đung đưa qua màn mưa mang theo một chút gì sâu sắc mà đượm buồn:
" Lâu đài này từng có người. Không phải quý tộc hay hầu gái mà là những người lữ khách ghé ngang. Có người chỉ ở một đêm, nhưng để lại cả mùi hương, cũng có người bầu bạn với ta suốt cả ngày nhưng khi rời đi chẳng ai buồn tiếc nuối, rồi thì cũng có kẻ vì tò mò mà tới đến khi nhận ra mình chẳng hiểu gì, lại đi rất vội – như thể sợ sẽ để lại chính mình ở đây.”
Ông lão mỉm cười, nhấc tách trà đã nguội khỏi tay rồi nhìn về phía cửa sổ, nơi những sợi mưa mảnh như chỉ bạc vẫn đang rơi chậm:
“Ta nhớ một cô gái – tóc đen, mặt nhỏ, hay ngồi bệt dưới chân tháp chuông mà vẽ. Cô ấy vẽ rất nhanh cứ như là một họa sĩ thật thụ vậy, nhưng lại chẳng bao giờ tô màu. Ta từng hỏi, vì sao để tranh dở? Cô bảo: "Vì nếu hoàn thiện, nó sẽ không còn giống thứ tôi thấy lúc ban đầu nữa." "
Ông dừng lại một lát. Như thể những lời sắp nói đã trôi đâu mất trong những nếp gấp của ký ức cũ kỹ. Tiếng mưa bên ngoài đã mỏng dần, chỉ còn đọng lại trên bậu cửa vài giọt rơi thưa thớt – như thể trời cũng đang mỏi mệt, chẳng còn sức để khóc cho tròn một cơn buồn.
“Có người chỉ để lại một tiếng cười. Có người để lại một cái tên viết dở trên mặt bàn gỗ. Nhưng tất cả đều là người – người thật, không phải bóng ma. Và ta nhớ họ… không vì họ đặc biệt, mà vì họ từng thật lòng tồn tại nơi này, dù chỉ một chút thôi.”
Rồi ông nhìn Helmys, giọng nhẹ như một câu đố không cần lời giải:
“Còn cậu? Cậu sẽ để lại gì?”
Helmys không trả lời, có lẽ bởi vì chính chàng cũng không biết bản thân sẽ thực sự để lại gì. Chỉ đơn giản là lẳng lặng nhìn vào bức tường đã lốm đốm rêu xanh, nơi một dòng chữ mờ nhạt ai đó từng khắc bằng dao nhỏ: Je suis passé ici – “Tôi đã từng ghé qua nơi này.”
Ông lão nhìn theo ánh mắt Helmys, rồi khẽ bật cười – một tiếng cười mơ hồ giữa bụi thời gian.
"Ta không còn nhớ ai đã viết câu đó, thời gian trôi qua mau lắm, và cũng kéo theo nhiều người tới thăm. Có người dừng chân chỉ một buổi, có người ở đủ lâu để nghe hết ba hồi chuông tưởng tượng ta kể. Nhưng dẫu là ai, họ cũng đều đi. Câu chữ ấy là lời thật lòng nhất ta từng thấy nơi lâu đài này.”
Helmys không đáp. Nhưng trong mắt chàng, có một điều gì đó dịu lại. Như thể chính dòng chữ đơn sơ ấy đã nói hộ điều chàng chưa kịp hiểu, rằng không phải ai cũng để lại một tiếng vang lớn, rằng có đôi khi, chỉ cần để lại một chút tồn tại là đủ.
Trời đã ngừng mưa hẳn.
Tháp chuông
Tháp chuông
Ông lão ngồi xuống bên ngưỡng cửa, nơi cơn mưa đã thôi gõ nhịp lên mái ngói xưa. Nhìn Helmys thắt lại dây cuốn sổ tay, ông hỏi khẽ:
"Cậu sẽ rời đi vào sáng mai à?"
Helmys gật đầu.
Một lúc sau, ông lão lại hỏi, giọng chậm rãi mà điềm nhiên:
"Cậu nghĩ tại sao người ta ghé qua rồi lại nhớ mãi một nơi chỉ toàn gió và đá…như nơi này?"
Helmys siết chặt cuốn sổ da dày trong tay, mùi hương của hoa Oải Hương từ khung cửa sổ lùa vào một hương vị mới - hương vị mới mẻ còn đượm cả tiếng mưa.
"Có lẽ vì đây vốn dĩ là một biệt thự từng rất tráng lệ…Bởi con người quá phức tạp, nên đôi khi họ rời bỏ những điều đẹp đẽ nhất… để rồi phải đợi một tâm hồn khác quay lại và nhặt chúng lên. Vì gia đình De Laucier rời đi, nên nơi này mới còn đó – như một vết tích để ai đó sau này lắng lại và biết trân quý điều từng hiện hữu." - Rồi chàng ngước mặt lên, lần đầu tiên nhìn thẳng vào đôi mắt người đánh chuông - "Và còn bởi lẽ… khi ở đây người ta không cần phải để lại gì mà vẫn được người khác nhớ đến."
Người đánh chuông khẽ cười, không vội đáp. Chỉ quay mặt về phía tháp chuông im lặng, giọng ông như một làn khói tan trong gió:
"Trăng sáng, vì mặt trời rọi mà sáng…ta nhớ, vì họ cũng không quên nên nhớ…thế thôi"
Dưới ánh trăng mỏng như tờ lụa cũ, ông lão ngồi lặng bên khung cửa, tay vẫn đặt trên mặt bàn gỗ xước. Không buồn, cũng chẳng vui — chỉ có thứ cảm giác mơ hồ như thể ai đó vừa rời đi, và một phần trong ông… vẫn còn ở lại để chờ. Không phải vì hy vọng, mà vì thói quen của một trái tim từng quen có người để nhớ.