Vyshyvanka, kiến trúc Cossacks Baroque và hoa thuốc phiện
Vyshyvanka, kiến trúc Cossacks Baroque và hoa thuốc phiện

1) Dân tộc Ukraine chưa từng tồn tại? Người Ukraine chiến đấu vô nghĩa? Ukraine bị xâm lược là xứng đáng?

Cho đến nay, các bài viết bằng tiếng Việt về lịch sử Ukraine trên mạng xã hội hầu hết đều thiếu sót những phần quan trọng nhất. Phần còn lại chủ yếu là nội dung tuyên truyền từ phía ủng hộ Nga (thực chất là dịch từ truyền thông Nga). Còn đối với văn hóa Ukraine, tuyệt nhiên không có bất kì bài viết nào.
Hiếm có một dân tộc nào có lịch sử và văn hóa bị hiểu lầm nhiều như người Ukraine. Sự hiểu lầm này đến từ hai nguyên nhân chính. Thứ nhất là sau khi thôn tính Ukraine vào năm 1708, giới cầm quyền và trí thức đế quốc Nga đã dành 300 năm tìm cách kiểm duyệt và uốn nắn lại sử sách để củng cố "phiên bản" lịch sử do họ tạo ra. Hệ quả là một bộ phận giới học thuật phương Tây sau này trích dẫn lại đúng những tư liệu đã bị bóp méo bởi người Nga. "Truyền thống" này được tiếp nối bởi Liên Xô-vốn muốn tạo ra một nền văn hóa Nga hóa đại đồng. Nền văn hóa và tri thức Ukraine hoặc bị vùi dập bởi áp bức từ các nước đế quốc xung quanh, hoặc bị gán ghép là một phần của di sản Nga (Liên Xô coi dân tộc Ukraine là biểu hiện cho "sự đa dạng văn hóa của các dân tộc Nga").
Điều này dẫn đến nguyên nhân thứ hai, đó là người Ukraine không có tiếng nói cũng như ảnh hưởng văn hóa trên trường quốc tế. Nền văn học, hội họa, kiến trúc, thẩm mĩ, âm nhạc Ukraine-đặc biệt là âm nhạc dân tộc-đều có tầm vóc lớn, thuộc hàng đứng đầu thế giới về độ đa dạng và phong phú, song lại không được biết đến rộng rãi. Chớ trêu thay là chính hiểu biết về văn hóa và lịch sử Ukraine mới là chìa khóa để lý giải các biến động chính trị xã hội của dân tộc này. Bởi, văn hóa Ukraine chứa đựng căn tính chính trị-dân tộc rất mạnh. Lý do tại sao chúng ta sẽ tìm hiểu ở phần sau.
Người Ukraine không phải một dân tộc đơn thuần theo khái niệm sắc tộc, mà là sản phẩm bồi đắp của một quá trình lịch sử-văn hóa lâu dài. Trong phần này, ta sẽ trả lời các câu hỏi trên bằng việc khám phá lịch sử của Ukraine.
a) Phần 1: Thời đại sơ kì
Nguồn gốc sơ khởi về căn tính của dân tộc Ukraine ngày nay xuất phát từ cộng đồng người Slav cư ngụ tại phía nam Belarus, Ba Lan và phía Tây-Bắc Ukraine ngày nay-tương ứng với vùng Ruthenia Đỏ và Polesia. Tây phương sau này gọi họ là người Ruthenia hay chỉ đơn thuần là "Rus". Tuy nhiên, muốn hiểu được sự hình thành của dân tộc Ukraine sau này thì không thể không nhắc tới Vương quốc Halych–Volhynia tại Ruthenia Đỏ.
Phù hiệu áo giáp của Công quốc Lithuania và Halych–Volhynia
Phù hiệu áo giáp của Công quốc Lithuania và Halych–Volhynia
Năm 1238, Danylo Romanovych-con trai của Roman Kẻ vĩ đại-đã đánh bại người Hungary, Ba Lan và hội hiệp sĩ Teuton, thống nhất công quốc Halych–Volhynia, lập nên thiết chế nhà nước đầu tiên có ảnh hưởng rộng khắp của người Ruthenia. Quân đội của Danylo sau đó chiếm thành Kyiv vào năm 1939-đúng một năm trước khi đạo quân Mông Cổ của Hãn Bạt Đô phá hủy thành phố. Đây mới chính là lý do người Ruthenia và Ukraine sau này coi họ có quyền kế thừa di sản của Kyivan Rus-vì họ là những người cuối cùng cai trị Công quốc Kyiv.
Phù hiệu áo giáp của Halych–Volhynia: sư tử Ruthenia trên nền vàng và xanh dương-nguồn gốc của màu quốc kì Ukraine sau này.
Phù hiệu áo giáp của Halych–Volhynia: sư tử Ruthenia trên nền vàng và xanh dương-nguồn gốc của màu quốc kì Ukraine sau này.
Sau khi Kyiv bị Mông Cổ thôn tính, Danylo chấp nhận làm chư hầu cho Hãn quốc Kim Trướng, đồng thời vận dụng chính giai đoạn ôn hòa đó để xây dựng vương quốc Halych–Volhynia trở thành quốc gia hùng mạnh nhất tại Đông Âu trong 100 năm. Ông ta thiết lập lại quan hệ với các nước quân chủ Châu Âu như Hungaria, Balan và Lithuania, mở các tuyến đường giao thương nối giữa phương Đông và Tây. Năm 1245, giáo hoàng công nhận Danylo là "Rex Rusiae, Rex Ruthenorum, Rex Galiciae et Lodomeriae, Terrae Russiae Dominus et Heres"-"vua của Rus, vua của Ruthenia, vua của Halychia và Lodomeria, lãnh chúa và người thừa kế của các vùng đất Ruthenia"-Danylo Romanovych trở thành vị quân chủ duy nhất của vương triều Rurik chính thức xưng vương.
Mặc dù đây vẫn chưa phải thời kì quan trọng nhất trong lịch sử dân tộc Ukraine, giai đoạn này khẳng định nguồn gốc sâu xa và nguyên thủy của căn tính dân tộc xứ kim ngân hoa đỏ, đặc biệt là khi người Ukraine vẫn còn lưu giữ một lượng lớn di sản văn hóa mang dấu ấn từ thời trung cổ và cổ đại.
"З нами Бог"-bài thánh ca từng được cất lên tại trận đánh sông Kalka trước đại quân Mông Cô (gần thành phố Mariupol ngày nay)
Nhạc trung cổ
Psalm thời trung cổ
Lễ Malanka của người Ukraine, mang dấu ấn của Cổ giáo từ trước khi Thiên chúa giáo du nhập sang
Lễ Malanka của người Ukraine, mang dấu ấn của Cổ giáo từ trước khi Thiên chúa giáo du nhập sang
Lễ hội Ivana Kupala, gồm các nghi lễ của Cổ giáo, sau này được tổ chức cùng ngày lễ Thánh John
Lễ hội Ivana Kupala, gồm các nghi lễ của Cổ giáo, sau này được tổ chức cùng ngày lễ Thánh John
Một nét độc đáo của người Ukraine là, dù chịu ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo và nhà thờ, họ không hoàn toàn từ bỏ các phong tục của tôn giáo Slavic nguyên thủy, mà kết hợp những tập tục đó với các ngày lễ của Kito giáo để gìn giữ truyền thống tổ tiên để lại.
Video về Ivana Kupala
b) Phần 2: Sự chỗi dậy của nhà nước Ukraine đầu tiên
Từ năm 1340 đến 1392, vương quốc Halych–Volhynia xảy ra nội chiến, kéo theo sau là sự sụp đổ. Kết quả là vương quốc của người Ruthenia bị sáp nhập vào khối thịnh vượng chung Ba Lan-Lithuania. Giữa thế kỉ thứ 14-15, chính chế độ xã hội do người Ba Lan áp đặt sau đó, đặc biệt là chế độ nông nô do điền chủ-quý tộc Ba Lan cai quản (được gọi là "Filvarok"), đã khiến người Ruthenia dần di cư xuống phía Nam để tìm kiếm tự do. Ban đầu, lấy danh nghĩa giúp Ba Lan phòng thủ trước người Thổ, họ thiết lập hàng loạt khu định cư và đồn điền quân sự dọc biên giới Khối Thịnh vượng chung, rồi dần dà mở rộng khu vực sinh sống xa hơn xuống phía Đông và Nam, lập ra các cộng đồng tự do-gọi là "Sloboda". Họ được biết đến với một cái tên-Kozak-lần đầu được xuất hiện trong văn tự của người Cuman vào thế kỉ thứ 13. Vùng đất nằm ngoài hệ thống đồn bốt phòng thủ của khối thịnh vượng chung được gọi là "Dyke pole"-"Những thảo nguyên hoang dã". Sỡ dĩ chúng ít người ở không phải vì điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, mà bởi những cuộc đột kích thường xuyên của các bộ lạc du mục từ phương nam, đặc biệt là người Tatar Qirim đã biến phần lớn Ukraine ngày nay thành một bãi chiến trường.
 "Kị sĩ Cossacks trên thảo nguyên", tranh của danh họa người Ukraine Mykola Ivasyuk (1865–1937)
"Kị sĩ Cossacks trên thảo nguyên", tranh của danh họa người Ukraine Mykola Ivasyuk (1865–1937)
Tự do cũng có cái giá của nó. Người Tatar tại Qirim và người Thổ cướp phá các cộng đồng Kozak lấy gia súc, bắt người làm con tin đòi tiền chuộc hoặc làm nô lệ. Riêng từ năm 1450 đến năm 1586 sử sách đã ghi nhận 86 chiến dịch càn quét lớn nhỏ của người Tatar. Đây chính là chất xúc tác giúp hình thành nên ý thức dân tộc Ukraine hiện đại. Xuất phát từ nhu cầu sinh tồn-tự vệ trước các cuộc tấn công của kẻ địch, người Kozak đã tự trang bị vũ khí và thành lập các đơn vị dân quân. Nhờ đó các lực lượng "horodovi kozaky"-"Kozak làng" ra đời, ban đầu được tổ chức bởi thành viên giới quý tộc: ở Cherkasy có Ostafii Dashkevych, ở Khmilnyk có Przecław Lanckoroński, ở Bar có Bernard Pretwicz-Samuel Zborowski,...và nổi bật nhất là Thái tử Dmytro Vyshnevetsky hay còn được gọi trong dân gian Ukraine là Kozak "Bayda". Để phòng thủ trước địch quân, người Kozak Ukraina sống thành các thị trấn được bao quanh bởi tường hào, công sự được gọi là "Sich", trong mỗi Sich đều có hệ thống luật lệ/hành chính, đơn vị quân đội, trường học, kho quân khí,... Các Sich này liên kết với nhau tạo thành một lực lượng chính trị-quân sự mới, lớn mạnh-đó chính là Vùng đất tự do của Quân đoàn Zaporizhzhia Hạ, hay còn được gọi là Zaporizhzhian Sich. Lực lượng này đặt trung tâm chính trị-quân sự tại một Sich trung tâm (Sich này bị phá hủy và xây lại nhiều lần ở nhiều vị trí khác nhau), chia các khu vực địa lý họ cai quản thành các Kurin. Kết quả là, họ không chỉ có khả năng đẩy lui các cuộc tấn công của người Tatar mà còn phản công truy sát chúng đến tận Qirim và xa hơn thế. Quyền lực của giới quý tộc starosta yếu dần đi và người Kozak bắt đầu bầu ra người lãnh đạo của mỗi Sich/Kurin và mỗi quân đoàn Kozak bằng phương pháp...bỏ phiếu dân chủ. Những người lãnh đạo này được gọi là các Otaman. Trong các chiến dịch quân sự, người chỉ huy nếu không được bầu hoặc không được bổ nhiệm vởi Hetman sẽ được gọi là "Otaman tạm quyền". Đứng đầu Zaporizhzhian Sich là một Hetman-có thể được bầu bởi một hội đồng bô lão Kozak, hoặc một "hội đồng đen" gồm cả các bô lão và các Kozak cấp dưới.
Bayda
Bayda
Ivan Pidkova
Ivan Pidkova
Sich
Sich
Giới cầm quyền Ba Lan xem người Kozak là lực lượng thiết yếu để bảo vệ biên giới phía Nam, nhưng đồng thời cũng nhận ra họ có thể trở thành mối đe dọa đối với quyền lực của mình. Vì vậy, Ba Lan vừa tìm cách lợi dụng sức mạnh quân sự của Kozak, vừa áp đặt những biện pháp kiểm soát chặt chẽ để kiềm chế ảnh hưởng của họ. Chính quyền Ba Lan đặt ra hệ thống "Kozak đăng ký" ("reiestrovi kozaky") nhằm giới hạn số lượng Kozak chính thức, đồng thời tìm cách biến họ thành lực lượng phụ thuộc bằng cách cắt giảm đặc quyền và hạn chế quyền tự do của họ. Tuy nhiên, do tính khốc liệt của những cuộc chiến tranh giữa Khối thịnh vượng chung và Ottoman, Muskovy, Thụy Điển, người Ba Lan bắt đầu trao cho đạo quân Kozak Ukraine nhiều quyền tự trị hơn, đặc biệt là từ sau năm 1578. Dần dà, người Kozak bắt đầu thực thi các quyết sách đối ngoại của riêng họ, độc lập khỏi khối thịnh vượng chung.
Từ cuối thể kỉ thứ 16 đến đầu thế kỉ 17, người Kozak Ukraine trở nên đặc biệt hùng mạnh. Không những có thể tham chiến dưới trướng khối thịnh vượng chung với tư cách là nước chư hầu, người Kozak còn hoạt động khắp Châu Âu như một đạo quân đánh thuê, hoặc mở các chiến dịch quân sự riêng nhắm vào người Tatar và đế quốc Ottoman, thậm chí còn thành lập liên minh và kí kết các hiệp định với nước ngoài. Người Kozak tự phong họ là "hiệp sĩ" ("rytsari"), lấy biểu tượng thập tự chịu ảnh hưởng từ hội hiệp sĩ Malta (từng chiến đấu cùng người Kozak chống lại quân Thổ) làm biểu tượng của người Kozak. Từ đó, "chữ thập Kozak" ra đời. Hiện nay khắp lãnh thổ Ukraine vẫn còn vô số ngôi mộ cổ có bia mộ là những chữ thập Kozak bằng đá.
Những chiến thắng của Kozak Ukraine vào nửa đầu thế kỉ 17, đặc biệt là dưới thời Hetman Petro Konashevych-Sahaidachny đã khiến danh tiếng lẫy lừng của Kozak-quốc lan rộng khắp Châu Âu. Trong văn hóa dân gian Ukraine, niềm kiêu hãnh đó được gọi là "Vinh quang Kozak". Petro Sahaidachny-một thầy giáo tại Kyiv-đã lãnh đạo đội quân Kozak vượt biển Đen tới đốt phá thành phố Istanbul không phải một mà là hai lần, đánh chìm hạm đội chiến thuyền của Thổ Nhĩ Kì, đánh bại quân đội trên bộ của Sa hoàng Muskovy, tiến vào Moskva, chiếm thành Kaluga, vây điện Kremlin. Mặc dù ban đầu xuất hiện chỉ nhằm mục đích sinh tồn, Kozak Ukraine đã dần trở lên giàu có từ chiến lợi phẩm và hoạt động giao thương, sở hữu điền trang và cai trị những thành thị lớn với hàng chục ngàn người. Những huyền thoại về các vị anh hùng Kozak dần hóa thành điển tích, điển cố thấm sâu vào văn hóa dân gian Ukraine. Những bài hát dân ca kể về họ vẫn được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác tới tận ngày nay.
Cờ Zaporizhzhian Sich
Cờ Zaporizhzhian Sich
Mộ Kozak tại Cherkasy
Mộ Kozak tại Cherkasy
Mộ nữ anh hùng Kozak Olena Zavysna. Pháo đài của chồng thất thủ trước quân địch, chồng bị giết trong chiến đấu, bà đã tự tay châm lửa làm nổ tung kho thuốc súng, hi sinh để tiêu diệt địch.
Mộ nữ anh hùng Kozak Olena Zavysna. Pháo đài của chồng thất thủ trước quân địch, chồng bị giết trong chiến đấu, bà đã tự tay châm lửa làm nổ tung kho thuốc súng, hi sinh để tiêu diệt địch.
Người Kozak Ukraine chiến đấu cùng người Pháp trong trận Dunkirk 1645
Người Kozak Ukraine chiến đấu cùng người Pháp trong trận Dunkirk 1645
Hải quân của Hetman Sahaidachny tấn công thành Kaffa tại Qirim
Hải quân của Hetman Sahaidachny tấn công thành Kaffa tại Qirim
"Trận chiến giữa Kozak và Tatar", tranh của Jozef Brandt
"Trận chiến giữa Kozak và Tatar", tranh của Jozef Brandt
Tượng đài của người Kozak Ukraine tại Vienna, Áo (Người Kozak chiến đấu trong trận Vienna 1683 chống lại đế quốc Ottoman)
Tượng đài của người Kozak Ukraine tại Vienna, Áo (Người Kozak chiến đấu trong trận Vienna 1683 chống lại đế quốc Ottoman)
Tượng đài Hetman Sahaidachny tại Kyiv
Tượng đài Hetman Sahaidachny tại Kyiv
Chaika và Baidak-hai loại thuyền chiến của người Kozak Ukraine
Chaika và Baidak-hai loại thuyền chiến của người Kozak Ukraine
Kozak Mamay-một loại tranh dân gian được treo trong nhà của người Ukraine thời xưa.
Kozak Mamay-một loại tranh dân gian được treo trong nhà của người Ukraine thời xưa.
Bài thơ ngợi ca người Kozak Ukraine từ thời Baroque
"Hành khúc Zaporizhzhia"
c) Phần 3: Kozak Hetman quốc
Lãnh thổ Kozak tự trị càng mạnh lên, xung đột giữa người Ruthenia và người Ba Lan càng trở lên gay gắt, đặc biệt trong vấn đề địa vị xã hội và tôn giáo. Giới quý tộc Ba Lan và các gia tộc Rutheni bị đồng hóa tìm cách bành trướng ảnh hưởng của Công giáo và văn hóa Ba Lan vào lãnh thổ theo Chính thống giáo Đông phương, đồng thời đòi quyền sở hữu đất đai từ tay người Kozak và thường dân. Một loạt các cuộc khởi nghĩa nổ ra chống lại quý tộc Ba Lan, tiêu biểu là khởi nghĩa Kosinski (1593), khởi nghĩa Nalyvayko (1594-1596), khởi nghĩa Pavliuk (1637), khởi nghĩa Ostryanyn (1638).
Khởi nghĩa Nalyvayko (1594-1596)
Khởi nghĩa Nalyvayko (1594-1596)
Càng chịu sự đàn áp tàn bạo từ Ba Lan, ý chí độc lập của người Rutheni và Kozak qua các cuộc khởi nghĩa càng bừng lên mạnh mẽ hơn. Điều này dẫn tới một sự kiện mấu chốt, đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử dân tộc Ukraine. Đó là Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của Hetman Bohdan Zynoviy Mykhailovych Khmelnytsky.
Bohdan Zynoviy Mykhailovych Khmelnytsky
Bohdan Zynoviy Mykhailovych Khmelnytsky
Bohdan Khmelnytsky sinh ra trong một gia đình quý tộc Ruthenia cấp thấp ngự tại một điền trang ("khutir") tại Subotiv, Cherkasy. Ông theo học tại một trường thánh của tu sĩ Dòng Tên được thành lập bởi Hetman Żółkiewski tại Lviv, biết nói thành thạo tiếng Ruthenia, Ba Lan, Latinh, Thổ, Tatar và tiếng Pháp. Trong trận chiến tại Cecora với quân Thổ năm 1620, cha ông bị giết, còn Khmelnytsky bị địch bắt, trở thành nô lệ trên một tàu chiến Ottoman. Hai năm sau đó, ông được thả tự do nhờ tiền chuộc từ khối thinh vượng chung, trở về quê nhà tại Ukraine lập gia đình và trở thành một người Kozak "có đăng ký". Năm 1645, tên quý tộc Ba Lan Aleksander Koniecpolski và Daniel Czapliński bắt đầu tìm cách chiếm điền trang và đất đai của Khmelnytsky tại Subotiv. Mùa hè năm 1646, Khmelnytsky diện kiến vua Władysław IV để đòi lại quyền lợi. Vua Ba Lan ban cho ông một Hiến chương Vương thất và một thanh kiếm, xong không thể trả lại đất đai. Đầu năm 1647, Czapliński cho người đập phá dinh thự Khmelnytsky, đánh đập con trai ông và đuổi gia đình ông khỏi nhà. Tháng 5 năm 1647, Khmelnytsky quay lại diện kiến vua một lần nữa. Lần này, vua Ba Lan nói: "ngươi được ban cho thanh gươm rồi, còn muốn gì nữa?". Khmelnytsky tức giận bỏ về, tập hợp binh mã khởi nghĩa chống Ba Lan. Từ đó, dân gian Ukraine có câu "през шаблю маєм право", tức là "quyền lợi đến từ lưỡi gươm", chủ ý nhắc tới tích trên.
Khmelnytsky dẫn 300 binh mã Kozak đến Zaporizhzhian Sich và nhanh chóng tiêu diệt doanh trại quân đội Thịnh vượng chung gần đó. Người Kozak trong Sich lập tức ngả theo quân nổi dậy, bầu Khmelnytsky làm Hetman của Zaporizhzhian Sich. Nhân dân và Kozak khắp nơi cũng nhất tề đứng lên hưởng ứng. Ngọn lửa khởi nghĩa bùng lên khắp Ukraine. Vua Ba Lan nghe tin, vội phái 3 vạn quân xuống đàn áp cuộc khởi nghĩa. Để có đủ sức chống lại quân xâm lược, Khmelnytsky đã liên minh với kẻ thù không đội trời chung của người Kozak-chính là người Tatar Qirim. Khả hãn Islam-Girei III phái 40000 quân dưới sự chỉ huy của Tuhay-bei đến giúp Khmelnytsky, đánh dấu lần đầu tiên người Kozak và Tatar Qirim hợp sức chiến đấu vì Ukraine. Liên quân Kozak-Tatar đánh bại đạo quân Ba Lan trong trận Zhovti Vody (16/5/1648) và trận Korsun (26/5/1648). Hàng trăm trận đánh lớn nhỏ cũng nổ ra, tiêu biểu là chiến dịch của Otaman Maksym Kryvonis. Người Ba Lan trả thù bằng cách thảm sát người Ruthenia, bao gồm cả người già, phụ nữ, trẻ em. Người Kozak phản ứng lại bằng các giết người Do Thái-vốn lúc đó theo phe Ba Lan. Cuối mùa hè năm 1648, vua Ba Lan phái thêm 40000 quân xuống đánh Khmelnytsky nhưng một lần nữa lại bị đánh bại trong trận Pyliavtsi (23/9/1648). Thừa thắng, đạo quân của Khmelnytsky-lúc này đã lên tới hơn 100000 người-truy sát quân Ba Lan tới tận Lviv và sau đó là Zamość. Quân đội Kozak sau đó tiến vào thành Kyiv, lập nên nước Hetman quốc Kozak, suy tôn Khmelnytsky làm Hetman của Hetman quốc-nhà nước Ukraine đầu tiên ra đời. Trước phái đoàn Ba Lan, Khmelnytsky tự xưng người đứng đầu của Nhà nước Ruthenia.
"Khmelnytsky và Tuhay-bei tiến vào Lviv", tranh của Jan Matejko
"Khmelnytsky và Tuhay-bei tiến vào Lviv", tranh của Jan Matejko
"Khmelnytsky tiến vào Kyiv", tranh của Mykola Ivasyuk
"Khmelnytsky tiến vào Kyiv", tranh của Mykola Ivasyuk
Thanh gươm của Khmelnytsky, hiện là bảo vật quốc gia của Ukraine
Thanh gươm của Khmelnytsky, hiện là bảo vật quốc gia của Ukraine
"Гей не дивуйтесь добрії люди"-một bài dân ca yêu nước từ thời khởi nghĩa Khmelnytsky
Cờ Hetman quốc Kozak
Cờ Hetman quốc Kozak
Cờ soái của Bohdan Khmelnytsky
Cờ soái của Bohdan Khmelnytsky
Lược đồ trận Zhovti Vody
Lược đồ trận Zhovti Vody
Lược đồ trận Pyliavtsi
Lược đồ trận Pyliavtsi
d) Phần 4: Khmelnytsky-ngàn năm công tội
Năm 1649, vua Władysław IV Vasa thoái vị. John II Casimir Vasa lên làm vua của Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Lithuania, lại tiếp tục cất quân chia làm hai mũi tiến đánh Ukraine. Mũi thứ nhất tiến công vào Volhynia, mũi thứ hai tiến đánh Kyiv. Khmelnytsky dùng kế vây một phần đạo quân Ba Lan trong thành Zbarazh, buộc vua Casimir phải thân chinh đem 25000 quân chạy tới giải vây. Chớp thời cơ, Khmelnytsky bố trí phục binh dọc đường, bao vây được vua Ba Lan cùng một toán quân. Tưởng chừng như chiến thắng đã nằm trong tay người Kozak, thì bất ngờ, đồng minh Tatar phản bội. Lo sợ một Kozak quốc hùng mạnh nếu Ba Lan suy yếu, bọn chúng bất ngờ rút quân giữa lúc chiến sự đang đến hồi quyết định. Trước tình thế bất lợi, Khmelnytsky buộc phải chấp nhận đàm phán hòa bình, cho vua Ba Lan con đường thoát thân.
Giai đoạn tiếp theo của cuộc chiến kéo dài từ tháng Tám năm 1650 đến tháng Chín năm 1651. Hai phe bắt đầu tìm các cô lập lẫn nhau bằng ngoại giao: Ba Lan "cảnh báo" Muskovy về hiểm họa nếu Kozak quốc trở nên quá mạnh, đồng thời liên minh với Moldova, Khmelnytsky cải thiện quan hệ với Tatar và Ottoman. Nhằm thu phục Moldova, Khmelnytsky phái 5 vạn quân tiến xuống, buộc quốc vương Moldova phải thần phục và gả con gái cho con trai ông, Tymish Khmelnytsky. Lợi dụng đại quân Kozak đang tiến xuống Moldova, 5 vạn quân Ba Lan ồ ạt tiến đánh vùng Bratslav, gặp liên quân Kozak-Tatar tại Berestechko. Tại đây, Tuhay-bei tử trận, người Tatar một lần nữa giao thiệp ngầm với Ba Lan và phản bội Khmelnytsky, thậm chí còn bắt sống vị Hetman để đòi tiền chuộc. Người Kozak thua trận, thiệt hại nặng nề, bị quân Ba Lan truy sát đến tận trại cạnh bờ sông Styr. Giữa cơn hỗn chiến, Otaman Ivan Bohun cưỡi ngựa, chỉ huy 2000 kị binh phản công để kìm chân địch, 300 Kozak tình nguyện ở lại tử thủ tại trại để để bảo vệ đường rút lui cho đại quân, họ đã chiến đấu đến người cuối cùng. Khmelnytsky tiếp tục huy động thêm 50000 quân tới giao đấu với Ba Lan tại Bila Tserkva nhưng bất phân thắng bại.
Lược đồ trận Berestechko
Lược đồ trận Berestechko
Ivan Bohun trong trận Berestechko
Ivan Bohun trong trận Berestechko
Đài tưởng niệm tử sĩ Kozak tại Berestechko
Đài tưởng niệm tử sĩ Kozak tại Berestechko
Từ mùa xuân năm 1652 đến mùa đông năm 1653, mặc dù người Kozak có thêm vài chiến thắng trước Ba Lan, nhưng nguồn nhân lực và vật lực của Kozak quốc bắt đầu suy kiệt, Khmelnytsky một lần nữa phải cầu viện Tatar và Thổ. Ngày 1/6/1652, đại quân Kozak một lần nữa giáp chiến và đánh bại 3 vạn quân Ba Lan tại Batih. Quay lại với Moldova, mặc dù quốc vương thần phục Khmelnytsky, giới quý tộc lại thân Ba Lan và nổi dậy lật đổ vua. Tymish Khmelnytsky dẫn quân đến ứng cứu nhưng bị giết trong trận Suceava. Không những bị mất ảnh hưởng chính trị tại Moldova, Khmelnytsky cũng mất luôn đứa con trai duy nhất có khả năng lãnh đạo. Cùng lúc đó, 80000 quân Ba Lan lại kéo sang xâm lược Ukraine một lần nữa, hội quân tại pháo đài Zhvanets để chờ hậu ứng. Chớp thời cơ, quân Kozak và Tatar kéo đến bao vây pháo đài. Sau ba tháng vây hãm, quân Tatar chán nản và lần thứ ba phản lại Khmelnytsky, buộc ông phải đàm phái với Ba Lan. Kết cục, cả ba phe đều rút quân khỏi Zhvanets. Bất mãn trước sự bội ước của Thổ và Tatar, với quân đội suy yếu sau nhiều năm chiến tranh, Khmelnytsky quay sang cầu viện Muskovy. Sa Hoàng Nga đồng ý hỗ trợ quân sự cho ông, đổi lại Kozak quốc phải trở thành chư hầu của Nga mặc dù vẫn được giữ quyền tự trị-đó chính là nội dung thỏa thuận Pereiaslav. Chính bản thỏa thuận này đã mở đường cho người Nga can thiệp và Ukraine và dẫn đến số phận hẩn hiu của dân tộc này suốt ba trăm năm sau đó. Năm 1654, liên quân Kozak quốc-Muskovy kéo sang xâm lược Lithuania (ngày nay là Belarus), tranh nhau quyền kiểm soát lãnh thổ Belarus ngày nay. Cùng lúc đó, Ba Lan quay lại xâm lược vùng Bratslav, buộc Khmelnytsky và Nga phải kéo xuống trao chiến tại trận Okhmativ bất phân thắng bại. Mùa xuân năm 1655, liên quân Kozak quốc-Muskovy tiến đánh bờ Tây Ukraine tới tận Lviv nhưng bị Ba Lan-lúc này liên minh với người Tatar, đẩy lui.
Kể từ sau mùa thu năm 1656, Khmelnytsky đần trở lên bất mãn với liên minh với người Nga, muốn tìm kiếm đồng minh khác thay thế. Mùa hè năm 1655, vua Thụy Điển Charles X Gustav, lợi dụng Ba Lan suy hiếu sau chiến tranh với Kozak quốc, đã xâm lược và chiếm đóng miền Bắc Ba Lan-Lithuania. Người Nga, lo sợ đế quốc Thụy Điển đang trên đà lớn mạnh, đã kí kết hiệp định hòa bình với Ba Lan tại Vilnius và cùng khối thịnh vượng chung tuyên chiến với Thụy Điển. Phẫn nộ trước động thái trên của Nga, chính phủ Kozak Ukraine gia nhập liên minh Thụy Điển-Transylvania-Brandenburg-Moldavia-Wallachia bất chấp phản đối từ Moskva. Ba Lan nhận viện trợ quân sự từ Áo, Muscovy và Tatar Qirim. Tháng 1 năm 1657, liên quân Ukraine-Transylvania gồm 3 vạn người Hungary và 2 vạn Kozak chiếm miền Tây Ukraine, tiến đánh sang Ba Lan tới tận Warsaw. Người Nga dùng gián điệp làm nảy sinh rối loạn trong hàng ngũ Kozak, cùng với phản kháng từ người Ba Lan, buộc quân Hetman quốc và Hungary phải rút lui khỏi Ba Lan. Ngày 6 tháng 8 năm 1657, Bohdan Khmelnytsky mất, thời đại huy hoàng của ông cũng chấm dứt.
e) Phần 5: Ruyina
Cái chết của Khmelnytsky được nối tiếp bằng một thời kì đen tối trong lịch sử Ukraine, được giới sử học sau này gọi bằng cái tên "Ruyina", tức "sự sụp đổ". Giai đoạn này chứng kiến chính những người tướng lĩnh và họ hàng của Khmelnytsky đánh giết lẫn nhau. Người Nga lúc này tìm cách thôn tính Ukraine bằng kế chia để trị. Sau khi Khmelnytsky mất, Ivan Vyhovsky được bầu lên làm Hetman của Kozak quốc. Trong khi đó, phe thân Nga tại Zaporizhzhian Sich đòi bầu đứa con trai mới 16 tuổi Yuri của Khmelnytsky lên làm Hetman, điều này dẫn đến các cuộc nội chiến giữa Vyhovsky với Martyn Pushkar và Yakiv Barabash khiến 50000 Kozak chết trận. Năm 1658, Vyhovsky kí kết hiệp định Hadiach với khối thịnh vượng chung, trong đó Hetman quốc được đối xử bình đẳng như một quốc gia trong khối. Hiệp định này dẫn đến chiến tranh giữa liên minh Vyhovsky-Ba Lan-Tatar với Kozak bờ Đông-Muskovy. Vyhovsky đánh bại liên minh Kozak bờ Đông-Nga tại Konotop năm 1659. Tuy nhiên, người Ba Lan trở mặt, không thèm thực thi các điều khoản trong hiệp định Hadiach. Điều này dẫn đến mâu thuẫn trong hàng ngũ Kozak của Vyhovsky. Mâu thuẫn này đạt đến đỉnh điểm khi chính họ nổi dậy chống lại Vyhovsky, buộc ông phải chạy đến Kyiv và sau này bị người Ba Lan xử tử tại Korsun. Người Nga ép Hetman Yuri Khmelnytsky phải kí Điều khoản Pereiaslav đầy tai tiếng, buộc phải từ bỏ quyền tự trị hoàn toàn của Kozak quốc, tách Giáo hội Chính thống giáo Ukraine khỏi Tòa Thượng phụ Constantinople và đặt nó dưới quyền kiểm soát của Tòa Thượng phụ Moskva. Nổi dậy nổ ra khắp nơi đòi phế truất Yuri Khmelnytsky, ông từ chức và trở thành một tu sĩ nhà thờ. Tiếp đến là cuộc xung đột của ba Hetman: Hetman Yakym Somko muốn thống nhất lại nước Ukraine độc lập, Hetman Pavlo Teteria là thuộc hạ của Ba Lan, Hetman Ivan Briukhovetsky là tay sai của Nga. Kết cục, Somko bị giết bởi Briukhovetsky, Teteria bị người Kozak bờ Tây nổi dậy lật đổ. Năm 1667, Ba Lan và Nga kí hiệp định Andrusovo, thôn tính và chia Ukraine thành hai nửa. Lúc này, vị tướng cuối cùng còn sống của Khmelnytsky-Petro Doroshenko cất quân nổi dậy chống lại cả Ba Lan và Nga, tự xưng là Hetman của Ukraine thống nhất. Không còn đồng minh nào khác, Doroshenko buộc phải chấp nhận chiến đấu cho người hồi giáo Thổ. Chính điều này làm mất đi uy tín của Doroshenko trước người Kozak vốn theo Chính thống giáo. Mặc dù giết được Ivan Briukhovetsky, Doroshenko bị buộc phải đầu hàng cho một tên tay sai khác còn thân Nga hơn-Hetman Ivan Samoylovych. Ít lâu sau đó, Samoylovych bị Nga lật đổ và bị đày lên Siberia. Kết cục, miền Tây Ukraine bị Ba Lan kiểm soát, miền Đông bị lệ thuộc Nga.
Quân Kozak của Vyhovsky chiến đấu với quân Nga trong trận Konotop
Quân Kozak của Vyhovsky chiến đấu với quân Nga trong trận Konotop
f) Phần 5: Mazepa-tia hi vọng vụt tắt
Triều đại của Hetman Ivan Mazepa được biết đến trong lịch sử Ukraine là thời đại Phục hưng Mazepa. Trong một thời gian ngắn, Kozak quốc tại bờ Đông và một phần bờ Tây Ukraine được hưởng thái bình và phát triển vượt bậc trong lĩnh vực giáo dục, văn hóa, đặc biệt là kiến trúc và nghệ thuật. Là một sĩ quan trong quân đội Doroshenko, Mazepa thoát chết trước quân Nga nhờ trí thông minh và tài năng hơn người. Ông trở thành bạn thân của Sa Hoàng Nga, lợi dụng chính mối quan hệ đó để nơi lỏng sự kiểm soát của Nga lên Ukraine. Tuy nhiên, Mazepa dần nhận ra Nga vẫn luôn giữ ý đồ muốn tiêu diệt nước Ukraine độc lập. Quân lính Sa hoàng bóc lột nhân dân, yêu cầu người Ukraine Kozak phải gửi lính đi tham chiến trong những trận chiến đẫm máu của Nga tại Qirim và trong Chiến tranh phương Bắc với Thụy Điển. Chưa hết, chúng còn bắt Kozak Ukraine phải cống nạp thợ xây cho các thành phố ở Nga, trong đó có Saint Petersburg. Phẫn nộ, Mazepa cùng các chỉ huy Kozak bí mật thiết lập một liên minh chống Nga với vua Stanislaus I Leszczynski của Ba Lan và vua Charles XII của Thụy Điển. Khi quân Thụy Điển kéo vào Ukraine, Sa Hoàng Nga rút quân và ra lệnh cho Mazepa phải tiêu thổ-đốt hết các làng mạc, thành phố để chống quân Thụy Điển, mà thực ra là bắt Kozak quốc phải tự hủy. Mazepa viện dẫn thỏa thuận Pereiaslav năm 1654, trong đó ghi rõ Nga có trách nhiệm phải bảo hộ đồng minh nếu bị tấn công, cáo buộc Sa hoàng đã bội ước. Ông sau đó viết một bài duma kêu gọi người Kozak Ukraine ngưng đấu đá lẫn nhau và cùng đoàn kết lại vì Ukraine độc lập, rồi dẫn quân theo Thụy Điển đánh lại Nga. Liên quân Kozak-Thụy Điển bại trận tại Poltava năm 1709. Mazepa cùng người kế vị là Hetman Pylyp Orlyk phải dẫn tàn quân lưu vong sang Moldovia. Lúc bấy giờ Pylyp Orlyk vừa soạn ra bản Hiến pháp dành cho nước Kozak sau khi đánh bại Nga-sau này được công nhận là bản hiến pháp đầu tiên của Ukraine. Những năm sau đó, ông nhiều lần đưa quân quay lại tìm cách giải phóng Ukraine nhưng bất thành.
Người Nga trả thù cho sự "phản bội" của Mazepa một cách hết sức tàn bạo. Toàn bộ những người trung thành với Mazepa đều bị đem ra hành hình. Quân đội Sa Hoàng tiến vào san phẳng kinh đô của Kozak quốc lúc bấy giờ-kinh thành Barturyn, giết sạch không còn một ai. Trên khắp Ukraine, binh lính Nga cướp phá các khu định cư của người Kozak. Pháo binh Nga cũng phá hủy thủ phủ của Zaporizhzhian Sich lúc bấy giờ là Chortomlyk Sich. Thủ phủ của quân lực Kozak Zaporizhzhia sau đó phải chuyển tới Kamianka Sich nhưng cũng bị người Nga phá hủy năm 1711. Otaman của Zaporizhzhian Sich là Kost Hordiienko phải chạy xuống phía Nam lập ra Oleshky Sich (tại cửa biển tỉnh Kherson ngày nay). Ngày 2/2/2024, máy bay chiến đấu của không quân Nga ném bom vào nơi chôn cất của Otaman Kost Hordiienko tại Oleshky, phá hủy lăng mộ.
Người Nga sau đó tìm cách xóa bỏ Mazepa khỏi sử sách. Ông bị giáo hội Chính thống giáo Nga rút phép, nguyền rủa, khai trừ. Thậm chí, lời cầu nguyện trong ngày Lễ Chính thống giáo hằng năm của giáo hội Nga cũng bao gồm cả phần nguyền rủa Mazepa. Trong văn hóa Nga, Mazepa trở thành biểu tượng cho "kẻ phản bội". Những người Ukraine yêu nước sau này được gọi bằng cái tên "Mazeppist". Trong khi phá hủy thành Barturyn, người Nga thu được một khẩu đại bác đồng được chạm trổ rất tinh sảo với phù hiệu của Hetman Mazepa. Khẩu đại bác đó hiện vẫn là một chiến lợi phẩm được trưng bày trước cửa kho quân khí tại điện Kremlin cho đến ngày nay.
"Charles XII và Mazepa tại trận Poltava", tranh của Gustaf Cederström
"Charles XII và Mazepa tại trận Poltava", tranh của Gustaf Cederström
Bài duma của Hetman Ivan Mazepa
Nạn nhân thảm sát Barturyn
Nạn nhân thảm sát Barturyn
Đại bác Mazepa tại điện Kremlin
Đại bác Mazepa tại điện Kremlin
g) Phần 6: Sự hình thành của phong trào dân tộc
Sau khi Zaporizhzhian Sich và Hetman quốc bị xóa sổ, Ukraine bước vào một giai đoạn đen tối mới dưới ách thống trị của các đế quốc. Năm 1720, lệnh cấm in ấn sách tiếng Ukraine được ban hành, các tu viện và trường học bị ép phải biên soạn lại sách vở bằng tiếng Nga. Ở miền Tây, người Ba Lan không chỉ tái lập chế độ nông nô mà còn áp bức người Ukraine khốc liệt hơn cả thời kỳ trước Khởi nghĩa Khmelnytsky. Khi Khối thịnh vượng chung Ba Lan–Lithuania sụp đổ, miền Tây Ukraine bị chia cắt giữa Đế quốc Nga và Áo. Trong bối cảnh đó, lòng căm thù giặc của người Ukraine ngày càng dâng cao, dẫn đến nhiều cuộc khởi nghĩa chống lại ách thống trị của các đế quốc. Tiêu biểu trong số đó là phong trào Haidamaka-một loạt các cuộc nổi dậy của nông dân và Kozak chống ách đô hộ ngoại bang. Các cuộc khởi nghĩa Haidamaka lớn nhất nổ ra trong các năm 1734, 1750, 1768 và 1830, nhưng kết cục đều bị quân đội Ba Lan và Nga dập tắt. Sau này còn có khởi nghĩa Kyiv năm 1855, khởi nghĩa tháng Riêng năm 1863.
Bài thơ về khởi nghĩa Haidamaka của Spyrydon Cherkasenko
Dưới thời Sa hoàng Catherine II, các biện pháp Nga hóa triệt để chống lại người Ukraine được áp dụng, trong đó có: xóa bỏ hoàn toàn Zaporizhzhian Sich và Hetman quốc, chính thức sáp nhập cả hai miền Đông Tây Ukraine vào đế quốc Nga, áp đặt chế độ nông nô lên người Ukraine-biến sinh mạng thường dân Ukraine trở thành tài sản của quý tộc Nga, bắt người Nga và người Ukraine kết hôn với nhau, di dân ép buộc người Ukraine lên Siberia và Viễn Đông. Người Nga không chỉ xóa bỏ tên gọi "Ukraine" và "Hetman quốc", mà còn áp đặt những các tên địa lý mới, gọi Ukraine là "Tiểu Nga" (Malorossiya), còn vùng Zaporizhzhia và Kherson bị đổi tên thành "Tân Nga" (Novorossiya).
Nông dân Ukraine bị địa chủ Nga đem bán đổi lấy chó, tranh của Ivan Izhakevych
Nông dân Ukraine bị địa chủ Nga đem bán đổi lấy chó, tranh của Ivan Izhakevych
Bài dân ca Ukraine về việc Zaporizhzhian Sich cuối cùng bị quân Nga phá hủy năm 1775
Đến đây ta đặt câu hỏi: vậy tại sao Ukraine còn tồn tại được cho đến ngày hôm nay nay? Câu trả lời chính là nhờ công lao của những thế hệ trí thức yêu nước mới, chiến đấu để gìn giữ và phục hưng nền khoa học-văn hóa-tư tưởng của Ukraine dưới ách thống trị của ngoại bang. Không chỉ vậy, họ còn sáng lập ra phong trào yêu nước Ukraine hiện đại-còn có thể được ví như một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng-kéo dài từ cuối thế kỉ 18 cho đến nay. Phong trào này chủ trương đấu tranh bảo vệ lợi ích của bản sắc và căn tính dân tộc Ukraine.
Bất chấp lệnh cấm in sách tiếng Ukraine của Nga, những tác phẩm tiếng Ukraine vẫn tiếp tục ra đời, được in tại các cơ sở bí mật hoặc tại vùng phía Tây do Áo Hung kiểm soát. Không chỉ có các tác phẩm văn học, mà các công trình nghiên cứu văn hóa-lịch sử-dân tộc-ngôn ngữ học, âm nhạc, kịch, hội họa, triết học, báo chí, tư tưởng... cũng lần lượt ra đời. Trong lĩnh vực sử học và nghiên cứu âm nhạc dân gian, ta có những nhân vật tiêu biểu như: Mykhailo Maksymovych, Mykola Kostomarov, Panteleimon Kulish, Oleksander Lazarevsky, Volodymyr Antonovych và Mykhailo Hrushevsky. Đối với thể loại kịch, ta có: Mykhailo Starytsky, Ivan Karpenko-Kary, Mykola Sadovsky và Panas Saksahansky,... Có hằng sa số những nhân vật kiệt xuất trong nền âm nhạc Ukraine thế kỉ 19-đầu 20, họ có đóng góp to lớn trong việc nghiên cứu và phát triển âm nhạc dân tộc Ukraine. Không những giúp bảo tồn âm nhạc dân gian Ukraine, nhiều tác phẩm do thế hệ này sáng tác đã được bất tử hóa thành nhạc dân ca. Trong số này, không thể không nhắc tới cây đại thụ Mykola Lysenko (1842-1912). Âm nhạc của ông không chỉ kế thừa mà còn nâng tầm nhạc dân gian Ukraine lên một trình độ nghệ thuật đỉnh cao. Về triết học, ta có Hryhorii Savych Skovoroda.Và danh sách vẫn còn kéo dài...
Vậy nhưng, không có gì có thể đóng góp cho phong trào yêu nước Ukraine một cách sâu sắc và mạnh mẽ hơn nền văn học. Các tác phẩm văn học Ukraine được chia làm năm nhóm: văn học dân gian, phong trào văn học lãng mạn, văn học dân túy, văn học hiện đại, và cuối cùng là văn học yêu nước - văn học cách mạng dân tộc. Nổi tiếng nhất là những cây đại thụ: Ivan Kotlyarevsky, Ivan Franko, Mykhailo Kotsiubynsky, Lesya Ukrainka,...và cuối cùng-một người hết sức quan trọng-Taras Shevchenko.
Taras Hryhorovych Shevchenko có thể được coi là Hồ Chí Minh của Ukraine. Giá trị các tác phẩm của ông đối với đất nước Ukraine lớn đến nỗi ông được coi là vị cha già dân tộc. Những người Ukraine dân tộc chủ nghĩa đều thuộc thơ của ông như thuộc lời cầu nguyện trong Kinh thánh. Ngày nay, mọi trường học, cơ quan, nhà sinh hoạt văn hóa của Ukraine đều treo ảnh của ông. Sinh ra trong cảnh nô lệ, mồ côi cha mẹ từ sớm, ông lớn lên trong nghèo đói và bệnh tật, hoạt động cách mạng để rồi bị chính quyền Sa Hoàng giam lỏng, ông đem tiếng khóc, tiếng gào thét của mình trong những vần thơ để làm thức tỉnh dân tộc Ukraine. Thơ Taras cũng buồn chính dân tộc Ukraine, đầy những nỗi dằn vặt trăn trở, đau khổ, cô độc nhưng chất chứa tình yêu nước và niềm tin mãnh liệt vào tương lai độc lập tự do của dân tộc.
Taras Hryhorovych Shevchenko-đại lãnh tụ của dân tộc Ukraine
Taras Hryhorovych Shevchenko-đại lãnh tụ của dân tộc Ukraine
Taras Shevchenko đã trở thành biểu tượng không thể thiếu của văn hóa Ukraine
Taras Shevchenko đã trở thành biểu tượng không thể thiếu của văn hóa Ukraine
Ảnh Taras Shevchenko trong ngày Quốc khánh của Cộng hòa Nhân dân Ukraine
Ảnh Taras Shevchenko trong ngày Quốc khánh của Cộng hòa Nhân dân Ukraine
Rất nhiều tác phẩm của Shevchenko đã được phổ nhạc thành bài hát, được bất tử hóa thành dân ca
Lesya Ukrainka
Lesya Ukrainka
Ivan Franko-nhà cách mạng Ukraine
Ivan Franko-nhà cách mạng Ukraine
Đi cùng với sự phát triển của nền văn hóa-tri thức, các tổ chức cách mạng của người Ukraine cũng lần lượt ra đời, trong đó có Đảng cấp tiến Ukraine-một đảng xã hội chủ nghĩa và cũng là đảng chính trị đầu tiên của người Ukraine. Năm 1917, nhân cơ hội Đế quốc Nga tan rã sau Cách mạng Tháng Hai, các tổ chức cách mạng dân tộc đã cùng các đơn vị quân đội người Ukraine trong quân đội Nga/Áo Hung khởi nghĩa dành chính quyền tại cả hai miền Đông Tây và rồi hợp nhất lại thành nước Cộng hòa Nhân dân Ukraine-nhà nước Ukraine hiện đại đầu tiên. Phong trào cách mạng nở rộ, hàng ngàn cuốn sách báo cách mạng ra đời, các ca khúc cách mạng thời Cộng hòa Nhân dân được truyền bá rộng rãi đến độ chúng trở thành nhạc dân ca. Mykhailo Hrushevsky-nhà sử học lỗi lạc nhất của Ukraine-trở thành chủ tịch quốc hội. Symon Petliura-Otaman của Sloboda Ukraine-trở thành tư lệnh Quân đội nhân dân Ukraine. Nhưng nền độc lập đó không kéo dài lâu, mâu thuẫn nội bộ sớm nổ ra trong nước cộng hòa non trẻ. Cùng lúc, phe cộng sản Liên Xô tuyên chiến với Ukraine, tiến đánh từ phía Đông, người Đức và Ba Lan đánh từ phía Tây, quân đội Bạch vệ Nga vẫn còn cát cứ khắp nơi, phía Nam lại nổi lên lực lượng vô chính phủ của Makhno. Cuộc chiến này sau được gọi là "Chiến tranh giành độc lập Ukraine". Đến mùa đông năm 1919-1920, quân đội Cộng hòa nhân dân bị Ba Lan-Liên Xô-Bạch vệ vây hãm từ ba phía tại vùng mà sau này sử sách gọi là "Tam giác tử thần". 25000 quân Ukraine chết vì đói rét bệnh tật, tàn quân buộc phải chạy sang Ba Lan. Cuối cùng, Cộng hòa nhân dân Ukraine thua trận và 3/4 lãnh thổ Ukraine bị sáp nhập vào Liên Xô.
Mykhailo Hrushevsky
Mykhailo Hrushevsky
Symon Petliura
Symon Petliura
Sư đoàn Zaporizhzhia số 1 mang tên Hetman Petro Doroshenko thuộc quân đội Cộng hòa Nhân dân Ukraine giải phóng thành phố Bakhmut, năm 1917
Sư đoàn Zaporizhzhia số 1 mang tên Hetman Petro Doroshenko thuộc quân đội Cộng hòa Nhân dân Ukraine giải phóng thành phố Bakhmut, năm 1917
Binh sĩ Quân đội Nhân dân Ukraine lắng nghe nhạc Kobzar, 1917
Binh sĩ Quân đội Nhân dân Ukraine lắng nghe nhạc Kobzar, 1917
Tranh biếm họa thời Cộng hòa nhân dân, trong đó Ukraine bị bủa vây bởi kẻ thù
Tranh biếm họa thời Cộng hòa nhân dân, trong đó Ukraine bị bủa vây bởi kẻ thù
Các cuộc đấu tranh của người Ukraine kéo dài dai dẳng và phức tạp trong suốt thế kỉ thứ 20. Trong đó, tôi sẽ chỉ đề cập đến những sự kiện liên quan tới đại khủng bố của Stalin và một chi tiết gây tranh cãi-đó là cuộc nổi dậy của OUN-UPA tại Ukraine và Ba Lan xung quanh thế chiến 2.
Đại khủng bố của Stalin để lại hậu quả đặc biệt nghiêm trọng lên dân tộc Ukraine. Trong giai đoạn 1920-1929, ngoại trừ Khủng bố Đỏ, các chính sách của chính quyền Liên Xô đối với Ukraine vẫn còn khá mềm dẻo. Giáo dục tiếng Ukraine được phổ cập, văn hóa được phát triển tương đối tự do. Vậy nhưng, từ sau 1930, Liên Xô bắt đầu thực hiện chính sách tập thể hóa sản xuất, đàn áp tàn bạo phong trào dân tộc Ukraine. Một lượng khổng lồ các di sản văn hóa vô giá của Ukraine đã bị mất đi trong thời kì này. Hàng ngàn trí thức Ukraine, bao gồm cả lãnh đạo Đảng, bị đem ra xử bắn hàng loạt. Hàng trăm ngàn nghệ nhân, văn nghệ sĩ bị bắt đi đày lên Siberia. Hàng ngàn di tích lịch sử bị phá bỏ. NKVD (Bộ Dân ủy Nội vụ) thực hiện tịch thu nông sản từ nông dân Ukraine, dẫn đến nạn đói Holodomor năm 1933 làm hàng triệu người chết. Đây là nguyên nhân các cộng đồng văn hóa dân tộc Ukraine tại miền Đông và Nam đặc biệt là Donbas bị phá hủy nặng nề, mở đường cho chính sách Nga hóa thành công hơn các vùng khác về sau. Thế hệ trí thức Ukraine bị xử bắn trong Đại khủng bố hiện nay được tưởng niệm với cái tên "Cuộc phục hưng bị xử tử".
Nạn đói tại Ukraine năm 1933
Nạn đói tại Ukraine năm 1933
Lương thực bị NKVD tịch thu từ nông dân Kharkiv, năm 1933
Lương thực bị NKVD tịch thu từ nông dân Kharkiv, năm 1933
Trước thế chiến 2, Ba Lan bắt đầu tìm cách đồng hóa người Ukraine trong lãnh thổ Ba Lan và phần lãnh thổ Ukraine do Ba Lan kiểm soát. Các tổ chức văn hóa quần chúng của người Ukraine bị cảnh sát Ba Lan buộc đóng cửa. Chính điều này đã dẫn đến lực lượng vốn là tàn quân của Quân đội nhân dân Ukraine từ thời Chiến tranh giành độc lập nổi dậy và thành lập ra một tổ chức phiến quân với tên gọi Tổ chức của những người Ukraine dân tộc chủ nghĩa-OUN. Ban đầu tổ chức này thực hiện chiến tranh du kích chống lại Ba Lan và ám sát các thành viên chính phủ Ba Lan. Tuy nhiên, ít lâu sau đó, Ba Lan bị Đức quốc xã và Liên Xô cùng xâm lược. Vùng lãnh thổ Ukraine phía Tây thuộc Ba Lan bị chia lại cho Liên Xô. Chính quyền Liên Xô bắt đầu thực hiện tập thể hóa tài sản tư và cải cách ruộng đất tại đây, đồng thời tìm cách loại bỏ các thành phần dân tộc chủ nghĩa. Điều này đã khiến OUN phải cầu viện hỗ trợ từ phát xít Đức. Ít lâu sau đó, Liên Xô cho người ám sát chỉ huy OUN là Yevhen Konovalets khiến tổ chức tách ra làm hai: OUN-B và OUN-M. OUN-B dưới sự chỉ huy của Stepan Bandera đã tiến quân chiếm lại các khu vực miền Tây do Đức Quốc Xã chiếm được trước đó, giết hoặc đuổi người Ba Lan đi. Sự kiện này vẫn được tuyên truyền Liên Xô và Nga sau này lợi dụng để gán ghép phong trào dân tộc Ukraine với phát xít. Thực chất, chính sự thất bại của phong trào dân tộc theo hướng xã hội chủ nghĩa vào đầu thế kỉ 20 đã góp phần khiến OUN sau này lựa chọn khuynh hướng cực hữu. Sau khi đã làm chủ một phần lãnh thổ miền Tây, OUN-B tuyên bố thành lập nước Ukraine độc lập. Động thái này đã khiến phát xít Đức phản lại OUN và bắt nhốt toàn bộ ban lãnh đạo quân nổi dậy vào trại tập trung. OUN-M ngay lập tức tan rã và một phần còn lại hợp với OUN-B, thành lập Quân nổi dậy Ukraine-UPA, chiến đấu chống cả phát xít Đức lẫn Liên Xô (mặc dù UPA có một hiệp định ngầm đình chiến với quân du kích Liên Xô của Sydir Kovpak và Bazyma, trái ngược so với tuyên truyền của Liên Xô sau này). UPA tiếp tục chiến đấu chống So Viết Ba Lan và Liên Xô hai năm sau khi thế chiến 2 kết thúc. Năm 1947, Liên Xô mở chiến dịch quy mô lớn để kết liễu UPA. Trong đó Ba Lan Sô Viết trục xuất 140000 người Ukraine khỏi lãnh thổ. Lực lượng an ninh Liên Xô tiến hành chiến dịch bao vây, bắt giữ 134000 người có liên quan tới UPA, đưa 203000 dân thuộc vùng ảnh hưởng của UPA đi đày. Tổng cộng, 153000 dân quân OUN-UPA chết trận.
OUN-UPA không phải lực lượng dân tộc Ukraine duy nhất nổi lên trong thế chiến 2. Ngoài ra còn có Carpatho-Ukraine (bị quân Hungary tiêu diệt) và Quân đội Cách mạng Ukraine (suy yếu, bị UPA hấp thụ). Mặc dù bị đánh bại, OUN-UPA vẫn để lại ảnh hưởng mạnh trong văn hóa Ukraine, hàng chục bài hát được dân quân nổi dậy sáng tác được bí mật truyền khẩu thành nhạc dân gian.
Lính Đức đầu hàng du kích UPA
Lính Đức đầu hàng du kích UPA
Quốc huy của Carpatho-Ukraine
Quốc huy của Carpatho-Ukraine
Lịch sử Ukraine là một cuộc đấu tranh khốc liệt vì quyền được tồn tại của dân tộc, quyền độc lập tự do và mưu cầu hạnh phúc. Trong đó, cuộc đấu tranh của văn hóa là dai dẳng hơn cả. Người Ukraine không chỉ sở hữu một kho tàng văn hóa đồ sộ, độc nhất mà còn không ngừng phát triển nền văn hóa đó như một cách để gìn giữ danh tính dân tộc. Cùng lúc, người Nga nói chung và đặc biệt là lực lượng dân tộc chủ nghĩa Nga, coi dân tộc Ukraine là mối đe dọa lớn nhất đối với sự thống trị của văn hóa Nga. Giới trí thức Nga dựng lên một học thuyết về "Ba dân tộc Nga" trong đó nước Đại Nga giữ vị trí trung tâm, còn Belarus và Ukraine chỉ là nước phụ thuộc. Họ biến những biểu tượng của văn học Nga như Pushkin, Tolstoy và Dostoyevsky thành vũ khí chống lại nền văn hóa Ukraine. Sau khi Liên Xô tan rã, phe dân tộc cực đoan Nga tiếp nối cuộc chiến tranh chống lại văn hóa-lịch sử Ukraine, xuất bản hàng ngàn sách, báo, tài liệu lý luận nhằm bác bỏ luận điểm về lịch sử của phe yêu nước Ukraine. Họ coi Ukraine là một nước li khai từ Nga. Xung đột lịch sử giữa hai dân tộc đạt đến đỉnh điểm sau năm 2014, khi giới cầm quyền Nga quyết định chấm dứt sự tồn tại của dân tộc Ukraine. Họ công khai phủ nhận quyền tồn tại của Ukraine như một quốc gia-dân tộc độc lập và phát động một chiến dịch truyền thông quy mô lớn nhằm bôi nhọ Ukraine trên mọi phương diện. Người Ukraine bất lực đứng nhìn bộ máy truyền thông Nga sỉ nhục, đe dọa họ bằng những lời lẽ tàn độc, bẩn thỉu nhất, trong khi giới học giả và báo chí phương Tây gần như không thể hiểu được bản chất của cuộc xung đột. Lợi dụng các chiến thuật tuyên truyền của Đức quốc xã, cuộc chiến tranh thông tin của Nga tỏ ra hiệu quả đến mức họ có thể bịa ra những điều hoàn toàn vô lý và vẫn có những người tin là thật. Mặt khác, thời kì Liên Xô cũng để lại những gia đình người trung niên Ukraine mất gốc, tin vào tuyên truyền của Nga với mong muốn Liên Xô sẽ quay trở lại. Trên khắp Ukraine, thậm chí ngay trong bộ máy chính quyền, không thiếu những kẻ phản quốc sẵn sàng đấu tố chính làng xóm của mình cho quân thù, cũng không thiếu những kẻ nội gián được Nga cài cắm vào từ trước khi giành được độc lập. Trước cuộc cách mạng dân tộc năm 2014, bộ trưởng Bộ quốc phòng Ukraine-Pavlo Lebedyev là người Nga, người đứng đầu Cơ quan An ninh Ukraine-Oleksandr Yakymenko là cựu quân nhân Nga. Về kinh tế, người Nga kiểm soát khoảng 10% hệ thống ngân hàng Ukraine và nắm giữ một lượng lớn cổ phần trong các cơ quan truyền thông Ukraine. Đồng thời, họ đã gây ra cuộc khủng hoảng dầu khí giai đoạn 2008–2010, buộc Ukraine phải đối mặt với lựa chọn khó khăn: hoặc để phe thân Nga độc quyền ngành dầu khí, hoặc cho phép Nga tăng cường hiện diện quân sự tại Crimea. Trước sự phủ quyết của phe thân Nga trong quốc hội, giáo dục yêu nước Ukraine bị hạn chế, văn hóa dân tộc không được chính quyền chú trọng phát triển. Trước tình cảnh đó, cách mạng Nhân phẩm đã nổ cuối năm 2013, đầu năm 2014, loại bỏ phe phái thân Nga khỏi chính quyền, bắt đầu một phong trào văn hóa mới-đại phong trào phục hưng văn hóa dân tộc Ukraine. Lợi dụng chính trị bất ổn tại Ukraine, Nga bắt đầu hiện thực hóa kế hoạch xâm lược Ukraine. Ngày 27/2/2014, quân đội Nga tại Qirim-vốn vừa được tăng quân số sau thỏa thuận Kharkiv 2012-bất ngờ chiếm bán đảo. Các nhóm vũ trang được Nga hậu thuẫn tại miền Đông và Nam đồng loạt nổi loạn cướp chính quyền, lập nên hai nước "cộng hòa nhân dân". Tại Odesa, các nhóm bán trang thân Nga mặc quân phục, cầm vũ khí quân dụng và bom xăng, tổ chức bạo động vũ trang rồi đụng độ với người biểu tình ủng hộ Ukraine. Trong quá trình đụng độ, 41 tên chọn cố thủ trong nhà công đoàn thành phố và bị lửa thiêu chết. Chính quyền Nga sau đó gọi đây là "hành vi diệt chủng người nói tiếng Nga của chính quyền Kiev". Cuối năm đó, "dân quân" nổi dậy tại Donbas bất ngờ được trang bị xe tăng, pháo binh và tên lửa phòng không hiện đại. Igor Girkin-một tên sĩ quan tình báo nghỉ hưu người Moskva-trở thành "bộ trưởng bộ quốc phòng" của "Cộng hòa nhân dân Donetsk. Sau đó, Nga triển khai một lực lượng hỗn hợp quy mô lớn, bao gồm quân chính quy, lính đánh thuê và các tổ chức dân tộc cực đoan, tham chiến tại miền Đông Ukraine. Trong số những phần tử cực đoan này có Alexey Yurievich Milchakov—một kẻ mang tư tưởng cực đoan và có dấu hiệu thái nhân cách, đồng thời là thành viên của tổ chức tân phát xít Rusich. Khi được phỏng vấn trên truyền hình, hắn công khai mình từng ăn thịt người Ukraine. Lực lượng thân công khai Nga xử tử một loạt quan chức chính quyền và người ủng hộ Ukraine. Đơn cử là vào ngày 27/4/2014, chúng buộc 3 người vào đá rồi quẳng xuống sông, một trong số đó là Volodymyr Ivanovych Rybak-thành viên hội đồng thành phố Horlivka. Ông bị chúng bắt khi cố gắng treo lá cờ Ukraine lên nóc tòa nhà ủy ban nhân dân đang bị ngụy quân bao vây. Đến năm 2022, Nga phát động cuộc chiến tranh xâm lược tổng lực, dân tộc Nga lại một lần nữa phải đấu tranh cho quyền được sống của chính mình.
Tranh tuyên truyền của Liên Xô trong đó người Nga da trắng đứng ở trung tâm còn người Ukraine có da...vàng
Tranh tuyên truyền của Liên Xô trong đó người Nga da trắng đứng ở trung tâm còn người Ukraine có da...vàng
Tranh tuyên truyền cho học thuyết "Ba nước Nga" của Đế quốc Nga, năm 1905
Tranh tuyên truyền cho học thuyết "Ba nước Nga" của Đế quốc Nga, năm 1905
"Nguồn gốc của chủ nghĩa ly khai mang tên Ukraina"-sách tuyên truyền chống Ukraine của Nga
"Nguồn gốc của chủ nghĩa ly khai mang tên Ukraina"-sách tuyên truyền chống Ukraine của Nga
"Lịch sử phong trào li khai mang tên Ukraine"-sách tuyên truyền chống Ukraine của Nga
"Lịch sử phong trào li khai mang tên Ukraine"-sách tuyên truyền chống Ukraine của Nga
Người "biểu tình" thân Nga tại Odesa, 2014
Người "biểu tình" thân Nga tại Odesa, 2014
Sách vở tiếng Ukraine bị quân đội Nga thu gom đem tiêu hủy sau khi chiếm được thành phố Mariupol, năm 2022
Sách vở tiếng Ukraine bị quân đội Nga thu gom đem tiêu hủy sau khi chiếm được thành phố Mariupol, năm 2022
Người Nga làm nhục chân dung của Taras Shevchenko tại vùng chúng chiếm được
Người Nga làm nhục chân dung của Taras Shevchenko tại vùng chúng chiếm được

2) Tại sao người Ukraine lại không lưu luyến thời kì Liên Xô?

Sau khi Liên bang Sô Viết sụp đổ, những di sản trực tiếp của Liên Xô không được phe dân tộc Ukraine coi trọng. Thay vào đó, họ chỉ ghi nhận đóng góp tích cực đối với văn hóa Ukraine của những cá nhân đơn lẻ. Kể cả sau khi Stalin chết và Liên Xô dần mềm dẻo trở lại trong các chính sách đối với nhân dân Ukraine, văn hóa dân tộc Ukraine vẫn bị kiểm duyệt nặng nề, được cố ý trình bày một cách lạc hậu, quê mùa. Họ cố ý bơm vào những chi tiết có phần lố bịch vào để làm văn hóa Ukraine trông giống như một cái "gánh xiếc dân tộc" hoặc như những di vật trong bảo tàng. Mục đích cốt để thuyết phục nhân dân Ukraine rời xa văn hóa dân gian, từ đó loại trừ mối nguy của phe dân tộc chủ nghĩa. Thêm vào nữa, chính sách Nga hóa bắt đầu bén rễ vào xã hội Ukraine. Vào cuối thời Liên Xô, 80% dân Ukraine sử dụng tiếng Nga cho công việc hàng ngày, sau này khiến nhiều người bị mất cảm giác gắn bó với một danh tính dân tộc cụ thể. Thêm nữa, các di tích lịch sử-văn hóa của Ukraine cũng chịu thiệt hại nghiệm trọng. Dưới đây chỉ là một số ít các ví dụ:
- Hàng ngàn cổ vật vô giá của Ukraina, từ các bức tranh tường ở thánh đường Sofia, đến chiếc chuông nhà thờ của Hetman Mazepa, được chuyển sang Nga và không bao giờ được trả lại. Ngày nay chúng được trưng bày tại các bảo tàng ở Nga.
- Tu viện Bratsky tại Kyiv, được thành lập năm 1595, nơi chôn cất của Hetman Petro Konashevych-Sahaidachny, vị phá hủy năm 1935.
- Thánh vật chạm khắc trên bạc của Hetman Ivan Mazepa tại Pechersk Lavra, Kyiv, có từ năm 1706, cũng bị phá hủy vào thập niên 30 của thế kỉ trước. Chỉ có 2 trong số 6 nhà thờ lớn được Mazepa tu sửa sống sót qua thời kì Stalin.
- Tu viện vòm vàng thánh Michael tại Kyiv, 1918, 1000 năm tuổi, bị phá hủy năm 1937.
- Nhà thờ Spaso-Preobrazhensky ở Odesa, xây dựng năm 1794 bởi linh mục người Romania, Gavril Bănulescu-Bodoni; bị phá hủy năm 1936.
- Nhà thờ Đức mẹ Pyrohoshcha tại Kyiv, xây dựng năm 1130, bị phá hủy năm 1935.
Còn nữa, khi Liên Xô vừa sụp đổ, dưới áp lực của Mĩ và Nga, Ukraine phải từ bỏ vũ khí hạt nhân và máy bay ném bom chiến lược, cắt bỏ hàng ngàn xe thiết giáp, tiêu hủy hàng ngàn tên lửa phòng không. Chiếc hàng không mẫu hạm Varyag được bán cho Trung Quốc với giá bằng...một chiếc xe tăng.
Như vậy, kết thúc thời kì Liên Xô, danh tính và văn hóa Ukraine bị tổn hại nặng nề, chính trị lũng đoạn, kinh tế,quốc phòng suy yếu. Nhìn chung, người Ukraine cảm thấy hậu quả tiêu cực của Liên Xô vượt xa ảnh hưởng tích cực của nó đối với họ. Một biểu hiện rõ ràng là sau năm 1991 chả ai ở Ukraine còn nhớ những bài nhạc đỏ cách mạng của Liên Xô, trong khi đó âm nhạc cách mạng trước 1920 và nhạc dân quân OUN vẫn được biểu diễn thường xuyên khắp nơi chả khác gì dân ca, từ đội quân nhạc danh dự của nhà nước cho đến các nhóm nhạc đường phố. Đó cũng là lí do đạo luật "phi cộng sản hóa" hay việc đập phá tượng Lenin nghe thì có vẻ không chấp nhận được với người Việt nhưng hoàn toàn có thể đồng cảm nếu đứng dưới góc độ của người Ukraine.
Kệ bán báo tại Ukraine năm 2010. Giữa vô số ấn phẩm được bày bán, chỉ có hai tờ báo được viết bằng tiếng Ukraine.
Kệ bán báo tại Ukraine năm 2010. Giữa vô số ấn phẩm được bày bán, chỉ có hai tờ báo được viết bằng tiếng Ukraine.
Tu viện vòm vàng thánh Michael tại Kyiv bị phá hủy năm 1937
Tu viện vòm vàng thánh Michael tại Kyiv bị phá hủy năm 1937
Tỷ lệ giáo dục phổ thông bằng tiếng Ukraine và tiếng Nga tại Ukraine từ năm 1950-2010, xanh là tiếng Ukraine, đỏ là tiếng Nga
Tỷ lệ giáo dục phổ thông bằng tiếng Ukraine và tiếng Nga tại Ukraine từ năm 1950-2010, xanh là tiếng Ukraine, đỏ là tiếng Nga

3) Văn hóa Ukraine?

Vyshyvanka-trang phục truyền thống của người Ukraine
Vyshyvanka-trang phục truyền thống của người Ukraine
Thực tế để có thể truyền tải trọn vẹn sự độc đáo của văn hóa dân tộc Ukraine chỉ trong một bài viết là bất khả thi, bởi đó là một kho tàng hết sức phong phú và rộng lớn, kết tinh từ lịch sử, văn hóa và con người. Có lẽ xuất phát từ lịch sử đầy nước mắt của dân tộc mà văn hóa dân gian Ukraine rất buồn. Đó là một nỗi buồn trầm mặc, được hòa quyện cùng tình cảm và cái đẹp, len lỏi trong từng nét văn hóa. Ngay cả trong cái vui, cái hạnh phúc thì đâu đó vẫn là nỗi buồn man mác. Người Ukraine cũng có truyền thống tôn thờ anh hùng. Các anh hùng dựng nước-giữ nước thời Kozak đều được bất tử hóa trong dân ca. Tại Ukraine ngày nay, mỗi khi đoàn xe đưa tang các binh sĩ hy sinh ngoài mặt trận đi qua, tất cả mọi người có mặt ở gần đó đều phải tiến tới hai bên đường và quỳ xuống, thể hiện lòng kính trọng và tưởng nhớ đối với những người đã ngã xuống.
Ukraine có thể được gọi là một dân tộc hát, không chỉ bởi họ sở hữu một kho tàng âm nhạc dân tộc khổng lồ, mà còn bởi tác động của âm nhạc dân tộc đối với đời sống văn hóa con người Ukraine. Âm nhạc dân tộc chính là cách ngôn ngữ Ukraine đã sống sót trong nhân dân qua ách đô hộ của kẻ thù, chính là cách những thế hệ cha ông truyền lại truyền thống, truyền tải suy nghĩ và kí ức cho đời sau, chính là lí do mạnh mẽ nhất khiến dân tộc tính Ukraine còn tồn tại. Ngôn ngữ Ukraine cũng có tính nhạc rất cao. Ngoài việc là một ngôn ngữ có nhịp điệu theo âm tiết giống tiếng Việt (khác với tiếng Nga có nhịp điệu dựa theo trọng âm), tiếng Ukraine cũng giữ nguyên cách phát âm của nguyên âm ngay cả khi không có trọng âm, đồng thời chứa nhiều nguyên âm mở và âm mềm (không có hiện tượng giảm nguyên âm mạnh và phụ âm cứng như tiếng Nga). Ukraina tự hào sở hữu một trong những nền âm nhạc dân tộc phong phú nhất thế giới, với hàng chục ngàn ca khúc dân gian được truyền lại qua nhiều thế hệ cùng âm nhạc dân tộc thuộc nhiều thể loại. Điểm đặc biệt nằm ở chỗ, âm nhạc có mặt trong mọi khía cạnh của đời sống Ukraine xưa. Họ hát và nhảy múa trong các ngày hội, hát khi lao động, hát trong các nghi lễ, khi tụ tập,... Toàn bộ cuộc đời của một người Ukraine được song hành bằng những bài hát, từ khi sinh ra được rửa tội cho đến khi xuống mồ. Khi lắng nghe âm nhạc dân tộc Ukraine, ta như cảm nhận được ngàn năm lịch sử.
***Về phương pháp biểu diễn, có thể chia ra gồm: nhạc hát và âm nhạc chơi bằng nhạc cụ.
Âm nhạc hát bao gồm: hát đơn, hát hợp xướng, hát đối đáp, hát kể chuyện, hát nghi lễ. Nhiều bài hát đã có từ rất xa xưa, mang một vẻ đẹp kì lạ, hoang dã và nguyên sơ. Đặc biệt là khi kĩ thuật hát giọng trắng, hòa âm và hát luyến được sử dụng rộng rãi trong âm nhạc dân gian, tạo nên những âm thanh thẳng, sáng, mạnh mẽ. Người Ukraine coi giọng trắng như một loại phép thuật. Các phương pháp như phối âm phụ âm, lặp đầu âm, phép tượng thanh cũng được sử dụng để làm phong phú thêm nhịp điệu và hiệu ứng âm thanh. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, nhạc dân ca Ukraine đã phát triển và thích nghi để trở thành một thể loại âm nhạc dành cho quần chúng. Do đó, hình thức biểu diễn phù hợp nhất vẫn là hợp xướng không nhạc đệm hoặc chỉ sử dụng các nhạc cụ dân tộc và cổ điển để tạo nên âm hưởng chân thực nhất.
Nhạc cụ truyền thống của Ukraina đa dạng bao gồm Bandura, Kobza, Torban, Lira,... Trong đó, chiếc đàn Kobzar và Bandura đã trở thành biểu tượng của dân tộc Ukraine. Người nghệ sĩ Kobzar, dẫu mù lòa, vẫn cầm cây đàn và hát lên những bài duma về các anh hùng Kozak, những tích truyện lịch sử, cùng những suy tư của thế hệ đi trước. Khi cất lên những nốt trầm hùng, mắt họ như sáng lên, như thể đang chứng kiến tận mắt những sự kiện lịch sử đó vậy.
Về mục đích sử dụng, có nhạc hát cho nghi lễ như: koliadky, shchedrivky, nhạc mừng mùa xuân, nhạc rusalka, nhạc cho lễ hội Ivana Kupala, nhạc lễ thu hoạch mùa màng, nhạc đám cưới, nhạc đám tang; có nhạc hát thường ngày như: tình ca, nhạc lao động, nhạc về gia đình, nhạc trữ tình, nhạc chumak, nhạc giải trí,...; có nhạc mang giá trị lịch sử như nhạc Cossacks và các bài duma; có nhạc tuyển quân, nhạc hành quân cho lính, nhạc cách mạng (đây là điểm đặc biệt của Ukraine), nhạc quân nổi dậy.***
Âm nhạc dân tộc Ukraine nhấn mạnh những cảm xúc mãnh liệt và suy nghĩ của con người, đặc biệt coi trọng mối liên kết giữa con người và tự nhiên, hướng tới cái đẹp, cái thiện, đồng thời sử dụng rất nhiều hình ảnh so sánh trong dân gian. Cánh chim đại bàng đại diện cho tự do, sức mạnh, lòng dũng cảm, cái đẹp. Chim bồ câu trắng đại diện cho khả năng sinh sản ở phái nữ. Chim hải âu đại diện cho nỗi khổ của người mẹ. Người con gái được ví như nhành hoa kim ngân đỏ, như cây thông, ngôi sao và hoa thuốc phiện. Chàng trai được ví như cây sồi, cây phong hoặc chim bồ câu tím. Nhiều mô típ hình tượng dân gian cũng xuất hiện nhiều trong dân ca Ukraine: người vợ chờ chồng đi đánh trận về, tình cảm mẹ con, nỗi trăn trở trong tình yêu của người thiếu nữ, nỗi mong nhớ của người con trai khi yêu, người Kozak chết, người Kozak khóc bên mộ đồng đội,... Hình ảnh người phụ nữ trong văn hóa Ukraine tự thời nguyên thủy đại diện cho sự sống, hạnh phúc ấm no và đức hạnh. Cũng vì thế mà văn hóa Ukraine cũng rất tôn trọng phụ nữ; người phụ nữ có quyền lên tiếng mưu cầu hạnh phúc trong âm nhạc dân gian Ukraine. Tập hợp các hình tượng, thông điệp trong âm nhạc dân tộc Ukraine mang tính xuyên suốt, tương tác với nhau như một khối hữu cơ, thể hiện sự hòa hợp giữa văn hóa, lịch sử và con người. Một điều độc nhất ở Ukraine là nhiều bài ca thể hiện tình yêu quê hương, âm nhạc trữ tình của giới trí thức yêu nước và nhạc nhạc cách mạng cũng được bất tử hóa thành dân ca. Nhiều bài dân ca từ xa xưa cũng đã thể hiện ý thức dân tộc và tình yêu nước mãnh liệt.
Âm nhạc dân gian Ukraine bị mai một đi nhiều sau những biến động thời kì Liên Xô. Một điều đáng buồn cho âm nhạc dân gian Ukraine là việc chính phủ và nhiều người Ukraine chưa có những biện pháp bảo tồn hay quảng bá đúng cách loại nhạc này. Việc lồng nhạc điện tử, rap, hay biến nhạc dân ca thành opera đều làm mất đi những cái hay, cái chân thực trong dân ca. Kết quả là chỉ còn một bộ phận người Ukraine còn lưu giữ và phát triển âm nhạc truyền thống. Tuy nhiên, từ sau năm 2014 cho đến nay, Ukraine đang trải qua một cuộc đại phục hưng văn hóa dân tộc mới. Nhân dân Ukraine dần nhận ra rằng âm nhạc dân tộc chính là vũ khí mạnh nhất của họ chống lại cuộc chiến tranh văn hóa thông tin của Nga. Trong cuộc chiến này, người lính không chỉ là những người cầm súng. Người nghệ sĩ Kobzar chính là một người lính, những cô thiếu nữ hát dân ca chính là những người lính, và hát chính mà một cách để chiến đấu. Dân tộc Ukraine chính là một bài ca, có thăng, có trầm và sẽ có những nốt hào hùng. Và nếu có ai hỏi tôi: "Người Ukraine đang chiến đấu vì gì?", tôi sẽ trả lời: "Họ đang chiến đấu vì những bài hát!".
Гарний козак, гарний
Không chỉ có âm nhạc, mà rất nhiều phong tục, tín ngưỡng, niềm tin dân gian khác cũng đóng vai trò quan trọng trong văn hóa Ukraine. Những vị thần linh trong cổ giáo, ma quỷ, phép thuật, phù thủy, huyền thoại, nghi lễ từ xa xưa vẫn hiện diện trong niềm tin của người Ukraine cho đến ngày nay. Đặc biệt, bánh mì có một vị trí quan trọng trong văn hóa xứ kim ngân đỏ, tượng trưng cho sự sống, cuộc sống ấm no hạnh phúc. Khăn rushnyk và ổ bánh mì là lễ vật trong nhiều nghi lễ truyền thống. Việc phung phí bánh mì, dù chỉ là một mẩu, là tối kị trong văn hóa Ukraine.
Trang phục truyền thống của người Ukraine là Vyshyvanka. Trong quan niệm dân gian, người mặc chiếc áo thêu nhận được lời cầu nguyện từ người dệt ra nó, giúp bảo vệ họ hỏi tà ma và xui xẻo. Trang phục dân tộc Ukraine rất trú trọng việc tôn lên vẻ đẹp của người phụ nữ, sử dụng thật nhiều màu sắc tươi sáng. Không chỉ vậy, mỗi vùng miền của Ukraine đều có phiên bản Vyshyvanka riêng, với sự kết hợp độc đáo giữa trang phục và họa tiết đặc trưng. Tuy nhiên, mỗi kiểu Vyshyvanka vẫn có thể dễ dàng phân biệt với trang phục của các quốc gia khác nhờ vào nét đặc trưng trong thiết kế và màu sắc. Ngoài ra dân tộc Ukraine miền núi (người Hutsul, Lemko, Boiko) cũng có các phiên bản Vyshyvanka riêng rất độc đáo và nền văn hóa địa phương riêng biệt. Ukraine còn có một số lượng phong phú các làng nghề truyền thống, các làng nghề dệt vải, dệt thảm, gốm sứ, vẽ tranh có từ lâu đời. Đó là còn chưa nói nến nền ẩm thực, kiến trúc phong phú. Dưới đây chỉ là một mẩu bề nổi của tảng băng chìm văn hóa Ukraine:
Vyshyvanka-trang phục truyền thống của Ukraine
Vyshyvanka-trang phục truyền thống của Ukraine
Vyshyvanka của người Hutsul
Vyshyvanka của người Hutsul
Kiểu tóc kết hoa và duy băng-một đặc trưng của người Ukraine
Kiểu tóc kết hoa và duy băng-một đặc trưng của người Ukraine
Vyshyvanka từ các vùng miền khác nhau tại Ukraine
Vyshyvanka từ các vùng miền khác nhau tại Ukraine
Vyshyvanka
Vyshyvanka
Vòng cổ được làm từ san hô đỏ-đặc trưng của người Ukraine
Vòng cổ được làm từ san hô đỏ-đặc trưng của người Ukraine
Vyshyvanka
Vyshyvanka
Vyshyvanka
Vyshyvanka
Người Ukraine trong lễ hội mùa xuân
Người Ukraine trong lễ hội mùa xuân
Người Ukraine trong lễ hội mùa xuân
Người Ukraine trong lễ hội mùa xuân
người Kozak và cô gái-một hình tượng văn hóa dân gian phổ biến
người Kozak và cô gái-một hình tượng văn hóa dân gian phổ biến
Vyshyvanka
Vyshyvanka
Тихо над річкою
Туман яром
Нова Рада Настала
Nghệ sĩ Kobzar
Nghệ sĩ Kobzar
"Người Kozak đi đánh trận", tranh của Mikhail Krivenko
"Người Kozak đi đánh trận", tranh của Mikhail Krivenko
Сонце низенько, вечір близенько
В нашім селі новина
Ой на горі цигани стояли
Їхав козак на війноньку
Наливаймо, браття
Засвіт встали козаченьки
Ой, розвивайся та сухий дубе
Duma về Kozak Bayda
Ой у полі верба
Добрий вечір тобі, пане господарю
Вербовая дощечка
Ой, у лузі червона калина-nhạc cách mạng, được bất tử hóa thành dân ca
Duma về Morozenko, được hát bởi Kobzar
Ой там на горі
Nhạc lễ Malanka
Nghệ sĩ Kobzar chơi đàn bên lăng mộ Taras Shevchenko
Sông Dnipro mênh mang gầm thét-bài hát phổ nhạc từ thơ Shevchenko được bất tử hóa thành dân ca
Nhạc Ivana Kupala
Duma về Kozak Holota
Цвіте терен
Motanka-búp bê truyền thống của Ukraine
Motanka-búp bê truyền thống của Ukraine
Hình tượng Kozak khóc trong dân gian Ukraine
Hình tượng Kozak khóc trong dân gian Ukraine
Tranh dân gian Petrykivka của Ukraine
Tranh dân gian Petrykivka của Ukraine
Taras Kompanichenko-một trong những nghệ sĩ Kobzar nổi tiếng nhất thời nay
Гей степами-một trong những bài hát cách mạng được bất tử hóa
Mazanka-kiểu nhà truyền thống của người Ukraine
Mazanka-kiểu nhà truyền thống của người Ukraine
grazhda-kiểu nhà truyền thống của người Hutsul miền núi
grazhda-kiểu nhà truyền thống của người Hutsul miền núi
Nhà thờ St Michael ở Kyiv, được Mazepa tu sửa theo kiến trúc Kozak Baroque
Nhà thờ St Michael ở Kyiv, được Mazepa tu sửa theo kiến trúc Kozak Baroque
Pechersk Lavra (tu viện hang) tại Kyiv, được Mazepa tu sửa theo kiến trúc Kozak Baroque
Pechersk Lavra (tu viện hang) tại Kyiv, được Mazepa tu sửa theo kiến trúc Kozak Baroque
Ой на горі вогонь горить, а в долині димно
Встань, козацько славо
В саду осіннім айстри білі
Ой ти річенько
Ой, чи я не мила
Đến đây, tôi tin bạn đọc đã hiểu được đôi chút về những gì dân tộc Ukraine đã và đang trải qua. Câu hỏi tôi đặt ra cho các bạn là: Các bạn có cho phép những thứ đẹp đẽ ở trên được tồn tại không?. Điều đặc biệt đau buồn với dân tộc Ukraine không phải là không ai hiểu được họ mà không ai muốn hiểu họ, không ai coi họ là con người có ý chí khát vọng riêng. Ngay cả tôi sau khi đăng tải bài viết này cũng sẽ nhận được rất nhiều chỉ trích, mạt sát, công kích, dọa nạt, thậm chí bị "chuyển hộ khẩu" luôn sang California. Nhiều người thậm chí dùng những từ ngữ phi nhân cách hóa (dehumanization) để chỉ tôi cùng dân tộc Ukraine. Vậy, với tư cách là một con người, liệu bạn có đồng ý rằng dân tộc Ukraine—cùng toàn bộ những nét văn hóa tinh tế và những con người lương thiện của họ—xứng đáng được hưởng độc lập, tự do, hạnh phúc, được gìn giữ và phát triển nền văn hóa của chính mình? Đây không phải là bài viết vấn đề "địa chính trị" hay tuyên truyền kích động thù địch, mà về khát vọng được sống và phát triển, niềm yêu thích cái đẹp. Cuộc chiến này là cuộc đấu giữa sự sống và cái chết của một dân tộc. Những người Ukraine ái quốc, họ chưa bao chiến đấu vì Mĩ hay bất kì ai khác. Họ chiến đấu vì những người thân thương sau lưng họ, vì muốn con cháu họ nói tiếng Ukraine, hát những bài dân ca của Ukraine, và gìn giữ bản sắc dân tộc của mình. Họ chiến đấu vì những bài hát.
Bạn có cho phép dân tộc Ukraine được tồn tại?
Bạn có cho phép dân tộc Ukraine được tồn tại?