Người Sống bàn Chuyện Chết: Tín ngưỡng và Tôn giáo (Phần 1)
Đâu là bản chất thật sự của Cái Chết và ý nghĩa của Tồn tại là gì?
Cái chết liệu chỉ đơn thuần là một giai đoạn đánh dấu sự kết thúc của một thực thể sống hay là một khởi sự trong muôn vàn khởi sự của một linh hồn? Cái chết có phải là chiều thực tại khác của tồn tại vật lý, một chiều không có trong kinh nghiệm con người? Con người có sợ cái chết?
Con người có lẽ không sợ cái chết mà sợ vô thường của cái chết, họ không thể cảm nhận được nó bằng những giác quan trần tục của con người vật lý. Họ sẽ tưởng tượng viễn cảnh của cái chết dựa trên kinh nghiệm thực tại của mình. Con người có lẽ chỉ có thể định nghĩa được cái chết khi họ thật sự chết, vậy làm sao một người đã chết có thể kể cho bạn nghe sự thật về cái chết. Và liệu làm sao bạn biết được người đó đang kể sự thật hay chỉ đơn giản cũng chỉ là sản phẩm của sự tưởng tượng hoặc phóng tác của ai đó khi còn đương sống?

Trong một số nền văn hóa, có lẽ vì sợ nên né tránh và cái chết được coi là đề tài xúi quẩy, một chủ đề cấm kỵ trong mọi cuộc hội thoại. Tuy nhiên, mỗi con người đều phải đối diện với cái chết của chính bản thân họ ít nhất một lần trong đời. Sự né tránh và chối bỏ cái chết cũng như cơn nghịch triều trong dòng chảy của tạo hóa. Từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, cái chết là điểm giao thoa của nhiều trường phái triết học, là chủ đề tranh luận của nhiều triết gia, và là đối tượng của nhiều triết thuyết.
Cái chết trong một số Tín ngưỡng
Khi con người bước vào cuộc cách mạng nhận thức, họ bắt đầu nhìn ra thế giới, suy tư về môi trường xung quanh, bằng những sự kiện tình cờ họ bắt đầu sáng tác nên những câu chuyện gắn liền với quan niệm "vạn vật hữu linh" (linh hồn là nguyên nhân sự sống của muôn vật muôn loài). Từ đó, loài người tin rằng ngoài những phần vật lý mà họ có thể cảm nhận được của muôn loài thì bên trong đó luôn có một thực thể linh hồn.
Tộc người Wari ở khu vực Amazon tin vào tập tục ăn thịt người đã mất vì niềm tin vào sự tồn tại của linh hồn. Để thể hiện niềm tôn kính và giữ lại trí tuệ, linh hồn của người đã mất, người thân trong gia đình thực hiện việc mai táng bằng cách ăn thịt họ. Một số tài liệu cho biết họ ăn hết phần xác thịt để linh hồn được giải phóng, trong khi tài liệu khác cho rằng họ chỉ ăn tượng trưng, và ăn hết phần trái tim và lá gan là điều bắt buộc. Bằng cách này, họ đảm bảo rằng linh hồn của người thân vẫn ở lại với gia đình và được lưu truyền qua các thế hệ. Với những huyền thoại và niềm tin khác nhau về cái chết, những bộ tộc như Fore ở New Guinea, Korowai ở Đông Nam Indonesia và khá nhiều bộ tộc khác cũng có tập tục ăn thịt người. Nhưng dù thế nào đi chăng nữa, có vẻ những tập tục này cũng không nên được dán nhãn là tàn bạo hay man rợ chỉ vì nó không thuộc về một nền văn hóa của số đông.
Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên xuất hiện ở nhiều quốc gia Châu Á, trong đó có Việt Nam, cũng gắn liền với quan niệm "chết chưa phải là hết", "trần sao âm vậy", linh hồn là bất tử. Khi chết đi, linh hồn tổ tiên sẽ luôn theo dõi và phù hộ cho con cháu. Như một phương thức thể hiện lòng tưởng nhớ và biết ơn, việc thờ cúng không chỉ giới hạn trong mối liên hệ gia đình mà còn mở rộng ra toàn xã hội như thờ cúng các vị anh hùng có công với đất nước, tổ nghề, thành hoàng, … Các lễ nghi thờ cúng nhưng một sợi dây niềm tin không chỉ gắn kết các thế hệ ông bà con cháu, nối liền giữa hiện tại và quá khứ, thực tại và tâm linh mà còn thắt chặt mối quan hệ máu mủ ruột rà trong gia đình dòng tộc.

Tín ngưỡng và nghi thức thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam
Cái chết theo quan niệm của một số nền Văn minh
Khi cuộc cách mạng nông nghiệp khởi sự, cây cối muôn loài bắt đầu được thuần hóa để mang lại lợi lại, tài sản bắt đầu được tích trữ, phạm vi của của một cộng đồng không còn gói gọn ở quy mô 30 40 cá thể trong một khu vực nhất định mà có thể lên đến hàng ngàn người sinh sống quần cư, đó là chưa kể đến những đế chế bắt đầu công cuộc bành trướng của họ. Lúc này, những cá thể sống tại thượng nguồn của con sông không thể thuyết phục dân cư tại một đô thị cách đó hàng vạn dặm rằng rằng cây vại ở bìa rừng có thể bảo vệ tất cả dân chúng khỏi cơn sốt kỳ lạ. Nhưng đa thần có thể giải quyết được vấn đề này, loài người lúc bấy giờ sẽ có những huyền thoại về nhiều thực thế tối cao đang cai quản và chi phối toàn bộ cuộc sống của họ ban cho họ những điều họ mong muốn, đổi lại bằng sự phụng thờ và cúng tế. Niềm tin ở giai đoạn này tuy đã có cái nhìn bao quát vào tự nhiên và vũ trụ nhưng vẫn còn giới hạn bởi địa lý, tức mỗi vùng lãnh thổ sẽ sở hữu huyền thoại khác nhau, và vì vậy huyền thoại về cái chết cũng sẽ không giống nhau.
Người Ai Cập cổ đại là một trong những nền văn minh đầu tiên tin vào cuộc sống sau khi chết. Họ tin vvào sự cai quản của Thần Osiris đối với cái chết của họ. Sau khi chết, cơ thể và trái tim của cần phải được bảo quản nguyên vẹn. Người Ai Cập cho rằng linh hồn gồm nhiều phần, trong đó có "ka" (năng lượng sống) và "ba" (linh hồn cá nhân). Những phần này cần một nơi trú ẩn vật lý để tồn tại, và nếu cơ thể bị hủy hoại, linh hồn sẽ không thể tồn tại trong thế giới của thần Osiris.
Sau khi nghi lễ mai táng hoàn tất, linh hồn sẽ tham gia một cuộc phán xét trong nghi lễ cân Trái tim với thần Anubis, vị thần đầu chó rừng. Trong nghi lễ này, Anubis đặt trái tim người chết lên một đĩa cân và so sánh nó với lông vũ của nữ thần Ma'at, biểu tượng của sự thật và công lý. Nếu trái tim nặng hơn lông vũ, linh hồn sẽ bị quái vật Ammit nuốt chửng vì không lương thiện và thuần khiết, dẫn đến sự tuyệt diệt linh hồn. Ngược lại, nếu trái tim nhẹ hơn hoặc bằng lông vũ, linh hồn sẽ được chấp nhận vào thế giới bên kia, sống một cuộc đời vĩnh hằng trong Aaru – Cánh đồng Lau sậy (một phiên bản thiên đàng đầy những mảng xanh tươi của bờ sông Nile) là ngôi nhà của thần Osiris. Ở đó, linh hồn sẽ tiếp tục sinh sống bất diệt như khi còn sống trong thế giới con người.

Nghi lễ cân tim
Nhưng những nghi lễ, tập tục ướp xác và tuẫn táng vô cùng phức tạp, tốn kém nên có lẽ chỉ những tầng lớp quý tộc mới sở hữu được chiếc vé đến cõi vĩnh hằng. Và phải chăng họ cũng chẳng ngờ đến việc rằng họ bỏ ra cả một gia tài để bảo toàn thể xác với hy vọng cho sự tồn tại vĩnh hằng và rồi một ngày nào đó có một kẻ xa lạ mang danh khoa học tìm thấy thi thể mình, vui vẻ gào lên như tìm thấy món đồ chơi mới để tìm tòi, nghiên cứu và chiêm ngưỡng hoặc một đám đông thượng đẳng đào bới, tìm kiếm với niềm tin rằng thịt xác ướp là một loại thần dược trị bách bệnh hoặc chỉ đơn giản là công cụ giải trí phục vụ cho một bữa tiệc xa hoa.
Như đã đề cập, đa thần sẽ mang đặc điểm của từng địa phương và vùng lãnh thổ. Người Ai Cập cổ đại tôn thờ vị thần Osiris là chủ quản của Cánh đồng Lau Sậy, thì Thần Hades trong Thần thoại Hy Lạp sẽ cai quản vùng địa ngục - vùng đất của linh hồn, thần đóng vai trò phán xử công tội của những linh hồn sau khi họ chết. Tuy nhiên, vị thần đại diện cho cái chết trong thần thoại Hy Lạp là Thanatos, thần mang đến cái chết thanh thản cho loài người và dẫn dắt linh hồn họ đến thế giới của thần Hades để chịu sự phán quyết của các vị thần. Sau đó, linh hồn sẽ được đến một trong 03 vùng đất: Vườn cực lạc Elysian (Elysium) nơi của những linh hồn anh hùng và chính nghĩa sống vĩnh hằng, vườn Asphodel dành linh hồn trung lập, và hỏa ngục Tartarus nơi giam giữ, và trừng phạt những linh hồn ô trược, phản trắc và tội lỗi. Ngoài ra, thế giới của thần Hades còn vô số những huyền thoại gắn liền với các vùng đất và những vị thần khác.
Ta còn có vô vàn huyền thoại về cõi chết: 9 tầng địa ngục được cai quản bởi Mictlantecuhtli của người Aztec, hoặc 18 tầng địa ngục được cai trị bởi Diêm Vương của người Trung Quốc, .... Mỗi một vùng đất sẽ sở hữu một câu chuyện, một niềm tin nhất định về cái chết. Nhưng đặc điểm chung của những thần thoại này sẽ là sự tồn tại của linh hồn - được lưu giữ từ niềm tin của thời kỳ tôn thờ vạn vật và sự đổi chát - lương thiện và phụng thờ theo tiêu chuẩn niềm tin của cộng đồng thì sẽ được lợi lạc sau khi chết và ngược lại.
Cái chết trong một số Tôn giáo
Khi xã hội ngày càng phát triển, con người không chỉ còn đơn thuần tin vào những huyền thoại, hình thức niềm tin sẽ trở nên có hệ thống, khi đó ta sẽ thấy có một vị giáo chủ dành toàn thời gian cho đức tin của mình, thuyết giảng về các giáo lý của ngài để thu hút tín đồ ngày càng đông, và quản lý tín đồ bằng giáo luật. Tôn giáo (hay Đạo theo tư tưởng phương Đông) cũng khởi sự từ đó. Cái chết – một chủ thể mà chủ nghĩa duy vật khó có thể giải đáp thỏa đáng tính tò mò của con người – đã trở thành mảnh đất màu mỡ cho tôn giáo khai thác và đánh động đức tin con người.
Bàn về cái chết trong tôn giáo phương Đông, ta có thể xét thấy điều này: Con người luôn khao khát một trật tự và đi tìm một chu kỳ để ràng buộc bản thân mình vào đó. Con người khi còn tồn tại là một thực thể tức là họ đang trong một chu kỳ của thời gian hay gọi theo các trường phái tôn giáo Phương Đông là vòng luân hồi.
Ta sẽ bắt đầu luận bàn về chu kỳ này trong quan điểm của Tôn giáo lâu đời nhất trong lịch sử con người, Hindu giáo. Vậy con người trong Hindu giáo sẽ như thế nào khi tại thế? Hindu giáo cho rằng con người sinh ra có một bản ngã bất biến (atman) và dù có nổ lực đến đâu bản ngã đó vẫn là giá trị cố hữu của con người đó. Sự phân tầng đẳng cấp trong xã hội của Ấn Độ cũng vì niềm tin đó mà khó có thể xóa bỏ. Hệ thống bao quát và cơ bản nhất là 04 đẳng cấp:
(1) Bà-la-môn là những cá nhân cai trị tinh thần bao gồm tăng lữ, triết gia, và học giả được sinh ra từ miệng của đấng sáng thế (Phạm Thiên hay Brahma);
(2) Sát-đế-ly là những cá nhân cai trị chính trị bao gồm vua chúa, chiến binh, quan quyền được sinh ra từ cánh tay của đấng sáng thế;
(3) Vệ-xá là những cá nhân cai trị kinh tế bao gồm các thương nhân, nông dân được sinh ra từ bắp chân của đấng Phạm Thiên;
(4) Thủ-đà-la, bao gồm những cá nhân bị cai trị bởi 03 tầng lớp trên, họ được sinh ra từ gót chân của đấng sáng thế và được xem là những tiện dân và tầng lớp thấp nhất trong xã hội.
Ngoài ra, xã hội Hindu giáo còn có thêm tầng lớp Da-lít được xem như tầng lớp thứ 5, nằm ngoài hệ thống đẳng cấp vừa kể trên. Họ là những cá nhân bị loại ra khỏi xã hội, tước đi quyền con người vì bị xem là những linh hồn ô trược do phải làm những công việc ô uế hoặc vi phạm những giáo lý Hindu giáo.
Theo triết lý Hindu giáo, tầng lớp con người thực tại được quyết định bởi karma (nghiệp) - những hành động từ thân, khẩu, ý được tích lũy từ tiền kiếp của linh hồn (atman) thuộc con người đó. Như tiền đề đã được đề cập, sống và chết vốn dĩ là một vòng lập luân hồi vĩnh hằng (samsara), và nó chịu sự trói buộc bởi nghiệp (karma) và con người cần phải chấp nhận số phận mỗi kiếp của mình (dharma). Cần làm rõ thêm, mọi linh hồn vạn vật đều mắc kẹt bởi luân hồi nên không thể tránh khỏi việc linh hồn trở thành con vật ở một kiếp ngao du nào đó của mình. Linh hồn nếu siêng năng tu tập và thực hành 04 con đường Yoga sẽ nhận sự tưởng thưởng của đấng tối cao và tái sinh đẳng cấp cao trong xã hội hoặc ngược lại. Đích đến của linh hồn là đạt được sự giải thoát và giác ngộ để hòa nhập hoàn toàn với vũ trụ hoặc tìm đến trạng thái phúc lạc vĩnh cửu (moska).
Cái chết đối với người Hindu giáo như điểm kết thúc của một thể xác và là điểm khởi đầu mới của một linh hồn. Cơ thể sẽ được thanh tẩy bởi hỏa thiêu và trả về với những gì cấu thành nên nó trên những dòng sông thiêng, còn linh hồn sẽ tiếp tục hành trình của mình, cho đến khi đạt được giải thoát cuối cùng. Dù với bất kỳ trường hợp nào đi chăng nữa, dù thuộc bất kỳ tầng lớp nào trong xã hội, cái chết đối với người Hindu giáo chưa bao giờ là sự kết thúc.

Nghi thức hỏa táng người chết bên dòng sông thiêng của người Ấn
Thế kỷ thứ 6 trước kỷ nguyên Tây Lịch, xã hội Ấn Độ trải qua nhiều biến động cả về niềm tin tôn giáo lẫn kinh tế và chính trị. Điều này dẫn đến sự phản kháng đối với hệ thống đẳng cấp của xã hội lúc bấy giờ và một khao khát con đường giải thoát mới. Phật giáo ra đời, mở ra một con đường giải thoát cho chúng sinh.

Đức Phật thuyết giảng giáo lý cho 5 vị Tôn giả đầu tiên sau khi Ngài nhập Niết bàn
Đức Phật bác bỏ hoàn toàn hệ thống đẳng cấp của Hindu giáo và vượt ra khỏi quan niệm nhị nguyên khi luận bàn về bản chất con người, khẳng định rằng con người là vô ngã. Giáo lý phật giáo cho rằng một linh hồn mà trường cửu tức phải bất biến, nhưng rõ ràng "cái tôi" của một con người luôn biến đổi trong từng sát-na, vì lẽ đó mà không có sự tồn tại vĩnh cửu của linh hồn hay cái "tự ngã", mà bản chất con người được cấu thành từ ngũ uẩn:
(1) Sắc: thể xác vật lý tức thân bốn đại do đất - nước - gió - lửa hợp thành;
(2) Thọ: cảm giác, cảm thọ bao gồm lạc thọ, khổ thọ và vô ký thọ;
(3) Tưởng: tri giác tức khả năng nhận biết các đối tượng hiện tại, truy tầm chuyện quá khứ, suy tưởng chuyện tương lai;
(4) Hành: tác ý tức là chủ tâm và hành động;
(5) Thức: nhận thức tức khả năng nhận biết thế giới bên ngoài thông qua tưởng và hành.
Ta có thể hiểu ngũ uẩn qua thí dụ: Khi đến khu vườn nọ, một hành giả thấy một bông hoa. Sắc uẩn (thể xác) của người này, qua mắt và mũi, tiếp nhận hình ảnh và mùi hương thơm mát từ bông hoa. Thọ uẩn sinh ra cảm giác dễ chịu, tạo nên tâm trạng vui vẻ. Tưởng uẩn giúp nhận thức rằng đây là hoa hồng và là bông hoa đẹp nhất trong khu vườn, từ đó, hành uẩn khơi dậy lòng khao khát chiếm hữu bông hoa. Cuối cùng, thức uẩn cho phép phân biệt bông hoa mà họ đang nắm giữ với những bông hoa khác trong khu vườn.
Ngũ uẩn vốn do Duyên sinh và nương vào nhau mà thành, phàm cái gì nương cái khác mà khởi ra thì vô thường, vô ngã. Phật giáo thừa nhận thuyết luân hồi nhưng xét thấy cả năm uẩn của con người đều vô thường, vậy sau khi chết đi, cái gì sẽ tái sinh?
Để trả lời câu hỏi này, Thuyết Duy Thức của Phật giáo Đại thừa đưa ra ý niệm về A lại da thức (tàng thức), là thức thứ 8 thuộc Thức uẩn. Đây được xem như là cái kho lưu giữ tất cả chủng tử từ vô lượng kiếp, tất cả những ý nghĩ, lời nói, hành động được tạo tác đều được cất giữ trong Tàng thức, và khi đủ duyên sẽ phát khởi hiện hành. Chính A lại da thức này dẫn dắt sự tái sinh vào các cõi trong lục đạo (Trời, người, A-tu-la, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh) tùy theo nghiệp lực đã tích lũy.
"Mưa xuân nhẹ hạt đất tâm ướt
Hạt đậu năm xưa hé miệng cười."
(Cúc cu đúng hẹn - TS Thích Nhất Hạnh)
Bối cảnh ra đời tương tự như Phật giáo, xã hội lúc bấy giờ khao khát sự công bằng, trật tự và bao dung của những tầng lớp bị áp bức trong thời kỳ đế quốc La Mã, Thiên Chúa giáo đã ra đời và mang lại cho loài người một niềm tin cứu rỗi họ thoát khỏi những khổ đau. Cũng như hầu hết các tôn giáo hữu thần, Thiên Chúa giáo quan niệm rằng có sự tồn tại của một linh hồn trong thể xác con người, nhưng phủ nhận sự tái sinh của linh hồn như các tôn giáo Phương Đông, Thiên Chúa giáo minh định rằng mỗi người chỉ có một kiếp sống duy nhất. Sau khi chết, linh hồn sẽ rời khỏi thân xác và đến trước Thiên Chúa để chịu sự phán xét riêng.
Một linh hồn thiện hảo và công chính sẽ được về với Chúa được tưởng thưởng một cuộc sống viên mãn và hạnh phục vĩnh cửu. Trái lại, một linh hồn tội lỗi sẽ bị đày xuống hỏa ngục để chịu sự luận phạt đời đời. Ngoài ra, Thiên Chúa giáo còn có chốn Luyện ngục, là nơi mà linh hồn còn phải chịu sự thanh luyện để đạt được sự thánh thiện trước khi về với Chúa.

Luyện ngục theo quan điểm Thiên chúa giáo
Dù mang nhiều huyền thoại và giáo lý khác nhau về cái chết nhưng tựu chung các tôn giáo vẫn hướng đến sự thiện lành và công chính trong đời sống của mỗi con người để đạt được giải thoát khỏi khổ đau. Có tôn giáo cho rằng con người chỉ thoát khỏi đau khổ khi xuất thế, song cũng có tôn giáo bàn đến chuyện giải thoát ngay khi tại thế như Phật giáo. Những giáo lý này không chỉ phản ánh khát khao tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống của con người mà còn lục vấn chúng ta những câu hỏi sâu sắc về bản chất thật sự của con người và đâu là con đường đúng đắn cho niềm tin.

Quan điểm - Tranh luận
/quan-diem-tranh-luan
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất