Chân lý chẳng dễ chịu, không ấm lòng mà còn có thể sẽ hủy diệt con người muốn nó.
Một chút đóng góp nhỏ bé dưới đây mong có thể giúp ích cho người đọc. Bởi vì, "ngụ ngôn cái hang" vốn đã quá quen thuộc với những ai yêu thích sự thông thái.
....Trong trường hợp này, cái hang dẫn đến nhiều câu hỏi về bản chất. Nó bao gồm nguồn gốc kiến thức, vấn đề của biểu tượng và bản chất của thực tại. Đối với người viết, câu chuyện là một văn bản triết học đáng kinh ngạc vì những biểu tượng làm sáng tỏ rất nhiều ý tưởng mạnh mẽ. Rõ ràng văn bản có thể được diễn giải theo nhiều cách, nhưng tôi sẽ đưa ra một ý tưởng bao quát:
1, Các tù nhân đại diện cho tất cả chúng ta, tất cả các cá nhân bị mắc kẹt trong một kiểu giải thích đơn giản, tầm thường về thế giới. Những người múa rối hay ánh sáng phản chiếu lên hang động đại diện cho tất cả những người - tổ chức - thực thể đang cố gắng áp đặt những tư tưởng, thay đổi tư tưởng lên chúng ta trong cả vô thức và ý thức. Những sợi xích ám chỉ tất cả nhưng điều trói buộc chúng ta trong sự hiểu biết rất hạn chế về trí tuệ và nhận thức về thế giới xung quanh. Hang động là thế giới giới hạn khiến chúng ta bị mắc kẹt và những cái bóng hắt trên tường hang là thứ chúng ta nghĩ là duy nhất có thật, bởi vì đó là những giới hạn duy nhất mà chúng ta có thể nhìn và để xây dựng hệ thống tri giác chúng ta có.
2, Vì vậy, một thời điểm nào đó, một tù nhân bằng cách nào đó trốn thoát và tiếp cận được thế giới bên ngoài - tượng trưng cho chân lý tuyệt đối. Sự thật này là sự thật thoát khỏi ảo tưởng, ngộ nhận, tuyên truyền, truyền thống, văn hóa, luân lý... - những điều phi lý. Chủ thể tư duy hay chính chúng ta không thể hay chưa thể thoát khỏi những tồn tại phi lý này.
3. Sự phi lý trong câu chuyện nằm ở khái niệm sự hồi quy vô tận. Sự hồi quy vô tận? Một khái niệm nảy sinh khi chúng ta đặt câu hỏi liệu có một nguyên nhân đầu tiên - chân lý của cuộc sống, của vũ trụ, của thời gian và không gian. Liệu người tù nhân ra khỏi cái hang này là bước vào cái hang khác? Cái hang lần này có cả mặt trời, bầu trời và nguyên thành cổ Athens. Thoát ra khỏi cái hang này lại đến cái hang khác, tầm nhìn vượt ra khỏi bầu trời, nhận thức cao vời hơn cả các vì sao, đấng chi phối vị thần toàn năng, lại một bí ẩn nào nữa? Từ bỏ, lười biếng, thư giãn hay giác ngộ thật khó khăn. Liệu, sau bao ngày nỗ lực và say mê, có thở phào được một hơi rồi nhận ra có cuộc đời tranh đấu giờ chỉ còn cái tên vô danh.
Sau đó, một tù nhân trốn thoát...
Trong trường đó, chẳng phải người tù nhân bỏ trốn ấy nên nhớ đến những người bạn tù của mình và nơi ở ban đầu của anh, cũng như những gì được coi là khôn ngoan trong bối cảnh đó sao? Anh ta sẽ coi mình là một người may mắn vì sự biến đổi này và cảm thấy thương hại những người bị giam cầm? Câu băn khoăn trên của chính tôi dẫn đến một loạt các nghi vấn khác. Nếu một người như vậy quay trở lại vị trí ban đầu của mình trong hang động, chẳng phải anh ta sẽ bị bóng tối bao phủ trở lại sao?... Mắt anh ấy phải mất một thời gian trước khi chúng có thể nhìn thấy bóng tối trở lại. Khi đã quen với hang động, anh có thấy ngạc nhiên với sự ngốc nghếch, bẩn thỉu của những người mà anh ta đã từng là? Anh ta nên cảm thấy như thế nào? Chẳng phải anh ta có thể bị cười nhạo bởi những người bị bắt khắc chăng? Chẳng phải họ sẽ nói: “ Ồ, anh vừa trở về từ cuộc phiêu lưu trên đó với đôi mắt bị hủy hoại!”, chẳng phải họ sẽ nói rằng việc đi lên là lãng phí thời gian sao hay họ sẽ hành động như thể đã biết từ đầu là bản thân bị giam cầm, vững tâm với ý niệm về một chân lý chói lòa ngoài kia mà họ vốn mù mờ. Và nếu anh ta cố gắng giải thoát họ và đẩy họ ra khỏi hang, người đọc có nghĩ rằng họ thậm chí có thể giết anh ta vì điều này không?
Anh ta bị giết trong cả nghĩa thực và ý nghĩa biểu tượng.
Câu chuyện ngụ ngôn này cố gắng so sánh thế giới hữu hình với hang động dưới lòng đất, và việc đi lên của người bị giam cầm là việc linh hồn đi lên thế giới trí tuệ. Với người viết, cảm nhận như trong thế giới tri thức, ý tưởng về cái chân - thiện - mĩ xuất hiện sau cùng và nó được nhận thức rất khó khăn. Tuy nhiên, khi nó được hiểu bằng phương thức nào đó, nó sẽ dẫn chúng ta trực tiếp đến việc tìm ra nguyên nhân phổ quát của tất cả. Chân lý với biểu tượng mặt trời là nguồn ánh sáng của thế giới trí tuệ; nó - logic - tưởng chừng như thượng hằng tồn tại như là ý niệm, lại vốn chi phối, là chủ nhân của lý trí và chính nó. Người viết xin đưa ra ba điểm quan trọng trong câu chuyện này xoay quanh chân lý:
1, Cần có thời gian để làm quen với sự thật và cuối cùng là điều chỉnh lại nhận thức của mọi người để hiểu và chấp nhận nó. Chân lý như ánh sáng mặt trời làm mù mắt những người quen với bóng tối trong hang.
2, Một khi nhìn ra sự thật và chấp nhận nó, người ta không bao giờ có thể quay lại trạng thái cũ.
3, Chân lý có thể bị một số người coi là tồn tại sự kiện gây nguy hiểm. Bởi vì, thông thường, sự thật hay sự thật tương đối gây thương tổn đến mức mọi người sẽ cảm thấy rằng không đáng để mạo hiểm những gì họ không biết. Họ vô thức tìm kiếm sự an toàn, vì vậy, chúng ta cần ý thức được sự nguy hiểm của những gì con người có thể làm, đồng thời, ý thức được về quyết định của bản thân mình và rủi ro mà chính quyết định ta chọn!
Như vậy, chủ thể tư duy bị kìm kẹp, thậm chí, giết hại là điều không thể tránh khỏi. Sự thật không mấy dễ chịu, lại có thể sẽ hủy diệt con người đấu tranh vì nó. Thực ra cái châm ngôn nói rằng chân lý luôn chiến thắng sự truy hại là một trong những lời dối trá êm tai mà người ta cứ lặp lại với nhau thành nhàm chán, nhưng lại bị mọi trải nghiệm bác bỏ. Lịch sử đầy rẫy những thí dụ chân lý bị triệt hạ bởi những truy hại, nếu không dập tắt vĩnh viễn thì cũng bị đẩy lùi lại hàng trăm năm.
Cứu cánh là gì? Hẳn những lời sau đây chỉ múa rìu qua mắt thợ - những chuyên gia đã nghiên cứu đề tài này. Mong có sự góp ý của mọi người:
Chân lý tương đối cũng có thể mở ra một thế giới mới mà chỉ giới hạn ở sự phi lý. Nó cũng dễ dang để từ bỏ hơn là cám dỗ của sự thật tuyệt đối - thứ đã thúc đẩy và kéo cả đoàn người đi lên. Trường hợp của Galileo Galilei, ông ý thức được rằng chân lý này không quan trong đến thế so với tính mạng của mình. Nhưng Socrates - thầy của Plato thì chọn đấu tranh cho chân lý tuyệt đối, ông ấy hẳn ý thức được rằng mình đã già và vì vậy cần chết cho sự thật. Tất nhiên, đó là những biến cố không mong đợi nhắc nhở người đời sau không được lặp lại, sau này được Talel gọi là "bằng chứng Thiên nga đen". Từ những phát kiến đã tạo ra cả một xã hội văn minh như hiện nay, chúng ta không được quên họ dù phải đối mặt với câu hỏi hiện sinh. Tại sao? Vì nếu không có họ đi trước tạo ra những công cụ, nguyên liệu để chúng ta kế thừa và tư duy, làm sao mà bạn hay tôi có thể tạo ra cái gọi là chính ta của bây giờ. Sự thật có thể đem đến cảm giác an toàn đến mức mà người phương Tây bằng mọi giá muốn nó. Vì vậy, chúng ta đã đang tạo ra xã hội văn minh nhất có thể, đã tạo ra những công trình sừng sững hiên ngang đối chọi với tự nhiên hùng vĩ,... Nhưng tiện ích cũng đi kèm với rủi ro. Quá nhiều tiện ích có thể đưa bất cứ một cá thể nào trong xã hội của chúng ta trở về làm một tù nhân trong ngục tù. Và điều đó đang xảy ra. Tiện ích tất nhiên: năng suất tăng nhưng lao động giảm. Giảm đến mức nào là hại? Hại: Ngừng tư duy. Chúng ta ngừng tư duy khi những thành tựu từ sáng tạo của chúng ta còn bất toàn. Hãy xem xét ở một thế giới trong giả định, nơi ấy con người cao vợt để xem xét các khả năng xảy ra: Thế giới sẽ ra sao nếu tất cả mọi người giác ngộ và chỉ một hoặc hai đứa trẻ loài người sót lại - chúng từ chối trạng thái nhận thức ấy. Toàn bộ các cá thể người ấy hay thực thể nào đó cũng không thể thay đổi quyết định của hai đứa trẻ. Loài người sẽ tiếp tục sinh sôi nảy nở và vẫn vậy, tiếc thay, vẫn sẽ có một ông nào đó tương tự Camus hay Nietzsche, thậm chí có một quý ngài nào đó phát biểu gần giống John Stuart Mill trong lúc đi bộ rằng: Số ít minh triết và phần đông các cá thể kém trí tuệ _ bằng tiếng việt. Bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của mình, viết những dòng rất quan trọng trong cho tương lai loài người với thứ văn của người đã quen dạo bước - sáng tạo, chặt chẽ, khó đọc, dễ học. Ngài ấy sẽ tin rằng quan niệm của những người kia không thể đánh giá đúng sự việc không được đánh giá đúng lợi ích có ở chính người nghĩ rằng đã có một thời phải cần đến các chân lý mới, nhưng nay đủ rồi. Khi ngừng đặt ra những câu hỏi, ngừng cả cái động lực đã đúc đẩy loài người đi lên, thế giới sẽ ra sao?
Thế giới sẽ ra sao nếu thiếu những người có thể sáng tạo và miệt mài lao động? Chúng ta, tiếc thay, ngừng tư duy khi những sáng tạo của chúng ta còn bất toàn. Sự thật là toàn bộ nền văn minh ngày nay dựa trên các chân lý tương đối, các mệnh đề toán học bất toàn, các học thuyết chính trị đối chọi... Các học thuyết đã được công nhận, với giả định nó có thể kiểm sai cho đến khi được chứng minh là sai; bằng thực nghiệm - nó vẫn luôn giúp loài người tồn tại được. "Ngụ ngôn cái hang" có nhiều hơn là một câu chuyện.
Đến hiện tại, vẫn chẳng có mô hình nào mô tả thế giới, loài người vẫn không bỏ cuộc tiếp tục tiến lên. Trong quá trình đó, thất bại và gánh chịu nó là điều không thể tránh khỏi, cũng bình thường như việc lựa chọn cái chết mà thiếu suy xét. Người nào chết và bị hủy diệt công trình tư tưởng còn đang dang dở một cách lãng xẹt chỉ bởi vì những tù nhân - trong nghĩa biểu tượng - trong cả nghĩa thực, khi ta bị kết án phải TỰ DO - những người không hiểu ta, mong đừng xảy ra một lần nào nữa. Có thể nói, chúng ta - những người đọc dòng này, những người tôi muốn viết cho họ, những người tôi muốn mình đủ khả năng để dảo bước cùng... đều giống như những tù nhân trong hang động.
Bất cứ ai kiếm tìm chân lý đều phải đối mặt với sự vô nghĩa và sự phi lý, ngay cả khi - trước mắt ta - quá rõ ràng, thế giới tiếp tục vận động không ngừng, rõ ràng, logic, nhưng không thể biết!