Nghịch lý của sự thấu cảm.
Khi hiểu quá sâu về kẻ thù hoặc tội phạm, con người khó lòng duy trì sự căm ghét – nhưng chính sự căm ghét, phẫn nộ lại là yếu tố thiết yếu để duy trì trật tự xã hội và sức mạnh tập thể.
Một người quay phim tài liệu theo dõi một con hươu và hành trình của nó, sau một thời gian con hươu đó bị sói ăn thịt, người quay phim thấy buồn và thương con hươu.
Nhưng người quay phim khác cũng đang theo dõi hành trình của bẩy sói. Anh ta cũng chứng kiến những lần chúng săn mồi hụt, nhịn đói, cho tới khi săn được con hươu tội nghiệp thì anh ta lại thấy có chút phấn khích và mừng cho bầy sói, vì những con sói con không còn nhịn đói nữa.
Cả 2 người quay phim trên đều có nhân tính và có sự đồng cảm, không ai xấu cả, và chính điều này đã gợi ra rằng, sự đồng cảm của đạo đức nhiều khi sẽ sinh ra những nghịch lý rất trớ trêu.
Tôi có giả thuyết rằng, giả sử ta có thể theo dõi 100% cuộc sống của ai đó, ta sẽ không thể ghét họ được nữa, nếu ta hiểu quá nhiều về một người, ta sẽ không thể ghét người đó nữa, dù cho người đó có là kẻ xấu, kẻ bị xã hội ghét bỏ, hoặc là bất kì ai, kể cả Hitler hay những tên biến thái nhất. Nếu ta nắm bắt được tâm lý của đối tượng, hiểu rõ động cơ của hắn, hiểu rõ cái gì đã tác động lên nhân cách và tư tưởng, suy nghĩ của hắn, ta sẽ trở nên thấu cảm.
Đây gọi là hiệu ứng “humanizing” (làm con người hóa): khi đối tượng không còn là ký hiệu trừu tượng (“kẻ thù”, “kẻ giết người”) mà là một cá nhân với câu chuyện sống, não ta khó duy trì mức căm ghét tuyệt đối. Hiểu nguyên nhân hành vi xấu khiến ta chuyển từ quy chụp đạo đức sang quy chụp hoàn cảnh - Thuyết quy gán (Attribution theory). Tất nhiên những người ít thấu cảm hơn sẽ cảm thấy những người tỏ ra thấu cảm là những kẻ đang biện minh cho điều xấu, đổ lỗi cho hoàn cảnh.
Trong chiến tranh cũng thế, muốn đánh địch, phải nằm lòng và hiểu về văn hoá, chính trị xã hội của địch, nhưng khi nắm và hiểu rõ về địch thì nhiều người lại cảm thấy có phần mềm lòng không thể căm thù được nữa. Nghịch lý là “biết địch biết ta trăm trận trăm thắng”, nhưng nếu biết và hiểu quá nhiều về kẻ thù sẽ làm ta thấy bớt căm thù hơn. Nếu bạn không biết gì về kẻ thù, bạn sẽ ít nhân hóa họ, mức độ humanizing sẽ thấp, nhưng khi biết về họ, thấy họ cũng giống mình, có gia đình, có bạn bè, xã hội cũng giống mình, bạn sẽ thấy thấu cảm, thấy họ cũng là con người giống mình.
Điều này từng xảy ra trong nhiều cuộc chiến khi binh lính ở hai chiến tuyến đôi khi đổi quà, giúp nhau, hoặc cảm thấy tội lỗi khi giết đối phương mà họ đã tiếp xúc gần. Thực tế nhiều nhà nghiên cứu tâm lý học tội phạm, theo dõi các tội phạm chiến tranh cũng có các nhận định tương tự, khi họ hiểu quá chi tiết về hoàn cảnh, tâm lý của tội phạm, họ trở nên đồng cảm hơn.
Nhà tâm lý học Robert Jay Lifton nổi tiếng với các tác phẩm như The Nazi Doctors, Death in Life.... Nhấn mạnh rằng tình huống tạo ra tội ác; chẳng cần tâm địa ác độc, chỉ cần môi trường “sản xuất thảm kịch” là đủ.
John Michael Steiner là người sống sót sau Holocaust, ông đã từng bí mật trò chuyện với các lính và quan chức Nazi để hiểu lý lịch và tâm lý họ. Ông khám phá “sự phân mảnh lương tâm”, cảm xúc gia đình bình thường nhưng vẫn có thể hành xử tàn ác và tố chất “tính cách độc tài” trong họ.
Mình tạm mô tả cảm xúc của chúng ta thành 3 tầng như sau:
Tầng 1: Giữ khoảng cách và có ác cảm tuyệt đối:
Ở tầng này chúng ta ít hoặc không có thông tin cá nhân về đối tượng. Họ tồn tại như một ký hiệu: “kẻ địch”, “tội phạm”, “con quái vật”.
Cảm xúc khi này sẽ là căm ghét dễ dàng và bền vững, vì ta gắn cho họ toàn bộ các đặc điểm tiêu cực, bỏ qua khía cạnh “con người” của đối phương.
Tâm lý chúng ta lúc này nằm ở tong khung đạo đức nhị nguyên: ta thì tốt / họ thì xấu.
Tầng 2: Hiểu bề mặt, căm ghét nhưng kèm chút mâu thuẫn
Lúc này khi ta bắt đầu biết về hoàn cảnh, áp lực, động cơ cơ bản. Thấy một chút tính “người” trong họ, nhưng vẫn nhận thức rõ hành vi sai trái.
Cảm xúc: Căm ghét vẫn còn, nhưng kèm theo cảm giác khó xử kiểu như “Hắn đáng bị trừng phạt, nhưng mình hiểu tại sao hắn như vậy”.
Cơ chế tâm lý của chúng ta sẽ ở mức "quy gán kép": vừa gán trách nhiệm cá nhân, vừa gán nguyên nhân cho hoàn cảnh.
"người này vừa đáng trách, vừa đáng thương"
Tầng 3: Hiểu sâu, thấu cảm mạnh.
Đó là khi ta hiểu rõ lịch sử đời sống, những tổn thương, cách họ hình thành giá trị và lựa chọn. Đặt mình vào vị trí của họ và cảm thấy mình có thể hành xử tương tự nếu ở hoàn cảnh ấy. Cảm xúc căm ghét tan biến hoặc giảm mạnh, thay vào đó là sự thương cảm, hoặc ít nhất là trung lập. Lúc này bạn có thể nhập vai cảm xúc và trải nghiệm tâm trạng của đối tượng gần như là của mình.
Ừ, vậy cảm thông rồi sao nữa?
Thấu cảm không đồng nghĩa với việc “xóa nợ” hay “biện minh” cho hành vi. Nó chỉ thay đổi cách ta nhìn kẻ phạm tội: từ “quái vật” thành “một con người với những yếu tố dẫn đến bi kịch”. Xã hội vẫn cần ranh giới trách nhiệm. Dù ta hiểu họ ra sao, hậu quả và sự nguy hiểm vẫn tồn tại, nên pháp luật và an toàn cộng đồng đòi hỏi những biện pháp kiểm soát hoặc trừng phạt. Các nhà tâm lý tội phạm hay các tòa án hiện nay đều trải qua trạng thái “thấu cảm nhưng không buông bỏ trách nhiệm”. Sự thú vị ở đây là chúng ta vẫn cần sự căm ghét, cần sự thù hận, tức giận từ đám đông. Nếu những thứ đó không tồn tại, sẽ không thể nào xây dựng nên một xã hội trật tự. Nếu xã hội mà ai cũng thấu cảm tuyệt đối, đồng cảm với cái xấu thì nó sẽ loạn. Chúng ta sẽ không thể chống giặc ngoại xâm nếu như không khơi gợi được lòng thù hận trong quần chúng, nếu không có sự phẫn nộ của đám đông cho hành vi sai trái, sự sai trái sẽ dễ dàng bị bỏ qua. Lại thêm một nghịch lý trớ trêu nữa.
Hãy thử hình dung khi quân địch đánh tới quê bạn, nếu lãnh đạo chỉ nói: “Kẻ kia cũng là con người, họ có nỗi khổ riêng”, thì gần như không ai sẵn sàng hy sinh tính mạng. Nhưng nếu truyền thông nói: “Kẻ kia là lũ xâm lược độc ác, chúng ta phải tiêu diệt để bảo vệ gia đình”, thì đám đông sẽ bùng nổ sức mạnh. Tâm lý học xã hội gọi đây là cơ chế huy động cảm xúc tiêu cực (mobilization of negative affect). Nó không chỉ có trong chiến tranh mà còn trong chính trị nội bộ, khi muốn dập tội phạm, chống tham nhũng, hay xử lý các vụ bê bối.
Nếu giả sử mọi công dân đều thấu cảm sâu sắc với cả “kẻ xấu”, tội phạm sẽ không còn bị cô lập về mặt xã hội, công lý có thể bị trì hoãn.
Vậy hiểu biết và đồng cảm chỉ nên dành cho những người có nghiên cứu chuyên sâu. Hiểu về tội phạm là việc của các nhà điều tra, hiểu về kẻ địch là việc của các nhà tình báo, điệp viên chính trị. Và họ là những người sẽ phải đối mặt với cảm xúc mâu thuẫn, day dứt, còn dân thường chúng ta thì không cần phải biết quá nhiều, chỉ cần duy trì mức độ hiểu biết đơn thuần, căm ghét đơn thuần là đủ. Mà đồng thời ở tầng nhận thức đơn thuần đó thì ta sẽ phải chấp nhận sự thao túng từ những người có hiểu biết sâu hơn về tâm lý xã hội. Chung quy lại thì xã hội vẫn cần một mức độ căm ghét, phẫn nộ và thù hận nhất định để duy trì trật tự, luật pháp, và khả năng tự vệ tập thể.
Nếu giả sử mọi công dân đều thấu cảm sâu sắc với cả “kẻ xấu” Tội phạm sẽ không còn bị cô lập về mặt xã hội. Công lý có thể bị trì hoãn vì ai cũng thấy “thương” cho thủ phạm. Khả năng phòng vệ tập thể suy yếu vì thiếu động lực chiến đấu. Điều này gần giống với lập luận của Machiavelli trong The Prince:
“Một nhà cai trị muốn giữ đất nước phải học cách không luôn luôn tốt. Để bảo vệ trật tự, đôi khi cần phải làm điều mà đạo đức thông thường không chấp nhận.”
Nietzsche (Beyond Good and Evil): “Ai chiến đấu với quái vật phải cẩn thận để không trở thành quái vật. Và nếu bạn nhìn lâu vào vực thẳm, vực thẳm cũng sẽ nhìn vào bạn.” - Aristotle. Khi hiểu quá sâu về kẻ ác, ta nhận ra phần “người” trong họ… và phần “quái vật” tiềm ẩn trong chính mình.
Triết gia Marcus Aurelius nói: - “Khi bạn đối mặt với một kẻ làm điều sai trái, hãy nhớ rằng hắn làm thế vì nghĩ đó là đúng hoặc vì không biết điều đúng. Nếu bạn biết điều hắn biết và trải qua điều hắn trải qua, có thể bạn cũng làm như hắn.”
Ngay cả khi bạn đọc bài viết này, có thể bạn đang tự hỏi: Tác giả đứng về phe nào? Có đang cổ súy cho cái mà tôi phản đối?
Câu hỏi đó chính là một minh chứng nhỏ cho luận điểm này: khi ta hiểu một góc nhìn khác, ta bắt đầu dao động, thấy mâu thuẫn giữa cảm xúc và lý trí. Và đó là bản chất của nghịch lý đạo đức của sự thấu cảm nó vừa là sức mạnh để hòa giải, vừa là thách thức cho việc duy trì ranh giới đạo đức.

Quan điểm - Tranh luận
/quan-diem-tranh-luan
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất
