Nền kinh tế Nhật Bản và bức tranh già hoá dân số
Vấn đề già hoá dân số của Nhật Bản và ảnh hưởng tới nền kinh tế của quốc gia này.
Từng được ví như “ngọn gió thần” của nền kinh tế thế giới, Nhật Bản đã có những thập kỷ bứt phá ngoạn mục, từ đống tro tàn sau chiến tranh trở thành một trong những cường quốc công nghiệp hàng đầu. Tuy nhiên, trong khi nhiều quốc gia vẫn đang cố gắng bắt kịp tốc độ phát triển ấy, thì chính Nhật Bản lại phải đối mặt với một thách thức mới – âm thầm mà dữ dội: già hóa dân số. “Ngọn gió thần” ấy dường như đang chậm lại bởi một xã hội nơi mà người già đông hơn người trẻ, và tương lai tăng trưởng không còn chắc chắn như trước. Vậy điều gì đã dẫn đến tình trạng này? Và Nhật Bản đang làm gì để giữ cho cánh buồm của mình tiếp tục lướt đi trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng?
I. Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ hai
Bước ra từ chiến tranh thế giới thứ hai với tư cách là kẻ chiến bại, Nhật Bản phải chịu tổn thất nặng nề: lạm phát tăng cao, cơ sở vật chất bị phá hủy, bị cô lập trên trường quốc tế,... chưa kể đến điều kiện tự nhiên không thuận lợi, các thảm họa tự nhiên, núi lửa, động đất, sóng thần… xảy ra khiến cho nhiều người nghĩ rằng, Nhật Bản khó có thể vực dậy sau chiến tranh. Vậy mà chỉ mất chưa đầy nửa thập kỷ, nền kinh tế Nhật Bản đã phát triển nhanh chóng vươn lên trở thành nền kinh tế thứ 2 thế giới chỉ sau Mỹ trong một thời gian dài.
Sự phát triển thần tốc đó không đến từ phép màu, mà là sự kết tinh của nhiều yếu tố: từ những chính sách được ban hành có hiệu quả cao của Nhà nước như công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu, tập trung vào những ngành công nghiệp cốt lõi, sự đầu tư mạnh mẽ vào giáo dục – công nghệ, cải cách ruộng đất,...; hay việc tận dụng triệt để nguồn lực bên ngoài và những yếu tố khách quan trong bối cảnh chiến tranh lạnh giữa Liên Xô - Mỹ. Nhưng trên tất cả, nhân tố mang tính gốc rễ tạo nên "ngọn gió thần" ấy chính là con người Nhật Bản.
Không phải nói quá nhiều về sự nổi tiếng của con người và tinh thần của người Nhật Bản, một thế hệ mang trong mình tinh thần kỷ luật sắt đá, ý chí vượt khó phi thường và đạo đức lao động gần như tuyệt đối. Chính lực lượng lao động đông đảo, trẻ trung và tận tụy trong giai đoạn hậu chiến đã trở thành động cơ chính kéo theo toàn bộ cỗ máy phát triển. Trong bức tranh tăng trưởng ấy, con người không chỉ là nét vẽ chủ đạo, mà còn là chất liệu tạo hình nên toàn bộ khung cảnh – một xã hội đặt giá trị cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân, và nơi sự hy sinh thầm lặng trở thành động lực phát triển bền vững.
Dù được nhiều kỳ vọng là nền kinh tế Nhật Bản có thể vươn lên vị trí dẫn đầu, tuy nhiên những năm trở lại đây, Nhật Bản dần mất đi động lực tăng trưởng, gần đây nhất xếp sau Đức vào năm 2022. Trong đó, vấn đề già hóa dân số được xem là một trong những nguyên nhân chủ đạo thách thức nền kinh tế nước này.
II. Già hóa dân số tại Nhật Bản
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), già hóa dân số là quá trình thay đổi về thành phần tuổi và gia tăng tỷ lệ người cao tuổi trong tổng dân số. Dân số được gọi là già hóa khi người cao tuổi chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong toàn bộ dân số. Cụ thể, một quốc gia có tỷ lệ người cao tuổi (từ 65 tuổi trở lên) chiếm từ 7 - 9,9% tổng dân số, được coi là “già hóa”; từ 10 - 19,9% được coi là dân số “già”; từ 20 - 29,9% được coi là dân số “rất già” và từ 30% trở lên được coi là dân số “siêu già”.
Vào năm 2023, Chính phủ Nhật Bản vừa cho biết cứ 10 cư dân thì có 1 người từ 80 tuổi trở lên, tương đương 10% dân số Nhật Bản hiện ở độ tuổi trên 80, trong khi số lượng người trên 65 tuổi tại Nhật Bản đã đạt hơn 36 triệu người, chiếm khoảng 29% dân số năm 2022, con số này vượt xa các nước phát triển khác. Theo dự báo của Viện Nghiên cứu dân số và an sinh xã hội quốc gia Nhật Bản, tỷ lệ người cao tuổi sẽ chiếm khoảng 35,3% tổng dân số Nhật Bản vào năm 2040 và có thể lên tới 40% vào năm 2060.
Quá trình già hóa tại Nhật Bản không chỉ là một hiện tượng nhân khẩu học đơn thuần, mà là một quá trình tái cấu trúc toàn diện xã hội theo chiều hướng chưa từng có tiền lệ. Từ cuối những năm 1990, tỷ lệ sinh liên tục giảm sâu – thường dao động quanh mức 1,3 con/phụ nữ, thấp hơn nhiều so với mức sinh thay thế (2,1). Trong khi đó, tuổi thọ trung bình của người Nhật luôn nằm trong nhóm cao nhất thế giới: khoảng 87 tuổi đối với nữ và 81 tuổi đối với nam (số liệu năm 2023). Điều này đồng nghĩa với việc dân số không chỉ già đi, mà còn sống lâu hơn. Điều này tưởng chừng như rất tuyệt vời khi con người Nhật Bản được sống trong môi trường lý tưởng và lạnh mạnh, tuy nhiên con số này cũng phần nào phản ánh lối sống hiện đại của người Nhật Bản, nếu nhìn rộng hơn đó là những tác động không mấy tích cực đến nền kinh tế.
III. Già hóa dân số tác động đến nền kinh tế Nhật Bản như thế nào?
Trong nền kinh tế Nhật Bản hiện đại, nơi từng được vận hành bởi một lực lượng lao động trẻ trung, đông đảo và có trình độ cao, sự già hóa dân số đang dần trở thành một gánh nặng mang tính cơ cấu, làm suy giảm không chỉ năng lực sản xuất mà cả sức sống của toàn bộ hệ thống kinh tế.
Đối với thị trường lao động, khi nhìn vào bức tranh tổng thể già hóa dân số ảnh hưởng trực tiếp tới tình trạng thiếu hụt lao động. Theo tháp dân số, độ tuổi lao động của 1 quốc gia dao động từ 15 - 64 tuổi, trong khi đó, số lượng người trên 65 tuổi của Nhật Bản ngày càng tăng cộng với tỷ lệ sinh thấp dẫn tới cơ cấu dân số trong độ tuổi lao động giảm đi đáng kể.
Điều này dẫn tới 1 thực tế tại Nhật Bản là tỷ lệ người trên 65 tuổi tìm kiếm việc làm để trang trải cuộc sống tăng cao. Theo dữ liệu của Trung tâm việc làm thuộc Chính phủ Nhật Bản cho thấy, số người từ 65 tuổi trở lên đang tìm kiếm việc ở Nhật Bản đã tăng gần gấp đôi trong thập kỷ qua, từ 140.000 người lên 256.000 người. Điều này đặt ra bài toán khó về việc sắp xếp công việc phù hợp với đối tượng lao động cao tuổi bởi khả năng lao động của họ khó có thể đáp ứng được các yêu cầu công việc. Tỷ lệ người lớn tuổi thành công tìm được việc làm ở nước này có xu hướng thấp hơn mặt bằng chung. Họ thường chỉ tìm được các công việc bán thời gian. Điều này ảnh hưởng đến cơ cấu nghề nghiệp và gánh nặng kinh tế đối với người lao động trẻ cũng gia tăng.
Bản thân nhóm đối tượng trong độ tuổi lao động nói chung và nhóm người lao động trẻ nói riêng đang phải đối mặt với rất nhiều áp lực. Họ là hạt nhân của nền kinh tế, vừa phải thay đổi, thích ứng liên tục để có thể đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao của công việc, vừa mang trên mình trách nhiệm gồng gánh nền kinh tế đất nước, những chi phí phúc lợi xã hội do nhóm dân số già để lại, rồi những trách nhiệm phụng dưỡng người cao tuổi,.. thêm vào đó là chi phí sinh hoạt ngày càng đắt đỏ khiến họ rơi vào guồng quay công việc và áp lực lớn. Điều này phần nào hình thành nên lối sống hiện đại và xu hướng độc thân của người Nhật Bản. Ngoài ra, già hóa dân số cũng làm tỷ lệ lao động già so với lao động trẻ tăng cao sẽ làm giảm khả năng đề bạt và nâng bậc theo thâm niên, làm yếu động cơ thúc đẩy làm việc của lao động trẻ cũng như tính linh hoạt bên trong thị trường lao động, và làm tăng cấu thành chi phí lao động do phần lương và các khoản trợ cấp, phúc lợi dành cho nhóm lao động già ngày càng tăng.
Đối với chi phí an sinh xã hội, bao gồm chăm sóc sức khỏe cộng đồng, chăm sóc dài hạn và lương hưu của Nhật Bản cũng đã tăng gấp ba lần từ năm 1990 đến năm 2022 do già hóa dân số. Điều này gây nên những áp lực lớn dành cho Chính phủ, đẩy tình trạng nợ công tăng cao.
Theo Hirotaka Unami, một trợ lý cấp cao của nguyên Thủ tướng Fumio Kishid cho biết: “Hệ thống phúc lợi mà chúng tôi cung cấp có rất nhiều lợi thế và người dân quen với nó. Để duy trì điều đó, chúng ta phải khôi phục lại sự cân bằng giữa lợi ích và gánh nặng. Nếu không, hệ thống phúc lợi không bền vững”. Điều này thể hiện rõ nhất qua các ngành dịch vụ y tế, lương hưu, phúc lợi xã hội sẽ phải chịu những áp lực về bảo đảm nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi (chi phí trung bình để chăm sóc sức khỏe cho một người cao tuổi bằng 7 - 8 lần chi phí trung bình chăm sóc sức khỏe cho một người trẻ tuổi). Ngoài ra, dân số già là nhóm dễ bị tổn thương trong các cuộc khủng hoảng sức khỏe như đại dịch, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh y tế toàn cầu.
Đối với thị trường tiêu thụ: Già hóa dân số không chỉ làm thay đổi cấu trúc lao động, mà còn tái định hình toàn bộ thị trường tiêu dùng – từ thói quen chi tiêu, nhu cầu sản phẩm, đến chiến lược quảng bá của doanh nghiệp. Tại Nhật Bản, nơi gần một phần ba dân số đã trên 65 tuổi, các doanh nghiệp đang buộc phải thích nghi với một thực tế mới: người tiêu dùng chủ lực không còn là giới trẻ năng động, mà là nhóm người cao tuổi với nhu cầu, thị hiếu và hành vi mua sắm hoàn toàn khác biệt.
Thứ nhất, cơ cấu tiêu dùng thay đổi rõ rệt theo độ tuổi. Người cao tuổi thường có xu hướng chi tiêu thận trọng hơn, ưu tiên các sản phẩm thiết yếu, chăm sóc sức khỏe, thực phẩm chức năng và dịch vụ y tế – thay vì tiêu dùng giải trí, thời trang, hoặc công nghệ như giới trẻ. Các trung tâm thương mại, siêu thị tại Nhật ngày càng mở rộng không gian cho các khu vực như hiệu thuốc, thực phẩm organic, sản phẩm hỗ trợ vận động, hoặc dịch vụ tư vấn y tế – điều từng rất hiếm thấy vào thập niên 80–90 của thế kỉ trước. Thậm chí, ngành công nghiệp robot tại Nhật đã và đang phát triển mạnh các dòng sản phẩm hướng đến người già, từ robot trò chuyện, chăm sóc cá nhân đến các thiết bị hỗ trợ di chuyển thông minh.
Thứ hai, tốc độ tiêu dùng suy giảm dẫn đến hệ quả nghiêm trọng: sức tiêu dùng nội địa yếu đi. Với một xã hội mà nhóm dân số hoạt động kinh tế (15–64 tuổi) ngày càng thu hẹp, lượng người tiêu dùng tiềm năng sẽ giảm theo, ảnh hưởng trực tiếp đến các ngành như bất động sản, bán lẻ, dịch vụ giải trí, giáo dục tư nhân và thậm chí cả... đồ chơi trẻ em. Nhiều hãng lớn như Toyota, Uniqlo hay Aeon đã phải điều chỉnh chiến lược sản phẩm – không còn chỉ cạnh tranh về mẫu mã, mà tập trung vào yếu tố thân thiện với người cao tuổi, dễ sử dụng và bảo đảm sức khỏe.
IV. Nguyên nhân già hóa dân số
Bản chất của việc già hóa dân số thể hiện ở hai khía cạnh: Tuổi thọ người dân Nhật Bản cao hơn trước và tỷ lệ sinh thấp.
Về tuổi thọ của người dân Nhật Bản, những báo cáo chỉ ra rằng tuổi thọ của người dân Nhật Bản đã tăng đều đặn trong vài thập kỷ qua. Năm 2019, con số này là 87,45 năm đối với nữ giới và 81,41 năm đối với nam giới. Trước đó, vào năm 2018, với tuổi thọ trung bình 87,32 năm, Nhật Bản đứng thứ hai thế giới sau Hồng Kông về tuổi thọ khi sinh. Trong khi đó, tuổi thọ trung bình khi sinh cùng năm tại EU-27 ước tính là 81,0 năm: 83,7 năm đối với nữ giới và 78,2 năm đối với nam giói.
Có nhiều yếu tố đã góp phần cải thiện sức khỏe của người dân Nhật Bản: thói quen ăn uống lành mạnh theo truyền thống, khả năng tiếp cận nguồn nước sạch, hệ thống bảo hiểm y tế toàn dân, văn hóa chú trọng vệ sinh và lối sống năng động của người cao tuổi. Ngoài ra, các chuyên gia cũng chỉ ra một số yếu tố khách quan khác, chẳng hạn như sự phát triển kinh tế có liên quan đến việc giảm tỷ lệ tử vong của người cao tuổi ở các nước có thu nhập cao trong thế kỷ XX. Tuy nhiên điều này không hoàn toàn đúng, ví dụ như tỉnh Okinawa, khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội không phát phát triển bằng các khu vực khác của Nhật Bản, nhưng lại có tuổi thọ cao nhất trong nhiều năm liền. Các giả thuyết khác cũng được đưa ra như yếu tố di truyền, mức độ bất bình đẳng thu nhập thấp và sự gắn kết xã hội cao. Dù lý do là gì, thì việc người Nhật có tuổi thọ cao góp phần vào quá trình già hóa dân số tại quốc gia này.

Về tỷ lệ sinh của Nhật Bản bắt đầu giảm từ những năm 1970. Đến năm 2005, nó chạm mức thấp nhất là 1,26, sau đó tăng nhẹ nhưng không bao giờ đạt mức thay thế dân số. Từ năm 2016, tỷ lệ này lại tiếp tục giảm, xuống còn 1,36 vào năm 2019. Điều này đi kèm với xu hướng kết hôn muộn hơn và tỷ lệ kết hôn giảm sút. Năm 2015, tỷ lệ người chưa từng kết hôn ở tuổi 50 đạt mức cao kỷ lục: 23,4% đối với nam và 14,1% đối với nữ. Đây là một trong những nguyên nhân làm giảm tỷ lệ sinh – vào năm 2018, chỉ có 2,3% trẻ em Nhật Bản được sinh ra ngoài hôn nhân.
Để lý giải cho nguyên do này, Chính phủ Nhật Bản đã tiến hành nhiều cuộc khảo sát. Vào năm 2023, số lượng đám cưới đã giảm tới mức 500.000, lần đầu tiên kể từ những năm 1930. Trong khi đó, số trẻ sinh ra giảm 5,1% xuống 758.631 trẻ, mức thấp kỷ lục. Viện quốc gia nghiên cứu dân số và an sinh xã hội dự đoán, con số này có thể chạm mốc 755.000 vào năm 2035. Các khảo sát cho thấy nhiều người trẻ Nhật Bản e dè việc kết hôn hoặc lập gia đình vì lo lắng chi phí sinh sống ở thành phố lớn, thiếu công việc chất lượng và văn hóa làm việc khiến cả hai người khó có thể cùng đi làm hoặc người phụ nữ sẽ khó quay lại công việc toàn thời gian sau khi sinh con.
Có thể thấy áp lực công việc đối với giới trẻ Nhật Bản ngày càng lớn dẫn đến việc hình thành những vấn đề xã hội. Chi phí sinh sống ngày càng tăng, triển vọng kinh tế thấp và văn hóa làm việc khắt khe, ngày càng ít người Nhật Bản hiện nay lựa chọn kết hôn và sinh con .Họ có xu hướng sống cô độc, lối sống độc thân và không muốn có con, từ đó tạo ra vòng xoáy đi xuống giữa già hóa và suy thoái kinh tế.
Ngoài ra, theo giáo sư danh dự Matsutani Akihiko, chuyên gia kinh tế ứng dụng tại Viện Nghiên cứu Chính sách Quốc gia, sự sụt giảm dân số của Nhật Bản hiện nay không hoàn toàn do tỷ lệ sinh thấp mà chủ yếu là do sự gia tăng số ca tử vong của thế hệ bùng nổ dân số ngay trước Thế chiến II - những người chịu ảnh hưởng nặng nề từ hệ quả chiến tranh và bom hạt nhân. Số ca tử vong sẽ tiếp tục tăng cho đến khi đạt đỉnh vào khoảng năm 2030, khiến tốc độ suy giảm dân số tăng nhanh. Sau đó, dân số sẽ tiếp tục giảm do tỷ lệ sinh thấp.
V. Thời cơ và thách thức
Ngoài những tác động đã nêu ở trên, nếu không sớm tìm ra hướng giải quyết, Nhật Bản có thể phải đối mặt với nhiều thách thức do già hóa dân số đem lại.
Về kinh tế, già hóa dân số làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu hụt lao động, điều này có thể dẫn tới số lượng người nhập cư lớn, kèm theo các vấn đề, như nhập cư trái phép, buôn lậu và xung đột sắc tộc.
Về văn hóa - xã hội, già hóa dân số có thể làm gia tăng tình trạng phân biệt đối xử theo độ tuổi. Thu nhập của người cao tuổi thấp khiến nhu cầu chi tiêu, mua sắm giảm, gia tăng khoảng cách giàu - nghèo, bất bình đẳng trong xã hội. Bên cạnh đó, già hóa dân số và dân số già đặt ra thách thức trong việc bảo đảm đời sống văn hóa và tinh thần cho người cao tuổi, điều chỉnh thị trường lao động - việc làm, giải quyết mâu thuẫn và xung đột giữa các thế hệ.
Tuy nhiên, một vấn đề xảy ra luôn có hai mặt, bên cạnh những thách thức, già hóa dân số cũng có thể tạo ra những cơ hội mới:
Tiềm năng với thị trường tiêu thụ mới: Với hơn 36 triệu người trên 65 tuổi (chiếm gần 30% dân số), Nhật Bản sở hữu một trong những thị trường tiêu dùng cao tuổi lớn nhất thế giới. Đáng chú ý, phần lớn người cao tuổi tại Nhật có tích lũy tài chính ổn định, sở hữu nhiều tài sản, và có thời gian để tiêu dùng. Nắm bắt điều này, các ngành hàng từ công nghệ, du lịch, thực phẩm, dịch vụ tài chính cho đến thiết kế nội thất đều đã chuyển hướng để phục vụ nhóm khách hàng “trên 65 tuổi nhưng đầy năng động” hay còn được biết tới với tên gọi là “thị trường bạc”. Tiêu biểu là công ty như Panasonic và Sony phát triển dòng điện thoại “chậm” nhưng dễ thao tác, màn hình lớn, nút bấm nổi, tích hợp chức năng hỗ trợ y tế. Ngành du lịch Nhật Bản đẩy mạnh các tour nghỉ dưỡng dài ngày, chậm rãi, hướng đến trải nghiệm nhẹ nhàng và dịch vụ y tế đi kèm.
Bên cạnh đó, già hóa dân số cũng là động lực để Nhật Bản phát triển khoa học kĩ thuật, robot chăm sóc, công nghệ theo dõi sức khỏe từ xa và nhà thông minh là những lĩnh vực bùng nổ nhờ thị trường bạc. Nhật Bản là quốc gia tiên phong trong việc đưa robot như Paro (robot hình hải cẩu dùng cho trị liệu tâm lý) hay Robear (robot hỗ trợ di chuyển bệnh nhân) vào viện dưỡng lão và nhà riêng. Điều này không chỉ giúp giảm gánh nặng cho nhân lực ngành y tế, mà còn tạo ra một ngành công nghiệp công nghệ – y tế hoàn toàn mới, với doanh thu hàng chục tỷ USD mỗi năm.
Như vậy, từ câu chuyện già hóa dân số tại Nhật Bản, có thể thấy việc tăng trưởng kinh tế không thể tách rời khỏi yếu tố con người. Dù có sở hữu công nghệ tiên tiến, thể chế hiện đại hay nguồn lực tài chính hùng hậu, một quốc gia vẫn khó có thể phát triển bền vững nếu thiếu đi một cấu trúc dân số khỏe mạnh và cân đối. Dân số không chỉ là số lượng, mà là chất lượng của sức lao động, là động lực đổi mới, là nền tảng để duy trì tính liên tục của một xã hội. Vấn đề già hóa dân số của Nhật Bản nói riêng và các quốc gia trên thế giới nói chung vừa là thời cơ, vừa là thách thức, việc thích nghi và ứng phó với những thay đổi này là chìa khóa để đất nước ngày càng phát triển và hùng mạnh.

Quan điểm - Tranh luận
/quan-diem-tranh-luan
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất
Hãy là người đầu tiên bình luận bài viết này