Nắm giữ cổ phiếu có nghĩa là gì? (Phần 1)
Bài viết được dịch và chia sẻ cùng mọi người từ cuốn sách: "Picking stock - a practice guide to investing in the stock market" - một cuốn sách vỡ lòng về chứng khoán khá dễ hiểu để mọi người cùng nhau đọc và thảo luận
[Hiện tại người người nhà nhà đổ xô đầu tư chứng khoán, nhưng ít người chịu bỏ thời gian tự tìm hiểu thật thực sự cổ phiếu là gì. Do đó xin được dịch và chia sẻ cùng mọi người nội dung cuốn sách: "Picking stock - a practice guide to investing in the stock market" - một cuốn sách vỡ lòng về chứng khoán khá dễ hiểu để mọi người cùng nhau đọc và thảo luận]
Khi bạn cần tiền để mua một thứ gì đó mà bạn không có khả năng chi trả - ví dụ như mua xe, mua nhà hay một thiết bị điện tử mới – bạn có thể đến ngân hàng và yêu cầu một khoản vay. Đổi lại, bạn đồng ý trả lãi hàng tháng cho đến khi bạn thanh toán hết khoản vay này. Khi một công ty cần xây dựng nhà máy mới hoặc mua sắm thêm thiết bị sản xuất để mở rộng hoạt động kinh doanh, bên cạnh việc vay ngân hàng, doanh nghiệp có thêm lựa chọn là huy động trực tiếp từ những nhà đầu tư – những người có dư tiền và luôn sẵn sàng muốn kiếm thêm lợi nhuận từ tài sản của họ.
Có hai cách để có thể huy động được tiền từ nhà đầu tư. Cách thứ nhất là phát hành trái phiếu. Trái phiếu về bản chất giống như một khoản vay ngân hàng mà ở đó doanh nghiệp đồng ý trả cho nhà đầu tư một mức cổ tức (lãi suất) cố định hàng kỳ (thường là mỗi sáu tháng), và sẽ hoàn trả toàn bộ số tiền vay ban đầu vào cuối kỳ hạn của trái phiếu.
Phương án thứ hai là phát hành cổ phiếu. Phát hành cổ phiếu liên quan đến việc bán một phần quyền sở hữu công ty cho các nhà đầu tư. Nếu công ty thành công trong các thương vụ đầu tư của mình, sẽ giúp lợi nhuận trong tương lai của doanh nghiệp tăng lên đáng kể. Sau khi đầu tư lại một phần lợi nhuận này vào hoạt động kinh doanh để xây dựng thêm nhà máy hoặc mua thêm thiết bị, công ty có thể chi trả một phần thu nhập còn lại cho tất cả các chủ sở hữu (cổ đông), theo tỷ lệ phần trăm mà mỗi cổ đông đang sở hữu.
Sự khác nhau căn bản giữa cổ phiếu và trái phiếu là tương quan rủi ro/lợi nhuận cho nhà đầu tư. Đối với trái phiếu, lợi nhuận của nhà đầu tư bị hạn chế - mức tối đa mà họ có thể có là nhận được các khoản thanh toán lãi suất cố định và nhận lại tiền của họ vào cuối kỳ hạn. Trong khi đó, với cổ phiếu thì lợi nhuận là không giới hạn, vì mỗi nhà đầu tư đều đang chia sẻ nguồn lực vào sự tăng trưởng của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp càng tăng trưởng tốt thì lợi nhuận đem lại cho nhà đầu tư sẽ càng cao. Tuy nhiên, nếu đứng dưới góc độ từ phía doanh nghiệp, ban lãnh đạo sẽ thích phát hành cổ phiếu hơn do sự linh hoạt và tính rủi ro thấp của hình thức này, đặc biệt trong trường hợp doanh nghiệp không biết chắc chắn kết quả của dự án sẽ đầu tư.
Nếu một dự án không thành công và doanh nghiệp đã đi vay (hoặc phát hành trái phiếu) để tài trợ cho dự án, thì doanh nghiệp sẽ không có đủ tiền mặt để trả các khoản vay đó. Khi đó, doanh nghiệp có thể phải tuyên bố phá sản, đồng thời quyền sở hữu tài sản sẽ thuộc về chủ nợ (hoặc người đã mua trái phiếu). Ngược lại, nếu công ty phát hành cổ phiếu để tài trợ cho dự án, trong trường hợp xấu nhất, doanh nghiệp chỉ phải ngừng trả cổ tức trong một vài năm. Đều này rất quan trọng – vì những người nắm giữ trái phiếu thường kì vọng nhận lại tiền từ khoản cho vay theo một lịch trình cố định, nhưng những người nắm giữ cổ phiếu thì chấp nhận rủi ro thua lỗ để đổi lấy khả năng thu được lợi nhuận cao hơn trong dài hạn. Điều này làm cho cổ phiếu rủi ro hơn cho các nhà đầu tư so với trái phiếu, nhưng ít rủi ro hơn cho công ty phát hành chúng.
Sách
/sach
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất