Nam Vang là gì ? nó ở đâu ?
Bài viết nói về nguồn gốc cái tên Nam Vang, sự hình thành và sụp đổ của Trấn Tây Thành (Nhà Nguyễn)
Dạo quanh Thành phố Hồ Chí minh và nhiều địa phương miền Nam khác, không khó bắt gặp các biển hiệu “Hủ tiếu Nam Vang” hay thường xuất hiện trong những câu hát vọng cổ và dân ca Nam Bộ. Thoạt nghe ta cứ tưởng Nam Vang là một địa danh nào đó trên đất Việt. Tuy nhiên khi truy tìm nguồn gốc mới thấy, cái tên này có xuất xứ từ một vùng ngoài biên giới.

Từ Thế kỷ 15 đến thế kỷ 19 được xem là thời kỳ tăm tối của đất nước Campuchia khi mà sức mạnh của đế quốc Khmer không còn. Vào thế kỷ 15 Xiêm La chiếm được kinh thành Angkor, cuối thế kỷ 16 thì chiếm được kinh thành mới ở Lovek.
Đến thế kỷ 17, các đời chúa Nguyễn ở phương Nam trợ giúp người Khmer nổi dậy chống lại sự chiếm đóng của Xiêm La, nhờ đó người Khmer liên tục giành được chiến thắng.
Cuối thế kỷ 17 nhà Nguyễn lập ra phủ Gia Định kiểm soát cả vùng Đông Nam Bộ. Năm 1771, Xiêm La cho quân tiến đánh Campuchia, đường thủy tiến đánh Hà Tiên. Chúa Nguyễn phải cho quân sang cứu Campuchia và đánh quân Xiêm La ở Hà Tiên. Cuộc chiến kết thúc bằng việc Xiêm La và Việt Nam cùng rút khỏi Campuchia. Xiêm La giữ quyền chi phối Campuchia, còn Việt Nam giữ được vùng Hà Tiên.
Năm 1807, Sau khi vua Gia Long thống nhất sơn hà, Việt Nam trở thành một quốc gia mạnh khiến cho cục diện trong khu vực thay đổi. Vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân, dù được người Xiêm dựng lên, đã cử sứ giả sang xin vua Gia Long phong vương và xin thần phục Việt Nam, trong khi vẫn giữ quan hệ phụ thuộc vào Xiêm. Vua Gia Long phong cho Nặc Ông Chân làm quốc vương Cao Miên (Chân Lạp). Chính sách “chư hầu kép” khôn khéo của Nặc Ông Chân đã giúp nước này giữ được thế cân bằng, giảm bớt sự khống chế của Xiêm. Tuy nhiên, chính sách của Nặc Ông Chân khiến cho Xiêm tức tối. Lợi dụng sự mâu thuẫn trong triều đình Chân Lạp, liên tục từ năm 1809 đến 1814, Xiêm dùng vũ lực can thiệp vào nội bộ triều đình Chân Lạp, rồi đem quân tấn công Chân Lạp, Nặc Ông Chân phải chạy trốn và cầu cứu Việt Nam. Là một thiên tài quân sự và là nhà ngoại giao khôn khéo, vua Gia Long một mặt đem quân thị uy, mặt khác thực hiện sự hòa giải mềm dẻo, buộc Xiêm phải tự triệt binh. Gia Long cho củng cố lại thành Nam Vang rồi rước quốc vương Cao Miên về, giao cho Chưởng cơ Thoại Ngọc hầu Nguyễn Văn Thoại và Tham tri Bộ binh Đàn Ngọc hầu Trần Văn Đàn đóng quân giữ thành Nam Vang để bảo vệ cho Chân Lạp. Từ đây, Chân Lạp lại được yên ổn, bờ cõi phía Nam của nước Việt ta cũng vô sự.

Sang triều Minh Mạng năm 1833, sau khi triều đình bắt tội Tổng trấn Lê Văn Duyệt, Lê Văn Khôi con nuôi ông dấy binh nổi loạn, chiếm giữ Thành Bát Quái (thuộc Sài Gòn ngày nay). Vì yếu thế, vài tháng sau Lê Văn Khôi cầu viện nước Xiêm; vua Xiêm Rama III bèn sai tướng Chao Phraya Bodin và Phraklang đem hàng ngàn quân thủy bộ, chia ra làm 5 đạo tiến đánh Gia Định. Đường thủy thì qua ngả Vịnh Thái Lan, đường bộ thì qua đất Chân Lạp, đồng thời thừa thế khống chế luôn Chân Lạp.
Vua Minh Mạng sai Trương Minh Giảng, Phan Văn Thúy đem quân vào dẹp loạn Lê Văn Khôi. Dựa vào thành cao hào sâu, quân Lê Văn Khôi cố thủ hữu hiệu, quan quân triều đình vây hãm suốt hai năm mới phá được thành vào tháng 9 năm 1835. Lê Văn Khôi đã bệnh chết trước đó, con ông và dư đảng bị bắt giết.
Trong khi đó, quân Xiêm đánh vào tỉnh An Giang (Tháng 12, 1833), rồi tiến lên giao chiến ở Chợ Mới. Trận ấy quân Việt thắng và phản công chiếm lại đồn Châu Đốc, tỉnh An Giang, thành Hà Tiên rồi cùng lực lượng quân Chân Lạp ngược dòng Cửu Long tiến chiếm lại thành Nam Vang. Quân Xiêm bại trận phải rút khỏi Chân Lạp; triều đình Huế bèn đưa Ang Chan II trở lại ngôi vua.
Đuổi được quân Xiêm, Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương lập đồn Đại Nam ở gần Nam Vang để bảo hộ Chân Lạp. Việc cai trị trong nước Chân Lạp đều do quan Việt sắp đặt, còn triều thần Chân Lạp chỉ kiêm nhiệm việc nhỏ.
Cuối năm 1834, vua nước Chân Lạp là Ang Chan II mất mà lại không có con trai, quyền cai trị trong nước về cả mấy người phiên liêu là Trà Long (Chakrey Long) và La Kiên, vốn là người Chân Lạp nhưng nhận quan tước của triều đình Huế.
Năm 1835, Trương Minh Giảng tâu vua xin lập người con gái của Nặc Ông Chân là Ang Mey (Ngọc Vân) lên làm quận chúa, gọi là Chân Lạp quận chúa. Thực chất Ngọc Vân không có thực quyền.
Năm 1836, Sau đó, đổi nước này thành Trấn Tây Thành, chia làm 32 phủ và 2 huyện, bổ nhiệm Trương Minh Giảng làm Trấn Tây tướng quân, Lê Đại Cương làm Trấn Tây tham tán đại thần, sáp nhập Trấn này vào lãnh thổ Việt Nam. Ranh giới phía Tây Bắc của Trấn đến biển hồ Tonlé Sap. Do vậy, cương thổ Việt Nam thời Minh Mạng là rộng lớn nhất trong lịch sử, không chỉ bao gồm phần lớn lãnh thổ Campuchia ngày nay mà còn bao gồm vùng Xiêng Khoảng và một số vùng khác của nước Lào hiện nay.
Từ đó nhiều vùng đất ở Campuchia được gọi bằng như những cái tên Thuần Việt, trong đó Nam Vang chính là cách phiên âm thủ đô Phnom Penh của Campuchia ngày nay. Nhiều người cho rằng đây là một từ Hán Việt, nhưng tra trong khắp các tài liệu ta không thấy được Hán tự của nó. Vậy nhiều khả năng đây chính là một cách phiên âm trực tiếp từ tiếng Campuchia qua tiếng Việt chứ không thông qua Hán ngữ. Hủ tiếu Nam Vang, tất nhiên cũng bắt nguồn từ Campuchia. Đây là món do chính người Khmer gốc Hoa chế ra, gọi là Kuy teav. Về sau, theo đường bộ nối từ Phnom Penh vào Tây Ninh, món ăn dần được phổ biến ở Việt Nam, thành “hủ tiếu Nam Vang”, nhưng cách chế biến đã khác đi nhiều. Muốn thưởng thức hương vị gốc, cần phải ăn tại chính thủ đô Phnompenh.
Do nhiều vấn đề mà thời gian cai quản xứ Cao Miên không được lâu. Vua Minh Mạng là một thiên tài trị quốc, ông có tầm nhìn xa hơn những gì mà các sử gia xưa nay đánh giá. Nói ông có tham vọng về lãnh thổ là chưa chắc đúng, ông từng nói với quần thần rằng “quốc gia chúng ta cần rộng lớn là về phương diện đạo đức”, chứ không tham lam về đất đai. Bởi vậy mà vào năm Minh Mạng thứ 5 (1824), nước Chân Lạp dâng tặng Việt Nam thêm 3 phủ Kỳ Bát, Chân Sâm và Mật Luật để báo ơn triều đình Việt Nam cử quan bảo hộ Nguyễn Văn Thoại giúp Chân Lạp, Minh Mạng không muốn nhận nhưng vì sợ phụ lòng thành của Chân Lạp nên không từ chối hết, chỉ nhận 2 phủ, và nói rõ là giao cho Thoại Ngọc Hầu “quản trị vùng này, cần phải huấn luyện cho nhân dân biết kỹ thuật đánh giặc mới bảo vệ được cương giới”, còn vấn đề thu thuế vẫn để cho quốc vương Chân Lạp tự quản lý.
Vì vậy, việc sáp nhập Chân Lạp vào lãnh thổ Việt Nam là trong cái thế bắt buộc, nếu để Chân Lạp rơi vào Xiêm La thì phần đất phía Nam của nước ta luôn luôn bị đe dọa. Tuy nhiên, thời gian triều Nguyễn cai quản Trấn Tây Thành đã bắt nhiều hoàng thân của hoàng tộc Cao Miên và mang về nước, Các quan lại người Việt sang Trấn Tây Thành thì không ít kẻ lại làm nhiều chuyện trái phép lạm quyền, lạm thế và nhũng nhiễu dân tình. Với thái độ tự đắc và miệt thị triều thần Chân Lạp gây nhiều bất mãn trong dân chúng, việc cai trị Trấn Tây càng ngày càng khó. Người Chân Lạp có cớ nổi loạn đánh phá khắp nơi, chống lại chính sách Việt hóa của triều đình Huế. Em trai Ang Chan là Ang Duong nhân đó dấy binh, lại được người Xiêm hậu thuẫn để can thiệp nội bộ Chân Lạp, nên quan quân ở Trấn Tây luôn phải đánh dẹp hao tổn nhiều binh lực.
Không như vua cha Minh Mạng, Thiệu Trị ít có tham vọng về mở rộng lãnh thổ và khuếch trương thanh thế. Năm 1841, Thiệu Trị vừa lên ngôi, thấy tình hình Chân Lạp bất ổn, dân Chân Lạp chống đối quan lại Đại Nam cai trị, còn đất Nam Kỳ liên tiếp có nổi loạn. Nhân có lời tâu của Tạ Quang Cự xin bỏ đất Trấn Tây Thành, rút quân về giữ An Giang, Vua Thiệu Trị liền nghe theo, truyền cho tướng quân trấn thủ Trấn Tây là Trương Minh Giảng rút quân về. Ngoài ra, Thiệu Trị cũng cho bỏ luôn phủ Quảng Biên và huyện Khai Biên (nay thuộc tỉnh Kampot và Sihanouk Ville).
Nước Cao Miên được lập lại, vua mới là Nặc Ông Đôn (Ang Duong) làm Cao Miên quốc vương, cháu gái là Ngọc Vân làm Cao Miên quận chúa. Nước Xiêm hùng mạnh thay thế Đại Nam để bảo hộ nước Cao Miên. Việc làm này cũng đánh dấu sự từ bỏ tham vọng sáp nhập phần lãnh thổ phía Đông Chân Lạp vào bản đồ Đại Nam. Trương Minh Giảng vì việc này mà quá uất ức nên đã sinh bệnh, qua đời khi vừa rút binh về tới An Giang. Thiệu Trị nhân đó lại giáng thêm tội cho Trương Minh Giảng.
Nước Xiêm và Chân Lạp nhân đó tiếp tục gây hấn, xúi giục người dân tộc nổi loạn trong phần đất Nam Kỳ. Năm 1842, quân Xiêm nhân cơ hội Nam Kỳ có loạn, tiến đến tận Vĩnh Tế để phá rối Đại Nam, dẫn đến cuộc chiến Việt - Xiêm lần tiếp theo. Đến tận năm 1845, sau khi quân Đại Nam tiến công truy đuổi quân Xiêm ngược lên lãnh thổ Cao Miên, hai nước Việt - Xiêm mới ký hòa ước, chấp nhận cùng bảo hộ nước Cao Miên.
Và đó là câu chuyện về Nguồn gốc của cái tên Nam Vang và câu chuyện về Trấn Tây Thành, cảm ơn tất cả các bạn đã theo câu chuyện này.

Lịch sử
/lich-su
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất