Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Môi trường Con người năm 1972 tại Stockholm lần đầu tiên đưa vấn đề môi trường trở thành trọng tâm thảo luận toàn cầu, đặt nền tảng cho các nghiên cứu về tác động môi trường của du lịch. Sau đó, báo cáo Tương lai chung của chúng ta năm 1987 do Ủy ban Thế giới về Môi trường và Phát triển đã công bố khái niệm phát triển bền vững một cách toàn diện và phổ quát. Ngày nay, phát triển du lịch bền vững trở thành định hướng cốt lõi trong chính sách đảm bảo lợi ích kinh tế với bảo vệ môi trường và gìn giữ bản sắc văn hóa địa phương của các quốc gia. Trước thách thức của biến đổi khí hậu và suy thoái môi trường, nhiều quốc gia cũng đang nỗ lực chuyển dịch từ mô hình du lịch đại chúng sang các hình thức du lịch bền vững có trách nhiệm với môi trường, xã hội và cộng đồng.
Tại Việt Nam, tiếp cận về du lịch bền vững chỉ mới được biết đến vào những năm đầu thế kỷ XX, khi mà quốc gia thực hiện hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng. Do đó, sự phát triển hoàn bị hệ thống chính sách, pháp lý về hoạt động du lịch bền vững vẫn đang còn nhiều “bỏ ngỏ” và có “tiềm năng”. Cho đến nay, những bước nhảy vọt và chính sách mang tính đột phá về phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, Việt Nam đã có xác định vai trò của chiến lược phát triển du lịch bền vững. Ngày 7/7/2025 vừa qua, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nhấn mạnh quan điểm của Việt Nam tại hội nghị thượng đỉnh BRICS mở rộng:
"Bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và dịch bệnh là nền tảng của mọi chính sách phát triển đất nước; đây không chỉ là lựa chọn tự tiên, là yêu cầu khách quan mà còn là mệnh lệnh của thời đại"
Nguồn ảnh: Báo nhân dân, 2025
Nguồn ảnh: Báo nhân dân, 2025
Tại sao du lịch bền vững có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của Việt Nam? Quá trình tiếp cận xu hướng du lịch bền vững tại Việt Nam diễn ra như thế nào? Đâu là những chính sách mang tính đột phá trong phát triển du lịch bền vững tại Việt Nam? Bài viết này sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp với các nguồn tài liệu thứ cấp, cụ thể là chủ trương, quan điểm của Đảng và văn bản pháp luật, chính sách của Chính phủ, đồng thời các dữ liệu thống kê phù hợp về hoạt động du lịch. Mục đích làm sáng tỏ sự chuyển biến qua các giai đoạn tiếp cận về du lịch bền vững nhằm phát hiện những đột phá trong chính sách thực hiện, từ đó cung cấp bức tranh tổng quát về nghiên cứu chính sách du lịch bền vững tại Việt Nam.

Đột phá trong nhận thức 

Vào năm 1981, Việt Nam gia nhập Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO). Đây là một bước tiến quan trọng trong quá trình hội nhập quốc tế của ngành du lịch Việt Nam, mở ra cơ hội hợp tác, học hỏi kinh nghiệm quản lý du lịch từ các quốc gia khác, cũng như quảng bá hình ảnh du lịch Việt Nam trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên, do chính sách đối ngoại của Việt Nam thời kỳ đó chưa thực sự đẩy mạnh công cuộc hội nhập quốc tế và tồn tại những khó khăn trong việc thực thi các cam kết du lịch quốc tế, vì thiếu các cơ chế hợp tác thực chất với các quốc gia thành viên khác.
Chỉ đến khi vào những năm 1990, khái niệm du lịch bền vững được đề cập thường xuyên tại Việt Nam khi đất nước thực hiện hội nhập quốc tế mạnh mẽ. Đặc biệt khi trở thành thành viên của ASEAN thì Việt Nam đã có lượng lớn du khách quốc tế tác động tích cực đến các hoạt động du lịch nội địa. Nhận thấy tiềm năng lớn trong các hoạt động du lịch đến kinh tế quốc gia, Việt Nam ban hành Pháp lệnh của ủy ban Thường vụ Quốc hội số 11 ngày 8/2/1999 về Du lịch. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên đề cập rõ ràng đến khái niệm “du lịch sinh thái”, xem đây như một loại hình du lịch quan trọng gắn liền với bảo tồn thiên nhiên và văn hóa địa phương. Pháp lệnh này nêu rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc quản lý và bảo vệ các nguồn tài nguyên du lịch, đặc biệt nhấn mạnh vào việc khai thác hợp lý nhằm phục vụ phát triển lâu dài, tránh gây tổn hại cho môi trường. Mặc dù khái niệm “du lịch bền vững” chưa được trực tiếp nhắc đến, nhưng việc ghi nhận du lịch sinh thái đã thể hiện nhận thức ban đầu về tầm quan trọng của việc cân bằng giữa lợi ích kinh tế với bảo vệ môi trường và xã hội.
Năm 2001, Chính phủ tiếp tục khẳng định cam kết này bằng việc ban hành Quyết định số 97 về Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 2001-2010. Đây được xem là bước đột phá đầu tiên trong việc xác lập rõ ràng hơn định hướng du lịch bền vững. Chiến lược này nhấn mạnh nguyên tắc khai thác tài nguyên du lịch phải đi đôi với bảo tồn di sản văn hóa và bảo vệ môi trường, đồng thời xác định du lịch văn hóa và du lịch sinh thái là hai lĩnh vực mũi nhọn. Đặc biệt, văn bản này còn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao nhận thức cộng đồng, doanh nghiệp và du khách về trách nhiệm bảo vệ môi trường du lịch. Điều đó trở thành điều kiện thiết yếu để đảm bảo sự phát triển bền vững dài hạn. Vô hình trung, chiến lược này kiến dựng hệ thống hành lang pháp lý cốt lõi cho ngành du lịch Việt Nam bắt đầu định hình, thúc đẩy sự bùng nổ của các hoạt động du lịch trong thập niên sau đó.
Biểu đồ 1.1: Số lượng du khách trong và ngoài nước giai đoạn 2000 - 2009
Biểu đồ 1.1: Số lượng du khách trong và ngoài nước giai đoạn 2000 - 2009
Dữ liệu thống kê cho thấy trong giai đoạn 2000-2009, lượng khách nội địa và quốc tế tại Việt Nam đều tăng trưởng đáng kể. Cụ thể, số lượt khách nội địa đã tăng từ 7,67 triệu (năm 2000) lên 46,73 triệu (năm 2009), tức gấp hơn 7,5 lần. Trong khi đó, khách quốc tế tăng từ 2,65 triệu lên 7,59 triệu, tức tăng gần 3,3 lần. Đáng lưu ý, tốc độ tăng trưởng của khách nội địa vượt trội so với khách quốc tế, cho thấy du lịch nội địa đóng vai trò động lực chính của ngành trong giai đoạn này. Tuy nhiên, sự gia tăng nhanh chóng về lượng khách cũng đặt ra thách thức lớn về môi trường, đặc biệt là tình trạng ô nhiễm tại các điểm du lịch do quản lý chưa theo kịp tốc độ phát triển. Thực trạng này đòi hỏi Nhà nước phải xây dựng các chiến lược cấp tiến và dài hạn nhằm bảo vệ tài nguyên du lịch, nâng cao chất lượng dịch vụ và đẩy mạnh quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới.
Trên cơ sở đó, bộ luật hoàn chỉnh về Du lịch được Quốc hội ban hành vào năm 2005. Đáng chú ý, bộ luật đã đưa ra khái niệm cơ bản về du lịch bền vững là “sự phát triển du lịch đáp ứng được các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch của tương lai”. Theo đó, việc thực hiện mô hình du lịch bền vững được xây dựng trên nguyên tắc “quy hoạch, kế hoạch, bảo đảm hài hòa giữa kinh tế, xã hội và môi trường; phát triển có trọng tâm, trọng điểm theo hướng du lịch văn hoá - lịch sử, du lịch sinh thái; bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị của tài nguyên du lịch”. Luật này được đánh giá có vai trò làm rõ hơn các trách nhiệm của nhà quản lý và doanh nghiệp trong việc phát triển du lịch bền vững mà còn đề cao sự tham gia của cộng đồng địa phương vào hoạt động du lịch. Điều này cho thấy một nhận thức rõ ràng hơn từ phía Nhà nước trong việc xem phát triển du lịch không thể tách rời khỏi trách nhiệm bảo tồn văn hóa và môi trường.
Đáng chú ý, các tổ chức quốc tế cũng tham gia vào việc thúc đẩy nhận thức về du lịch bền vững tại Việt Nam. Thông qua sự hỗ trợ của Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO), các dự án về du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng được thực hiện thí điểm ở một số địa phương như thị trấn Sapa, thành phố Hội An, và các tỉnh vùng núi Tây Bắc, góp phần tạo ra sự lan tỏa trong cộng đồng về tầm quan trọng của việc bảo tồn các giá trị văn hóa và tài nguyên tự nhiên gắn với hoạt động du lịch. Đây được coi là bước đầu tiên quan trọng để xây dựng nhận thức của người dân và chính quyền địa phương, làm cơ sở thực tiễn để Nhà nước đẩy mạnh các chính sách hỗ trợ trong các giai đoạn tiếp theo.
Mặc dù các văn bản pháp lý sơ khai và chiến lược quốc gia có khung pháp lý tạo bước đột phá trong nhận thức về hoạt động phát triển du lịch, nhưng ở giai đoạn này các hoạt động du lịch bền vững tại Việt Nam vẫn chưa được triển khai sâu rộng trong thực tiễn. Các nghiên cứu chỉ ra yếu tố nhận thức của cộng đồng, doanh nghiệp và thậm chí cả các cơ quan quản lý địa phương thời kỳ này chủ yếu mới dừng lại ở “mức hiểu biết cơ bản”, “mang tính tuyên truyền”, quan tâm nhiều hơn đến “lợi ích kinh tế” thay vì chuyển biến tích cực về hành vi quản lý và kinh doanh du lịch. Mặt khác, nhận thức của cộng đồng địa phương cũng mới chỉ ở bước đầu, do các chương trình truyền thông và đào tạo về du lịch bền vững vẫn còn hạn chế. Chính quyền địa phương thiếu kinh nghiệm quản lý du lịch sinh thái, dẫn tới việc các mô hình du lịch sinh thái chủ yếu mang tính tự phát và nhỏ lẻ, chưa có các hướng dẫn cụ thể từ cơ quan quản lý nhà nước. Thực trạng này khi đó là chất liệu phản hồi tác động mạnh mẽ đối với các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam về du lịch với mục tiêu chính sách hướng đến phát triển du lịch bền vững nhằm thu hút du khách quốc tế.

Đột phá trong triển khai

Giai đoạn 2011-2020 đánh dấu một bước chuyển quan trọng trong chính sách phát triển du lịch Việt Nam, đặc biệt là trong việc hiện thực hóa du lịch bền vững. Nếu như trước đây, phát triển du lịch chủ yếu tập trung vào tăng trưởng số lượng khách nội địa và doanh thu trong nước, thì trong giai đoạn mới các chính sách du lịch đã có sự điều chỉnh theo hướng bền vững nhằm thu hút nguồn vốn nước ngoài đầu tư, du khách quốc tế là điều kiện cơ bản nhằm phát triển kinh tế quốc gia. Vì vậy, ưu tiên trong việc hấp dẫn du lịch quốc tế tại Việt Nam là xây dựng mô hình du lịch bền vững. Trên cơ sở đó, quyết định số 2473/QĐ - TTG được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt về việc thực hiện “Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” đã thể hiện rõ định hướng này khi nhấn mạnh việc phát triển du lịch phải gắn với bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và di sản văn hóa, đồng thời đảm bảo phát triển du lịch theo vùng để tránh tình trạng khai thác quá mức. Đặc biệt, chiến lược cũng đề xuất các biện pháp như sử dụng công nghệ trong quản lý tài nguyên du lịch nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường. Thực tế đã có sự chuyển biến rõ rệt qua lượng du khách quốc tế đến Việt Nam.
Biểu đồ 2.1: Tổng số lượng khách du lịch trong và ngoài nước giai đoạn 2010 – 2020
Biểu đồ 2.1: Tổng số lượng khách du lịch trong và ngoài nước giai đoạn 2010 – 2020
Biểu đồ 2.2: Tổng doanh thu của cơ sở lưu trú và lữ hành giai đoạn 2011 – 2019
Biểu đồ 2.2: Tổng doanh thu của cơ sở lưu trú và lữ hành giai đoạn 2011 – 2019
Bảng số liệu cho chúng ta thấy những dữ kiện quan trọng về tốc độ tăng trưởng của số lượng khách du lịch tại Việt Nam. Về khách trong nước, tăng trưởng ổn định với mức tăng trung bình khoảng 10 triệu lượt khách mỗi năm. Quan trọng nhất, lượng khách quốc tế tăng từ 8,637 triệu lượt (2010) lên 17,31 triệu lượt (2019), tức tăng gần gấp đôi. Giai đoạn 2015 - 2019 chứng kiến mức tăng trưởng mạnh nhất, với trung bình tăng 1-2 triệu lượt khách mỗi năm. Tuy nhiên, năm 2020 đánh dấu một cú sốc lớn do đại dịch COVID-19, khiến lượng khách cả trong và ngoài nước sụt giảm một nửa so với năm 2019. 
Bên cạnh những định hướng chiến lược quan trọng, Việt Nam cũng đã ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về du lịch bền vững vào năm 2012. Mục tiêu là cụ thể hóa các nguyên tắc phát triển bền vững trở thành tiêu chuẩn rõ ràng, có hệ thống, quy trình để doanh nghiệp và địa phương thực hiện. Bộ tiêu chí này tập trung vào ba trụ cột chính: kinh tế, xã hội - văn hóa, và môi trường. Cụ thể, tiêu chí kinh tế yêu cầu các doanh nghiệp du lịch đảm bảo sự phát triển lâu dài và mang lại lợi ích cho cộng đồng địa phương. Trong khi đó, tiêu chí xã hội - văn hóa khuyến khích gìn giữ bản sắc văn hóa và thúc đẩy mô hình du lịch cộng đồng. Cuối cùng, tiêu chí môi trường đặt ra những yêu cầu nghiêm ngặt về quản lý rác thải, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và sử dụng tài nguyên một cách hợp lý. Nhìn chung, bộ tiêu chí này đã tạo ra khung pháp lý cơ sở định hình hoạt động doanh nghiệp có kết quả hơn trong việc phát triển du lịch bền vững. Tuy nhiên trên thực tế, phát triển bền vững trong các cơ sở lưu trú du lịch chưa được giải quyết nghiêm túc, sao cho vừa kinh doanh với hiệu quả cao và thay đổi cách quản lý, nghiên cứu các công nghệ mới và đảm bảo mức độ bao phủ toàn diện ở các địa phương có du lịch trọng điểm.
Do đó, hoạt động du lịch cần thiết phải đặt dưới sự chỉ đạo, quản lý toàn diện bởi hệ thống chính trị nhằm đồng bộ hóa sự phát triển vượt bậc của lĩnh vực du lịch. Trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị đã chủ trương du lịch là “ngành kinh tế mũi nhọn” và phải phát triển theo hướng bền vững, có trách nhiệm. Đây là cơ sở mang tính đột phá, bước ngoặt khi Đảng đã xác định vấn đề du lịch bền vững vào nghị quyết. Chủ trương này đưa ra những cam kết rõ ràng hơn về bảo vệ môi trường, phát triển sản phẩm du lịch xanh và nâng cao lợi ích kinh tế cho cộng đồng địa phương. Một điểm đáng chú ý trong nghị quyết là cam kết hỗ trợ chính sách cho các doanh nghiệp phát triển mô hình du lịch thân thiện với môi trường, bao gồm việc giảm thuế và cung cấp các khoản vay ưu đãi cho những dự án du lịch xanh. Mặc dù vậy, việc triển khai thực tế vẫn gặp phải nhiều khó khăn, đặc biệt là sự khác biệt trong mức độ thực thi giữa các địa phương, nơi mà một số khu vực đã có chiến lược phát triển rõ ràng trong khi các khu vực khác còn thiếu nhân lực và kinh phí để áp dụng mô hình du lịch bền vững. Ngoài ra, trong quá trình triển khai, nhiều địa phương vẫn gặp khó khăn trong việc cân đối giữa phát triển kinh tế và bảo vệ tài nguyên, đồng thời các doanh nghiệp du lịch chưa thực sự có sự đầu tư có hệ thống vào mô hình du lịch bền vững. Theo số liệu công bố ngày 16/2 từ Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch, trước Covid-19 năm 2019, 85 triệu khách nội địa xả ra gần 61.000 tấn rác thải nhựa, 18 triệu lượt khách quốc tế thải hơn 55.200 tấn.
Giai đoạn 2011-2020 là bước ngoặt quan trọng trong việc chuyển hóa lý thuyết về du lịch bền vững thành hành động thực tế. Những chính sách quốc gia về du lịch bền vững đã đặt nền móng quan trọng và tạo sự đột phá trong việc khai thác tiềm năng hoạt động du lịch. Dù vậy, hình thức du lịch bền vững vẫn là thách thức trong khi thực hiện giữa các địa phương chưa được đồng bộ và mang tính bổ trợ, kết nối về tiêu chuẩn bền vững. Điều này đặt ra yêu cầu sự giám sát và cơ chế khuyến khích mạnh mẽ để đảm bảo du lịch bền vững không chỉ là chiến lược tạm thời mà còn trở thành mô hình phát triển chủ đạo của ngành du lịch Việt Nam.

Đột phá trong chiến lược 

Trong bối cảnh đại dịch COVID-19, du lịch toàn cầu đang dần hình thành xu hướng mạnh mẽ hơn trong việc hướng đến phát triển du lịch xanh, du lịch số. Kể từ tháng 3/2020, Việt Nam đã tạm dừng hoạt động đón khách quốc tế, chỉ còn lại nhóm khách nội địa nhưng không đáng kể vì các đợt giãn cách xã hội được Nhà nước thực hiện chặt chẽ khi dịch bùng phát. Vì vậy, chính phủ Việt Nam đã đưa ra nhiều chính sách tạo động lực nội tại nhằm cơ cấu lại ngành du lịch phát triển theo hướng trọng tâm bền vững, gắn kết với bảo vệ môi trường, bảo tồn văn hóa, thúc đẩy du lịch cộng đồng và ứng dụng công nghệ số. Nổi bật là Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030 ban hành theo Quyết định 147/QĐ-TTg (2020). Chính sách này đặt mục tiêu du lịch vào năm 2030 trở thành ngành kinh tế mũi nhọn với đóng góp 15-17% GDP, tạo ra khoảng 8,5 triệu việc làm, tăng trưởng bình quân 8% - 9%/năm, tăng trưởng bình quân về khách quốc tế từ 8% - 10%/năm và khách nội địa từ 5% - 6%/năm. Phát triển du lịch gắn với bảo vệ môi trường, khuyến khích du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng và du lịch nông nghiệp. Chiến lược này đã tạo điều kiện tăng cường sự phục hồi sau đại dịch cho ngành du lịch tại Việt Nam và cho thấy tầm nhìn chiến lược trong các hoạt động du lịch bền vững. Quan trọng nhất, chiến lược này có tính đột phá trong tầm nhìn về 9 nhóm giải pháp trọng tâm mà ngành du lịch Việt Nam phải thực hiện trong cấp bách bao gồm: “Đổi mới tư duy về phát triển du lịch; hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển du lịch; phát triển kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch; phát triển nguồn nhân lực du lịch; phát triển và đa dạng hóa thị trường khách du lịch; phát triển sản phẩm du lịch; đẩy mạnh xúc tiến, quảng bá, xây dựng thương hiệu du lịch; ứng dụng khoa học và công nghệ; quản lý nhà nước về du lịch.”
Nhằm cụ thể hóa các mục tiêu phát triển bền vững, Chính phủ đã ban hành Quyết định 933/QĐ-TTg (2022) với các mục tiêu chính: Giảm phát thải khí nhà kính trong ngành du lịch xuống 30% vào năm 2030. Khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo, giảm thiểu rác thải nhựa trong các khu du lịch. Nội dung của Quyết định này là khung tiêu chí thiết lập các thang đo và bộ công cụ quốc gia để đánh giá về hoạt động du lịch du lịch bền vững. Thậm chí, kế hoạch trong Quyết định còn thiết lập khung kết quả thực hiện theo từng giai đoạn làm cơ sở để rà soát, đánh giá việc thực hiện Quy hoạch hệ thống du lịch, xem xét điều chỉnh, bổ sung các nhiệm vụ, giải pháp để đạt được mục tiêu phát triển đã đề ra.
Sau đại dịch COVID-19, ngành du lịch Việt Nam tiếp tục gặp nhiều khó khăn do suy giảm lượng khách quốc tế, tài chính doanh nghiệp du lịch bị ảnh hưởng nghiêm trọng và thiếu hụt nhân lực chất lượng cao. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 82/NQ-CP năm 2023 để khắc phục tình trạng này trong đó bao gồm: gói hỗ trợ tài chính hơn 5.000 tỷ đồng cho các doanh nghiệp du lịch để chuyển đổi sang mô hình kinh doanh bền vững. Phát huy công tác chuyển đổi số trong du lịch, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu lớn (Big Data) để nâng cao trải nghiệm khách du lịch. Bên cạnh việc phát triển du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng nhằm tăng cường tính bền vững của ngành. Sau khi chính sách này được thực hiện, lượng khách du lịch nội địa đã tăng 20% và khách quốc tế tăng 30% trong năm 2023 tổng thu 678.30 (nghìn tỷ đồng) và đến năm 2024 tăng trưởng 23,9% với tổng thu 840.00 (nghìn tỷ đồng) cho thấy hiệu quả của chính sách đối với sự phục hồi của ngành.
Hơn nữa, Việt Nam đã tham gia cam kết trong Hội nghị Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP26) vào tháng 11 năm 2021 tại Glasgow, Scotland. Tại hội nghị này, Chính phủ Việt Nam đã tuyên bố cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, trong đó nhắc đến du lịch là một trong những ngành kinh tế cần thực hiện chuyển đổi mạnh mẽ để thích ứng với các yêu cầu về phát triển xanh và giảm thiểu tác động đến môi trường. Rõ ràng, sự thay đổi mang tính đột phá trong chính sách thể hiện tầm nhìn chiến lược trong việc phát triển du lịch bền vững của Việt Nam, với trọng tâm là cam kết mạnh mẽ hơn về phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Mặc dù cam kết tại COP 26 là một bước tiến lớn, đóng vai trò là động lực quan trọng để Việt Nam tăng tốc hội nhập với xu hướng du lịch xanh toàn cầu, nhưng nguồn lực tài chính vẫn còn hạn hẹp để hỗ trợ các doanh nghiệp chuyển đổi và sự thay đổi nhận thức của các nhà đầu tư trong ngành du lịch. 
Về phương diện ngoại giao, Việt Nam đang mở rộng ngoại giao là đối tác quan trọng với nhiều quốc gia có du lịch phát triển, đồng thời là quốc gia tham gia tích cực trong các hội nghị đa phương, tổ chức quốc tế về hoạt động du lịch bền vững. Điều này có thể là cơ hội để các địa phương, doanh nghiệp có cơ hội trao đổi, tọa đàm về kinh nghiệm phát huy mô hình du lịch bền vững đa dạng. Năm 2024, công ty dịch vụ Lữ hành Saigontourist đã được trao danh hiệu Travelife Partner. Công ty này đã tiên phong cho hoạt động du lịch bền vững quốc tế, là động lực quan trọng nhằm liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài nước trong việc tổ chức các chương trình hoạt động bảo vệ môi trường trên quy mô lớn. Về chiến lược phát triển du lịch của quốc gia, Việt Nam đã triển khai xu hướng du lịch bền vững trong thúc đẩy công tác bảo tồn di sản văn hóa kết hợp phát triển du lịch cộng đồng địa phương. Trong đó, vai trò du lịch cộng đồng về các làng nghề truyền thống là “tài nguyên” nổi bật của thị trường du lịch nội địa. Tính đến đầu năm 2025, Việt Nam có khoảng 1.490 làng nghề, trong đó có 300 làng nghề truyền thống, giá trị kinh tế từ sản phẩm xuất khẩu của các làng nghề khoảng 600 triệu USD/năm. Bên cạnh đó, Việt Nam có hơn 40.000 di tích và thắng cảnh, trong đó hơn 3.000 di tích được xếp hạng di tích quốc gia, 5.000 di tích được xếp hạng cấp tỉnh. Đây rõ ràng là tiềm năng to lớn đối với sự phát triển của du lịch bền vững của Việt Nam. Các chính sách phát triển du lịch của Việt Nam hướng đến phát huy những giá trị truyền thống mang tính bền vững trong các hoạt động du lịch. Đó là giá trị bản sắc của quốc gia thông qua hoạt động du lịch đối với du khách quốc tế. Vì vậy, những chính sách du lịch mang tính chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam thể hiện tính đột phá trong chiến lược về việc nhìn nhận các giá trị nội lực để phát triển trong các cam kết quốc tế.

Kết luận

Du lịch bền vững đang trở thành xu hướng chủ đạo trong các mục tiêu chính sách phát triển bền vững tại Việt Nam. Vai trò của du lịch có ý nghĩa nền tảng trong việc đóng góp nguồn động lực mới cho nền kinh tế quốc gia phát triển. Điều này là cơ sở tiền đề hoạch định chính sách, văn bản pháp luật nhằm tạo ra sự đan kết trong việc hỗ trợ phát triển của hình thức du lịch bền vững tại Việt Nam. Từ việc xây dựng cho đến thực thi, các chính sách, nghị quyết, văn bản pháp luật về phát triển du lịch được ban hành qua các giai đoạn đều có những nội dung mang tính đột phá mới. Từ đột phá trong nhận thức về việc định hình vai trò của du lịch như lĩnh vực “mũi nhọn”, cho đến đột phá trong thực thi với những tiêu chuẩn quốc tế và cách thức triển khai mô hình du lịch bền vững quyết liệt, sau đó đề xuất những chiến lược về sự phát huy tiềm năng du lịch truyền thống với xu hướng phát triển bền vững đặc thù ở Việt Nam. Rõ ràng, những nội dung về các chính sách thể hiện vai trò cầu nối chặt chẽ giữa chính quyền, doanh nghiệp và cộng đồng địa phương nhằm thực hành du lịch bền vững không chỉ là một định hướng chiến lược mà còn trở thành mô hình phát triển quốc gia, mang lại lợi ích hài hòa cho nền kinh tế, môi trường và xã hội Việt Nam. Từ đó, khi các chính sách du lịch bền vững được thực hành đồng bộ và hiệu năng hơn, đồng thời mở rộng đến việc kết hợp giữa chính sách quốc gia, sáng kiến khu vực tư nhân và hội nhập quốc tế sẽ đóng vai trò then chốt để đưa Việt Nam trở thành điểm đến du lịch bền vững hàng đầu khu vực Đông Nam Á./.