Thời điểm tạm ‘sống chậm’ do dịch bệnh giúp chúng ta đủ rảnh rang ít nhiều để ngẫm nghĩ về cuộc đời và soạn mới cũng như củng cố những âu lo của riêng chính ta đối với cuộc sống này. 
<i>Tiếng thét</i>&nbsp;(<a href="https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BA%BFng_Na_Uy">tiếng Na Uy</a>:&nbsp;<i>Skrik</i>) của danh họa người Na Uy&nbsp;<a href="https://vi.wikipedia.org/wiki/Edvard_Munch">Edvard Munch</a>
Tiếng thét (tiếng Na UySkrik) của danh họa người Na Uy Edvard Munch
Cuộc thi mà tôi vô tình đọc được, cũng như một số bài dự thi mà tôi cố tình đọc thử để tham khảo cách thức viết bài khiến tôi vô cùng hào hứng và nhụt chí gần như là đan xen cùng lúc. 
Hào hứng bởi chủ đề liên quan đến Triết học-một lĩnh vực khá thu hút và dường như sẽ cộp mác cho vài liên tưởng gì đó cao siêu và xa vời đáng ngưỡng mộ. Nội dung chủ đề thì có vẻ khá thực tế và sờ sờ trước mắt để đủ sức cho tay ngang viết lan man và thỏa tiêu chí đề bài. Nhưng đồng thời cũng chùn bước và ngán ngẩm bởi độ khó mà nhiều bài viết đã thêm thắt nơi Triết học, khiến cho người đọc (có lẽ) tăng thêm một nỗi lo sợ về tình trạng trì trệ đi phần nào của não bộ trong khoảng thời gian hạn chế tiếp xúc với ‘xã hội văn minh’ ngoài kia và sự tận dụng không thoả đáng với quỹ thời gian quý báu tình cờ đang có được. Lẽ dĩ nhiên, là với chủ đích nâng cao tầm quan trọng thiết thực của Triết học trong đời sống qua những luận ngữ sắc sảo và hàn lâm, Triết học đã được đẩy lên tới sự cao siêu và xa vời như nó vốn bị lầm là thế và xa rời vời vợi so với chủ đề về hạn chế nỗi lo âu cần khai triển. 
Tôi đã phải tự vấn, nhiều lần, Triết học là gì thế, tôi mơ hồ ngay cả con chữ tôi đang đọc: Triết - học. Thế nên, tôi xem đây là sự hoảng loạn gợi mở đầy thú vị để bắt tay ngay vào công tác thực hành ‘cái gọi là Triết’ trong ‘đời sống của tôi’.
Triết học, tiếng Anh là Philosophy theo tôi biết có nghĩa từ xa xưa để chỉ tình yêu tri thức, là một môn học nghiên cứu về Triết theo nghĩa tiếng Việt. Gộp chung, tôi có thể hiểu đây là một hành động đào sâu thêm về niềm say mê với hiểu biết hay kiến thức. Và, để bám sát lời gợi ý từ đề bài, tôi muốn hiểu rõ liệu ‘Hiểu biết’ có xua tan được những lo sợ không rõ ràng hoặc có giải toả được nỗi bất an vô định nào đó trong tâm trí hay không. Đến đây thì tôi nghĩ Triết học có vẻ dễ đón nhận hơn rồi và nếu may mắn, tôi cũng sẽ cảm nhận được từ Triết sự giải vây khỏi những bộn bề của cuộc sống như triết gia Seneca có viết, “…không có triết, cuộc đời ta sẽ toàn bận rộn và lo toan…”
Giờ thì tôi muốn ngẫm rõ thêm về ‘sự hoảng loạn tự thân’ hay rõ rành như Seneca thừa nhận: “…ta hoảng loạn bởi chính những suy nghĩ của mình.” Nỗi lo sợ đến từ cả bên trong và bên ngoài chúng ta. 
Đối với nỗi lo sợ đến từ bên ngoài, tôi nghĩ thường là dựa trên thực tế, thì e rằng Triết học khó lòng giúp chúng ta nhiều như mong đợi. Cái nguy nan hiện hữu trước mắt, và theo phản xạ tự nhiên, chúng ta cần phải sợ. Việc sợ sẽ không chỉ giúp chúng ta phân định được ranh giới giữa có lao xuống vực hay không, mà còn thúc đẩy chúng ta phải có một hành động tương thích để không bổ nhào vào nỗi khiếp sợ hay để sự hãi hùng nào đó kịp chộp lấy. Trong trường hợp này, sự hiểu biết không cần quá sâu sắc đã giúp chúng ta rất nhiều. Kiến thức và kinh nghiệm là công thức hoàn hảo để đánh bật tất cả trở ngại, rồi khi đó nỗi sợ bớt dần và phần nào tan biến. Ở bước này, chỉ cần vài phần nhỏ trong ‘Hiểu biết’ đã mang lại giá trị đáng kể.
Triết học đã không cần nhúng tay vào quá sâu mà nếu có, thì rủi chúng ta có dừng lại và ‘moi móc’ thêm hiểu biết của chúng ta về việc lao xuống vực liệu có dẫn tới cái chết thực sự hay liệu nỗi nguy khốn có bằng cách nào đó bị triệt tiêu bởi những luồng tư tưởng của chúng ta lúc này. Kết cục là, Triết học có thể bằng một trở lực không tưởng gạt phăng phần hành động tương ứng như đã nói ở trên để chỉ giữ lại nỗi sợ lơ lửng chơi vơi, và rồi (có lẽ) chúng ta khốn thật, chúng ta sẽ đẩy mình vào đường chết một cách đầy cao ngạo như nhiều ‘triết gia-cực đoan’ nào đó đã từng thử. Ở bước này, Triết học góp phần ‘hiểu biết cơ bản’ để ngăn chặn quá trình đào sâu tư duy một cách vô tội vạ.
Tiếc thay, Triết học không phải cứu cánh để đấu với những hoảng loạn từ bên ngoài. Triết học cũng không phải là phương án tuyệt hảo để đối chọi với dịch bệnh, thiên tai hay những khủng hoảng liên quan đến tài chính…Cách vận dụng chệch choạc này đã góp phần tước Triết học ra xa đời sống cộng đồng hơn bởi hiệu quả tiêu cực phần nhiều mà nó mang đến cũng như tô đậm độ khó không đáng có dành cho một điều quá đỗi bình dị. Vậy, đối với nỗi lo sợ đến từ bên ngoài, điều khiến chúng ta hoảng loạn hoá ra lại là sự thiếu nhận thức về một hành động tương ứng tiếp theo; và vì chính thời khắc quyết định không được chần chừ đó, tâm trí chúng ta (có thể) lại đầy ắp những suy nghĩ hoảng loạn, gây bởi sự thiếu hiểu biết căn bản, về một ‘cận cảnh’ không tránh được.
Đối với nỗi lo sợ đến từ bên trong, tôi nghĩ thường là không dựa trên thực tế, thì tôi gợi ý Triết học sẽ là một sự lựa chọn đáng khích lệ. Nói đến nỗi sợ bên trong, không ngạc nhiên khi nhiều người sẽ cho rằng nó sẽ hạn hẹp hơn và bị gói gọn bởi những lằn ranh quá đỗi hiển nhiên: cơ thể con người hay bộ óc chất chứa suy tư. Tôi cho rằng đó là một sự nhầm lẫn. Hoá ra cái bên trong tôi muốn đề cập nó lớn hơn cả cái chính tôi có thể tưởng tượng ra được, mà đã dính đến tưởng tượng thì không thể tô vẽ một ranh giới nào hiện hữu cả, chỉ một điều chắc chắn là nó lớn hơn rất nhiều cái bên ngoài. Và với trường hợp này, Triết học đã thực sự toả sáng với đúng bản chất của nó: sự say mê tri thức và lòng ham bất tận trong khát khao thâu tóm tận cùng hiểu biết đã xây cất nên một thành trì hoảng loạn đủ loại, đồng thời cũng chắp đôi cánh tự do bay vút ra khỏi bất kì sự ràng buộc nào một người vừa mới có thể nghĩ đến. Và vì tri thức hay sự hiểu biết như ‘trang sức’ được gắn kết với Triết học, nó quả thật mang đôi cánh với nguồn sáng rộng khắp bao hàm cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Một điều chắc chắn dù trong hay ngoài: chúng ta không còn sợ điều chúng ta biết và hiểu. 
Nói về sự hoảng loạn trong thành trì này, Triết học đã khôn khéo khi núp bóng rất nhiều khía cạnh (Tôn giáo, Tâm lý, Chính trị, Đạo đức,…) để bốc cao mãi ‘ngọn lửa hoảng loạn’ nhằm thôi thúc và tạo thành nhiên liệu cho lòng say mê đào sâu tri thức-hơn-nữa được trường tồn và cũng để đẩy lùi cái gọi là ‘hoảng loạn tự thân’. Thế nên, hệ quả là chúng ta hoảng loạn với chính những suy nghĩ của mình. Cái khác ở đây, chúng ta không hoảng loạn ở giữa lằn ranh chọn lựa liệu sống hay chết mà là ở giữa lằn ranh quyết định liệu nên gán ý nghĩa hơn cho sống hay chết. Ta choáng ngợp bởi cái luồng tư tưởng ta xấn đến, đồng thời ngợp ngụa bởi những dòng suy nghĩ vô định xâm lấn ta. Ta cố kiểm soát nó trong hoảng loạn và cũng hoảng loạn nghĩ suy về việc nó kiểm soát lại ta. 
Thế rồi, đối với nỗi lo sợ đến từ bên trong, nút thắt là tận cùng, chỉ tồn tại một hoảng loạn chung cho tất thảy: tri thức tích góp không phải là để đạt đến sự thông tuệ khai mở năng lực đoán định vạn vật, mà là chìa khoá khai phá điểm giác ngộ ra rằng năng lực đoán định chính là trở ngại đạt đến trí huệ thực sự. Đây là nỗi hoảng loạn sâu xa, thiên biến vạn hoá qua mỗi giai đoạn của mỗi cá nhân khác nhau. Thế cho nên, Triết học là phạm trù cá nhân, thuộc về bản thể bên trong, và giờ đây nó thành trò tự chơi luẩn quẩn một mình. Vậy liệu chúng ta có cần lo sợ trước một trò chơi do chính ta tạo ra, luật lệ ta đưa ra và giới hạn ta định đoạt ? 
<i><a href="https://vi.wikipedia.org/wiki/De_humani_corporis_fabrica">De humani corporis fabrica</a></i>&nbsp;("Về cấu trúc cơ thể người") của Andreas Vesalius
De humani corporis fabrica ("Về cấu trúc cơ thể người") của Andreas Vesalius
Tóm lại, Triết học cốt mang đến sự hoảng loạn. Sự hoảng loạn là ‘yếu tố cần’ để chúng ta nhanh chóng đưa ra những phương án thoả đáng cho nỗi bất an từ bên ngoài, và là ‘yếu tố đủ’ để tạo nên động lực đòi hỏi chúng ta tiếp tục đào sâu thêm nhận thức và thấu triệt những nỗi bất an từ bên trong một cách sâu sắc. Rồi sau đó, Triết học với thứ ‘trang sức cao cấp’ của nó lại là chìa khoá cho mọi lao cùm giam giữ tất thảy nỗi lo lắng bất an hay những ‘hoảng loạn hiện sinh’: sự minh triết. Vì vậy, không ngừng trau dồi sự hiểu biết (thông qua muôn vàn phạm trù rất đỗi bình thường mà Triết học bao hàm) chính là đang đưa cái bị gắn mác là cao siêu, trúc trắc vào thực hành trong đời sống; duy trì tình yêu với tri thức chính là đương thực hành cái gọi là Triết học.
Trên hết, Triết học không dựng sẵn một cái đích hoành tráng nào đó để một ai phải lần theo nương đến, đây là không gian với những luồng tư tưởng cá nhân, được hào phóng và vô tư chia sẻ với ‘thế giới bên ngoài’ để cùng chiêm ngưỡng và tiến bộ. Chúng ta không nhất thiết phải viện dẫn một tư tưởng vĩ đại nào đó để tăng trọng lượng cho ‘Triết học’ bên trong chúng ta, cái chân lí luôn luôn đúng là cái chỉ duy nhất và luôn hiện hữu thường hằng nơi mỗi chúng ta.
Tôi sẽ kết với một câu nửa đùa rằng, các triết gia tầm cỡ là những người khôn khéo trong việc nhanh tay đặt tên hay giành nói ra những điều quá đỗi dung dị mà ai ai cũng chưa kịp nhớ đến một cách táo bạo, và sau đó bằng sự ranh mãnh của thứ ‘nghệ thuật vị kỷ’, họ tô son tên tuổi mình lên sử sách một cách đầy thuyết phục.