2. Nấu sói là một nhu cầu của nội tâm con người
Trước tiên, tôi khẳng định, nói xấu người khác có thể được coi là một nhu cầu khá chính đáng của con người
Quay trở lại với khái niệm về nói xấu: Gossip
Gossip – 1 thuật ngữ chỉ vệc là lời đồn, chuyện tầm phào, chuyện phiếm về người khác”, “tán gẫu, bàn tán về người khác, thường khi họ vắng mặt”. Điểm cốt lõi của gossip là nội dung cá nhân của một người được truyền đạt không chính thức, thường pha yếu tố cảm xúc hoặc đánh giá, và không nhất thiết đã được xác thực.
Như vậy nói xấu, bắt đầu từ nhu cầu giao tiếp xã hội của con người, hai hoặc ba người trở lên, ngồi với nhau, và họ cần 1 câu chuyện, 1 chủ đề để nói chung, bàn luận, và để thấy nhóm trở lên gắn kết, hoặc đơn giản chỉ là để tương tác, trong các câu chuyện có thể nói chung, thì nói xấu người khác, vô hình trung lại khiến câu chuyện trở nên mặn mà, hấp dẫn nhất, và khiến những người trong nhóm đó thấy gắn kết nhiều nhất ( nhóm chơi 3 người trở lên, thì kẻ vắng mặt là kẻ bị đem đi nấu sói)
Nhưng tại sao trong xã hội Việt, cuộc nói chuyện về kẻ vắng mặt luôn nhuồm mùi “ nấu sói” mà không phải chỉ là khen ngợi và tán dương họ? hoặc tại sao cuộc bàn tàn này luôn pha yếu tố cảm xúc, đánh giá định kiến, với những thông tin không xác thực
Nguyên nhân nằm ở nội tâm và đúng hơn là phần vô thức của con người ( vô thức theo định nghĩa của S.M.Freud và G.K. Jung)
Con người hay bất kỳ mọt sinh vật sống nào đều có một cơ chế để bảo vệ sự sinh tồn của mình, gọi là “cơ chế phòng vệ”, con người giờ đây không phải “phòng vệ’ để sinh tồn trong tự nhiên ( bởi đời sống đã quá tiện nghi) nhưng con người vẫn bật chế độ “phòng vệ” lên mức cảnh giác cao độ để sinh tồn trong xã hội. Thấy thua kém người khác, thấy tự ti, thấy mất mặt, thấy sợ hãi, khó chịu, đau khổ… Tất cả đều khiến con người bật cơ chế phòng vệ. Có một nghìn lẻ một cơ chế phòng vệ, và “nói xấu người khác” cũng là một cơ chế phòng vệ. Nói xấu người khác là một cơ chế bù trừ của não bộ trong vô thức, Khi một người cảm thấy mình yếu kém, thiếu hụt hoặc bất an ở một lĩnh vực nào đó, họ sẽ tìm cách “bù” bằng việc thể hiện hoặc phóng đại (khả năng thực hoặc ảo), và bằng cách hạ thấp người khác xuống. Điều này lý giải tại sao con người cảm thấy vị thế xã hội thấp sẽ tìm cách hạ thấp người khác bằng lời nói để nâng cao vị thế tương đối của mình. Cơ chế bù trừ của não bộ là một mô thức ứng xử được hình thành trong não con người qua những trải nghiệm tuổi thơ, cách giáo dục gia đình, ảnh hưởng xã hội, những va vấp cuộc đời, và được củng cố trong quá trình lớn lên. Thói quen nói xấu đã trở thành một mô thức ứng xử trong não nếu 1 đứa trẻ sống trong môi trường có nhiều yếu tố tiêu cực.
Một lưu ý rất lớn là, người nói xấu thường không nhận thức được là mình đang nói xấu, lúc đó họ tiến hành “nấu sói” họ luôn chỉ nghĩ là mình đang buôn chuyện vô hại, hoặc họ cảm thấy, cần nhân danh sự thật, nhân danh công lý, để lên án những thứ sai trái nào đó, để dạy dỗ, thanh tẩy sự ô trọc của xã hội. Với cơ chế nói xấu- bù trừ này, trong vô thức con người sẽ cảm thấy yên tâm, an toàn hơn khi thấy xung quanh mọi người cũng như nhau cả thôi, đầy rẫy chuyện xấu xa, còn tốt đẹp chỉ là áo khoác bên ngoài (Hơn nhau tấm áo manh quần, cởi ra mình trần ai cũng như ai)
tranh của Dali- mình thấy tranh ông ý có gì đó giễu nhại xã hội nên lấy làm tranh minh hoạ cho bài viết
tranh của Dali- mình thấy tranh ông ý có gì đó giễu nhại xã hội nên lấy làm tranh minh hoạ cho bài viết
3. Nấu sói, phương thức gắn kết xã hội của người Việt
Văn hoá làng xã ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam đã trở thành một mảnh đất màu mỡ cho văn hoá “nấu sói” phát triển “rực rỡ”
- Văn hoá làng xã của người Việt là một kiểu quan hệ có sự gắn bó lâu dài, ít biến động, thay đổi, nên tích tụ khá nhiều lớp thông tin ngầm, nhiều quy ước, luật lệ gầm trong cộng đồng, chúng ngấm vào vô thức tập thể tạo có môi trường giao tiếp đậm đặc (High-context communication)
(Theo Edward T. Hall (1976) – với phân loại nổi tiếng High-context communication / Low-context communication, nhấn mạnh sự khác biệt văn hóa trong cách sử dụng bối cảnh:High-context (văn hóa Á Đông): thông điệp ẩn nhiều trong bối cảnh, mối quan hệ, phi ngôn từ. Low-context (văn hóa Âu – Mỹ): thông điệp trực tiếp, rõ ràng trong ngôn từ.)
Việt Nam là kiểu văn hoá ngữ cảnh cao (giao tiếp đậm đặc) không quen giao tiếp thẳng thắn, con người dễ tự ái, mất mặt. Nên văn hoá duy trì một kiểu: nói vòng,nói tránh, ám chỉ để tránh xung đột trực diện, việc giữ hoà khí đến mức cực đoan đã tạo tạo ra một sự dồn nén bức bối cho con người Những cái xấu, cái dở không dược phép nói thẳng vào mặt nhau…Vì thế mà nhu cầu giải dồn nén bằng việc “nói xấu” của người Việt rất cao. Lời đồn và “nói xấu” dễ tồn tại dưới dạng ẩn ý, (ai cũng hiểu chỉ một người không hiểu). Môi trường giao tiếp đậm đặc khiến tin đồn lan nhanh, con người càng bị bưng bít, càng bị buộc phải giữ hoà khí (bằng mặt mà không bằng lòng) đã luôn luôn bị rơi vào trạng thái thèm khát sự kịch tính, và những yếu tố kích hoạt phần xấu xa trong vô thức. Những từ ngữ : hóng phốt, hít drama…. ra đời như để thể hiện cơn khát thèm những thứ đôc hại ( sốc, sếch, siếc) của người Việt.
Lịch sử thống trị của Nho giáo suốt 1000 năm phong kiến cũng là một nguyên nhân khiên “nói xấu” trở nên khá nghiêm trọng về mặt tác động xã hội. Nho giáo là một học thuyết thiên về giáo dục đạo đức cho con người. “ Tu thân tề gia, trị quốc” là đạo của đấng nam nhi, người phụ nữ thì phải “công , dung ngôn hạnh”. Khổng Tử đã mong rằng việc làm cho mọi thứ trong xã hội trở nên “ chính danh” ( đúng ra đúng- sai ra sai, không chấp nhập trạng thái mập mờ) sẽ đưa xã hội vào một trật tự xã hội tốt đẹp nhất. Vì thế mà tư duy đạo đức đen trắng gần như trở thành 1 kiểu căn tính hành xử của người Việt, Đây là một kiểu suy nghĩ cực đoan, tuyệt đối hóa vấn đề, đơn giản hóa và cảm tính (tức là không có chỗ cho sự thỏa hiệp hay đa chiều, luôn nhìn nhận sự việc theo hai thái cực đối lập nhau, bỏ qua sự phức tạp vốn có của sự vật, hiện tượng và thường gắn với cảm xúc mạnh mẽ như tức giận, thất vọng, lý tưởng hóa hay hạ thấp.)
Chính kiểu tư duy này thường tạo ra những nguyên mẫu- tâm lý ăn sâu trong vô thức tập thể của người Việt, hình mẫu đạo đức luôn được đề cao: trung- hiếu -lễ - nghĩa- trí- tín, nếu không làm được thế thì đều đáng lên án ( Mẹ ghẻ độc ác, phú ông tham lam, quan lại hống hách, hiền như cô Tấm, Thạch Sanh thì ít, Lý Thông thì nhiều) … Và với tư duy nguyên mẫu đó, nếu ai đã bị dán nhãn là “kẻ phản bội, “kẻ xấu xa”, “kẻ tội đồ” ( đôi khi những người này chỉ cần trật ra khỏi đường ray đạo đức một chút thôi) thì họ sẽ là hiện thân của điều ác, gian trá, bất công và đáng lên án. Sẽ ngay lập tức kích hoạt những nỗi sợ nguyên thuỷ, kích hoạt được cảm giác đạo đức đúng đắn và phán xét kẻ tội đồ một cách nhiệt tình hơn bất cứ đâu. Bước qua ranh giới đạo đức là điều tối kỵ trong những cộng đồng này. Rồi một đám đông trở nên giận dữ ngay lập tức mà không cần có một bước xử lý lý tính, hay phản biện nào cả. Khi một người bị gắn mác “xấu xa”, cộng đồng dễ dàng hợp thức hoá việc nói xấu họ như một hành vi chính nghĩa (“vạch mặt kẻ ác”). Điều này khiến nói xấu không chỉ là thói quen giao tiếp, mà còn luôn được tiếp thêm sức mạnh của chiếc áo khoác đạo đức. Ngày nay, mạng xã hội đóng vai trò như “cổng làng” mới, nơi nguyên mẫu được tái kích hoạt qua các vụ “bóc phốt”, “lật mặt” các nhân vật.
Cơ chế tâm lý “nói xấu’ khi thấy nguyên mẫu xấu được kích hoạt sẽ đi theo con đường như sau:
1. Xung động cảm xúc mạnh: Khi nghe câu chuyện gợi nhắc “nguyên mẫu” người ta lập tức cảm thấy tức giận, khinh bỉ, sợ hãi ( khôngcó băn khoăn, day dứt hay suy nghĩ phản biện nào, não sẽ lập tức phản xạ ghét một cách cảm tính nhất)
2. Hợp thức hóa hành vi: Nói xấu hoặc lan truyền tin đồn để trở thành người“bảo vệ cộng đồng”( nạn nhân sẽ không bao giờ có thể cãi lại, hoặc nói lại được…bởi vì họ sẽ không được phép, không bao giờ có cơ hội để thanh minh)
3. Tăng tốc lan truyền: Vì thông tin phù hợp với khuôn mẫu có sẵn, nó lan nhanh hơn tin thường (theo lý thuyết schema trong tâm lý nhận thức).
4. Khó phản biện: Người bị gán nhãn “phản bội” hay “xấu xa” rất khó tự minh oan, vì cộng đồng đã có sẵn hình dung tiêu cực, sự phẫn nộ trong vô thức với kiểu nguyên mẫu này
Đặc điểm của cơ chế nói xấu:
- Một chi tiết nhỏ cũng đủ khơi gợi nguyên mẫu (“kẻ phản bội”, “kẻ xấu” người đã ghét ).
- Người nghe tự bổ sung câu chuyện bằng trí nhớ tập thể và kinh nghiệm cá nhân.
- Thông tin khó kiểm chứng, vì ít ai nói rõ nguồn hay bằng chứng.
4. Dựng lại bộ mặt xã hội người Việt qua văn hoá “ nấu sói”
4.1. “Nấu sói” trở thành một quyền lực ngầm củng cố sự kiểm soát xã hội:
Trong một cộng đồng “đậm đặc” như Việt Nam – nơi gia đình, họ hàng, làng xóm, đồng nghiệp chồng lấn lên nhau – gossip trở thành công cụ duy trì trật tự. Người nào “khác biệt” hoặc “lệch chuẩn” dễ trở thành đối tượng bị soi xét. Điều này khiến nhiều cá nhân chọn sống “an toàn”, không dám thử nghiệm hoặc bộc lộ bản thân, không dám bước qua những ranh giới đạo đức, cho dù những ranh giới ấy bị xơ cứng và giáo điều nên đã lỗi thời, lạc hậu. Tạo ra 1 kiểu xã hội khá trì trệ và tú túng, xã hội càng ưa thích nói xấu thì cộng đồng đó càng trì trệ
4.2. Tái sản xuất ranh giới “chúng ta – họ”:
Nói xấu thường không chỉ nhắm đến một cá nhân, mà còn ngầm khẳng định sự khác biệt giữa nhóm trong và nhóm ngoài. Nó duy trì cảm giác cộng đồng bằng cách loại trừ nhau, đồng thời nuôi dưỡng tâm lý bè phái, đố kỵ, thiếu cởi mở với cái mới. Và thế là, ta có một không khí mất an toán cho sự phát triển cá nhận và xã hội bởi nó tạo điều kiện cho những giá trị ảo xuất hiện, và tìm cách vùi dập những giá trị thật
4.3. Làm suy yếu niềm tin xã hội:
Khi ‘nấu sói” trở thành một phần quen thuộc của giao tiếp, sự tin tưởng giữa các cá nhân giảm sút. Ai cũng trở nên phòng thủ, ai cũng cố đeo mặt nạ cho chặt. Ai cũng có thể trở thành nạn nhân của lời đồn, và cũng có thể tham gia truyền bá. Hệ quả là một xã hội nơi con người vừa “kết nối chặt chẽ”, rất sợ bị cô lập, ra rìa nhưng vừa “nghi ngờ lẫn nhau” và luôn “cô đơn giữa bầy”
5. Ảnh hưởng tiêu cực đến văn hóa tranh luận:
Vì quen giải quyết mâu thuẫn qua ‘ nấu xói” gián tiếp, cộng đồng ít khi hình thành được văn hóa đối thoại thẳng thắn. Tránh đối đầu trực tiếp có thể giữ hòa khí bề ngoài, nhưng lại khiến những bất đồng âm ỉ và khó giải quyết triệt để. Hậu quả để lại đôi khi là những hận thù dai dẳng, trong khi nếu dám đối đầu thì mâu thuẫn có thể giải quyết được, nhưng để lâu dài, nó có thể là những hận thù truyền đời, những chấn thương liên thế hệ
6. Biến giao tiếp thành công cụ hạ bệ:
Thay vì chỉ mang tính giải trí, ‘ nấu sói “ nhiều khi trở thành một dạng “bạo lực ngôn từ gián tiếp”. Nó làm tổn thương danh dự cá nhân, thậm chí tổ chức. Thậm chí “ nấu sói” sẽ được chế biến thành những content bẩn dẫn đến hệ quả nghiêm trọng: mất uy tín, mất việc, tan vỡ quan hệ, phá sản…
Kết luận thôi, dài quá rồi!
“Nấu sói” - Một hiện tượng xã hội hai mặt “bằng mặt nhưng không bằng lòng” Nó làm con người thấy “thuộc về”, nhưng cũng gieo rắc nỗi sợ bị tẩy chay. Nó đảm bảo các chuẩn mực đạo đức, nhưng nó cũng kìm hãm cả cuộc đời bạn trong ánh mắt săm soi của người khác.
Và giờ thì bạn hiểu vì sao, có đôi lúc mình cảm thấy rất khó sống rồi đấy, còn làm sao để đối mặt với chuyện ‘nấu sói” khi mình là nạn nhân, thì bạn nên tự rút dây kinh nghiệm thui!