Multitasking hay tiếng việt gọi là đa nhiệm, thuật ngữ này ám chỉ đến việc mà một người thực hiện hai hay nhiều việc trong cùng một lúc. Hành vi này tạo ra khá nhiều cuộc tranh luận sôi nổi trong cộng động, nhưng chung qui cũng xay quanh nội dung "Con người đa nhiệm được không?".
Để tìm câu trả lời cho vấn đề này, các nhà khoa học đã lao vào nghiên cứu hành vi đa nhiệm, nhưng nhìn chung là mấy ổng vẫn chỉ đang ở giai đoạn "tranh luận" nhưng với cấp bậc cao hơn, quăng báo và đưa nghiên cứu vào mặt nhau.
<i>Đa nhiệm khó giải thích, hay con người chỉ muốn giải thích nó theo ý mình?</i>
Đa nhiệm khó giải thích, hay con người chỉ muốn giải thích nó theo ý mình?

Đa nhiệm trong các lĩnh vực khác nhau

Do tính phổ biến của hành động đa nhiệm trong cuộc sống hằng ngày và cả trong nghiên cứu. Nên mỗi lĩnh vực khác nhau, các nhà khoa học sẽ định nghĩa đa nhiệm một cách khác nhau. Nhằm để khái niệm này, tập trung vào đối tượng mà lĩnh vực nghiên cứu hướng đến.
Đối với kinh tế vĩ mô, giáo sư ThomasBuser của đại học Amsterdam định nghĩa về đa nhiệm là hành động thực hiện nhiều nhiệm vụ cùng một lúc.
Còn trong khoa học nhận thức, các nhà khoa học Amanda Spink, Charles Cole và Mary Waller cho rằng đa nhiệm nên được định nghĩa theo 2 góc độ, hẹp và rộng. Ở lập trường nghĩa hẹp, họ nói rằng đa nhiệm là khả năng con người xử nhiều hơn một nhiệm vụ cùng một lúc. Hướng nghĩa rộng, họ cho rằng đa nhiệm là khả năng chuyển đổi nhanh chóng từ nhiệm vụ này sang nhiệm vụ khác trong một chuỗi nhiệm vụ.
Cuối cùng, đối với ngành tâm thần học chủ thể của họ trực tiếp là con người, nên định nghĩa khái niệm về đa nhiệm của họ trực tiếp có liên quan đến con người. Theo TS. Edward Hallowell, một bác sĩ tâm thần học, trong tác phẩm CrazyBusy, ông có nhắc về đa nhiệm là một hoạt động hoang đường, trong đó con người tin rằng, họ có thể thực hiện hai hay nhiều nhiệm vụ cùng một lúc.
Có thể thấy, góc nhìn về đa nhiệm theo mỗi ngành nghề học đều khác nhau, hướng vào chủ thể nghiên cứu của từng ngành. Trong các ngành như kinh tế vĩ mô và khoa học nhận thức, họ phần nào nói lên được con người hay hay móc móc có khả năng đa nhiệm. Đối với ngành tâm thần học, các nhà khoa học lại khẳng định chủ thể nghiên cứu của mình không có khả năng này.
Tuy nhiên, điểm chung cho các định nghĩa này là các nhà khoa học hầu như chỉ thực hiện nghiên cứu và đưa ra kết luận dựa trên đối tượng nghiên cứu. Do đó, các định nghĩa còn mang tính chủ quan, bởi họ không đánh giá hành vi đa nhiệm của đối tượng dựa trên sự thay đổi phản ứng sinh lý của chính đối tượng nghiên cứu, mà chỉ dựa vào sự nhìn nhận và nhận xét của họ về đối tượng nghiên cứu.
Trong đa nhiệm, sự chủ quan của các nhà nghiên cứu thường nằm ở việc áp đặt thiên kiến cá nhân của mình vào đối tượng nghiên cứu. Một số nhà khoa học khi thực hiện thí nghiệm về sự đa nhiệm, quan tâm của họ là số lượng công việc. Do đó, khi đánh giá họ thường chỉ xem xét về số lượng công việc mà một người hoàn thành (người làm nhiều việc cùng một lúc nhiều thì nhận định người đó có khả năng đa nhiệm), nhưng họ làm nhiều việc cùng một lúc mà chất lượng không có. Vậy, những đối tượng này có khả năng đa nhiệm không?

Con người có thể đa nhiệm không?

Do sự chủ quan của các định nghĩa trên, nên câu hỏi về "con người có đa nhiệm được hay không?", đến nay vẫn chưa được làm rõ.
Để trả lời cho câu hỏi này, giáo sư thần kinh học René Mariois (Đại học Vanderbilt) đã ứng dụng công nghệ (fMRI) nhằm đánh giá và xem xét cơ chế của bộ não khi con người thực hiện hành vi đa nhiệm. Từ đó, trả lời câu hỏi "con người đa nhiệm được hay không?". Kết quả, từ nghiên cứu của ông cho thấy, khi thực hiện hành vi đa nhiệm tại vị trí vùng trước trán của bộ não hoạt động khá mạnh, tình trạng này kéo dài não bộ sẽ dần kiệt huệ và dừng việc xử lý thông tin, quá trình này được gọi là "tắc nghẽn lựa chọn phản ứng".
Chưa dừng lại ở đó, một nghiên cứu khác của Russell Poldrack giáo sư tâm lý học tại Đại học California, Los Angeles cũng sử dụng công nghệ (fMRI) để thực hiện nghiên cứu về hành vi con người khi đa nhiệm với mức độ sâu hơn. Ông chia đối tượng thí nghiệm của mình thành 2 nhóm, một nhóm ông cho họ học trong môi trường phân tán và nhóm còn lại ông cho họ học trong môi trường yên tĩnh. Kết quả từ nghiên cứu cho thấy, nhóm học trong môi trường phân tán thể vân trên não hoạt động mạnh, nhóm học trong môi trường yên tĩnh hồi hải mã của não hoạt động mạnh.
Từ 2 nghiên cứu trên có thể thấy cơ chế hoạt động đa nhiệm trong cơ thể. Khi con người buộc phải thực hiện hành vi đa nhiệm, thể vân của con người hoạt động mạnh để đưa ra sự lựa chọn, hành động đối mặt với sự lựa chọn thường xuyên sẽ tiêu tốn cơ thể một lượng lớn năng lượng, đến cực điểm não sẽ rơi vào trạng thái dừng hết mọi lựa chọn hay còn gọi là "Tắc nghẽn lựa chọn phản ứng". Còn với những người không làm việc đa nhiệm hồi hải mã của họ hoạt động mạnh, nó giúp làm tăng khả năng tập trung và ghi nhớ của đối tượng nghiên cứu một cách hiệu quả hơn.
Khi suy nghĩ về các nghiên cứu này, phần nào sẽ thấy nó tương đồng với quan niệm về đa nhiệm của TS. Edward Hallowell, bởi ông đã cho rằng con người không có khả năng xử lý nhiều công việc cùng một lúc, những người cho mình là đa nhiệm, chẳng qua họ chỉ đang ảo tượng. Hoặc khái niệm đa nhiệm của họ khá thoáng, bởi theo khái niệm của những nha khoa học thường thức về đa nhiệm thì họ cho rằng người đa nhiệm giỏi là người có khả năng chuyển đổi công việc nhanh chóng trong một chuỗi các công việc.
Riêng tôi lại thấy những lời giải thích và các thí nghiệm chưa thoả đáng. Với các định nghĩa "Đa nhiệm" mỗi ngành nghiên cứu khác nhau định nghĩa về đa nhiệm khác nhau, chưa có sự thống nhất về định nghĩa, nên khi thực hiện thí nghiệm nghiên cứu đa nhiệm trên người. Tuỳ vào mỗi lĩnh vực nghiên cứu thì kết quả khác nhau, có ngành công nhân kết quả nghiên cứu là đa nhiệm và có ngành lại không công nhận việc đó là đa nhiệm, mặc dù nó là kết quả của cùng một nghiên cứu (Ví dụ, giải quyết một loạt nhiệm vụ A sang nhiệm vụ B, đến nhiệm vụ E, F,G,... Rất nhanh chóng. Trường hợp này theo định nghĩa khoa học thường thức về đa nhiệm kết quả đó đúng với khái niệm, nhưng lại không đúng với khái niệm đa nhiệm mà ngành kinh tế vĩ mô đề ra).
Chưa hết, các nghiên cứu về đa nhiệm theo fMRI, tuy đã khắc phục được sự thiên kiến của các nghiên cứu trước nhưng nó lại không thoả mãn bản thân tôi trong việc thiết kế nghiên cứu về đa nhiệm. Đối với nghiên cứu của giáo sư Russell Poldrack, trong hướng thiết kế thí nghiệm, theo quan điểm hạn hẹp của tôi để làm rõ hơn về hành vi đa nhiệm, giáo sư nên thử thiết kế môi trường của thí nghiệm 2 từ môi trường xao nhãng thành môi trường mà người thực hiện nghiên cứu phải liên tục thay đổi công việc, hay môi trường nghiên cứu phải đưa ra lựa chọn hoàn thành một loạt công việc trong thời gian hạn chế,... Mục tiêu là đặt đối tượng thí nghiệm vào môi trường mà họ phải đa nhiệm (bắt buộc đa nhiệm, chứ không phải môi trường mà người đó có thể khống chế, bởi những người ít xao nhãng hay quen làm việc trong tiếng ồn, thì môi trường ồn phần nào đó có thể giúp họ làm việc tốt hơn). Ngoài ra, dù có phủ nhận hay không thì đâu đó tôi vẫn thấy có những người vừa nghe nhạc vừa làm việc, vừa giặt đồ vừa nghe podcast chữa lành, vậy những trường hợp này có phải đa nhiệm không?
Đó là một số góc nhìn của bản thân tôi về đa nhiệm, còn bạn thì sao? Rất mong nghe được những góp ý chân thành từ bạn đọc về chủ đề này.