"People commonly travel around the world to see rivers and mountains, new stars, birds of rare plumage, queerly deformed fishes, ridiculous breeds of men - they abandon themselves to the bestial stupor which gapes at existence, and they think they have seen something. This does not interest me. But if I knew where there was such a knight of faith, I would make a pilgrimage to him on foot, for this prodigy interests me absolutely."
Soren Kierkegaard
Năm ngoái tớ đi thăm núi Nhìu Cồ San. Thật kỳ lạ là lúc vừa về tớ không nghĩ ngay đến việc viết lại trải nghiệm này mà phải hơn nửa năm sau tớ mới ngồi đây cố nhớ lại lúc đó. Vậy tớ viết ở đây để làm gì?
Có một điều tớ chắc chắn là tớ không viết để hướng dẫn du lịch, tớ muốn lại những suy nghĩ của tớ trên toàn bộ hành trình.
Tớ vẫn còn nhớ lúc mới đến Sapa, trời hơi mưa phùn và lạnh, tớ phải mặc áo khoác một chút mặc dù lúc đó là tháng 9 và ở Hà Nội vẫn cực kỳ nóng. Cả đoạn trên xe để xuống chân núi là một quãng đường gập ghềnh, giấc ngủ của tớ cũng gập ghềnh như thế. Thế nhưng để đến được điểm leo, tớ phải thuê xe ôm đi vào trong bản. Bắt đầu từ đây, tớ bắt đầu sợ.
Lái xe của tớ là một thanh niên trai bản đâu đấy khoảng 13 - 14 tuổi đi một chiếc xe Wave đầy bùn đất. Hôm đó là một ngày sau cơn mưa nên điều này không lạ. Cho đến lúc về tớ mới biết được rằng đi xe Wave không phải lựa chọn hay nhất, lẽ ra nên theo một xe ôm đi Minsk. Lý là bởi xem Minsk có rãnh lốp sâu nên bám đường tốt hơn, ngay cả khi đi trên bùn nó cũng không trượt bánh nhiều như xe Wave. Nỗi sợ của tớ xuất hiện khi vực nằm rất gần đường xe chạy và thanh niên lái xe chạy khá nhanh. Do bùn mà bánh trượt thường xuyên. Tớ phải gồng mình để bám không bị nảy ra ngoài. Thế mới biết thanh niên lái xe tay khoẻ đến mức nào.
Hành trình bắt đầu khá thong thả trên các đoạn bùn đất. Bọn tớ đi qua một bản của người địa phương và mọi thứ đẹp như một bộ phim. Càng đi dần đến trưa thì bản dần dần biến mất và suối xuất hiện. Rồi sau đó đến rừng. Lúc đầu rừng chỉ thưa thớt và đường đi còn rất rõ, nhưng sau khi nghỉ trưa thì đường gần như không còn nữa. Phải nhìn rất kỹ mới thấy đường. Cũng ở đoạn này mà tớ bắt đầu đi bằng chân và tay.
Tớ cảm thấy hơi bất ngờ trong vòng 15 phút nhưng sau đó nhanh chóng quen với tình hình vì những dấu vết của con đường mòn vẫn còn lờ mờ hiện ra. Thực ra cả chuyến đi sẽ không có gì đặc biệt nếu như không có chuyện sạt lở đất trên một vách núi. Bây giờ nhắm mắt lại tớ vẫn tưởng tượng ra mảng núi đó - lơ thơ cây cỏ và một ít giây leo, những hòn đá lộ ra trên một nền đất và cát mịn. Từ dưới chân cho tới đỉnh là khoảng 15m, chỉ bằng một toà nhà 4 tầng nhưng tớ không thấy một mỏm đá nào vững chắc ở đó. Thứ trông có vẻ đáng tin cậy nhất là những nhánh giây leo kéo dài từ đỉnh tới tận chân núi và đúng thật là với 4 người đầu tiên trong đoàn, những giây leo này làm đúng nhiệm vụ của nó. Thế nhưng với hai người cuối cùng mà trong đó có tớ thì các giây leo này bắt đầu đứt. Tớ không còn một nơi nào để bám víu cả. Đất tớ đang đứng - một mép đất trên mảng núi dốc đứng cũng không vững mà đang lún dần xuống. Khi tớ cố nhấc 1 chân lên thì chân kia sẽ lún sâu xuống và thâm chí chân đang nhấc cũng không tìm được một chỗ đặt chắc chắn. Lúc đó tớ có sợ hãi và hoảng loạn; tớ nhớ mình đã gắt vào mặt trưởng đoàn khi anh ấy bảo tớ phải đứng thẳng lên. Mọi cử động đều làm tớ lún sâu hơn mà khi lún quá sâu thì đất sẽ lở ra và tớ sẽ rơi xuống vực. Rất may là trong đoàn có 2 porters người dân tộc đã đi xuống và kéo được tớ lên.
Ngày hôm đó tớ có 3 bài học:
- Một là luôn đi ngang chân và cong lưng khi ở những đoạn đất yếu.
- Đừng bao giờ mua giầy rộng để leo núi vì nó làm lòng bàn chân bị trượt khiến giầy càng khó bám.
- Dù có nguy hiểm đến thế nào nếu mình không ngã thì sẽ không sao cả.
Rất may rằng câu chuyện tớ mắc kẹt ở vách núi sau đó trở thành một câu chuyện hài với cả đoàn và tớ có thể tự cười chính mình mặc dù tớ biết rằng, nếu chuyện đó xảy ra thêm một lần nữa, tớ rất có thể sẽ lại hành xử hệt như vậy.
Có một vài điều tớ quan sát được. Thứ nhất là những người dân tộc ở đây khoẻ mạnh một cách kỳ lạ. Họ sẽ leo quả núi này 2-3 lần một ngày nếu cần thiết và họ vừa đi vừa huýt sáo hay nhảy nhót giữa các mỏm đá. Nó khiến tớ cảm thấy việc leo núi cũng giống như tớ ra tiệm tạp hoá vậy, bất cứ lúc nào tớ muốn và khá đơn giản. Thứ hai là điều kiện sống của họ thực sự thiếu thốn. Hầu hết nhà ở của người dân tộc hoặc là nhà sàn hoặc là một loại lán ghép lại bằng những tấm gỗ. Họ cuốn những tấm bạt xung quanh lán để gió lạnh không thổi vào trong. Tớ hy vọng dưới chân núi người dân có điện vì trạm nghỉ của bọn tớ không có điện, và mà bọn tớ ăn tối trong ánh nến. Nguồn nước uống ở đây hầu hết là nước mưa dự trữ, có lẽ nếu họ không trữ nước mưa thì sẽ phải mua nước mang lên từ dưới chân núi. Không có nhiều thứ để làm trên núi, vậy nên tớ có thời gian để đọc sách. Điều thứ ba là vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc. Ở đó núi rừng, sông, suối, thác hay vực tất cả đều quá đẹp đến mức tớ phải bật khóc (mà tớ thì không hay khóc).
Lý do tớ trích Kierkegaard ở đầu vì tớ muốn tìm được "knight of faith" trên quả núi đó hoặc có lẽ từ quả núi đó tớ sẽ hiểu được "knight of faith" vì cũng như Kierkegaard, tớ không thực sự muốn nhìn ngắm quả núi hay cuộc sống của những người bản địa ở đó. Điều thực lòng tớ muốn đạt được là không cần phải bồn chồn, lo lắng hay thiếu tự tin mỗi khi cần phải đưa ra quyết định trong cuộc sống mình. Tớ muốn biết là phải tin vào điều gì để có thể hành động tự do và độc lập khỏi những trói buộc mà nhiều khi là ngớ ngẩn của xã hội hay những người xung quanh. Và đây là lần đầu tiên tớ có thể xác nhận lời của Jung nói: "Thiên đàng và địa ngục tồn tại trong cuộc sống hàng ngày nhưng người hiện đại quá mù loà để nhận ra nó". Quả núi này đánh thức nhãn quang mà cả đời sống ở nơi đô thị đã làm tớ mù loà. Lần đầu tiên tớ nhận ra rằng dù không có xe mui trần hay không có quần áo hàng hiệu thì tớ vẫn đang sống ở thiên đàng nơi mà sự lo lắng về sinh tồn không hiển hiện trong đầu tớ mỗi ngày.