img_0
Chương 1: Vajra
Cánh buồm nặng nề giăng lên để kịp đón con gió, tay hoa tiêu trên đỉnh buồm đưa ống kính lên mắt phải, điều chỉnh tiêu cự cho phù hợp, hình ảnh mờ rồi nét rồi lại mờ cho đến khi hiện rõ hàng trăm con tàu đỗ quanh cảng thị Hội An. Người ta có thể thấy lá cờ của dòng dõi Tudor, những tâm hồn lãnh đạm nhưng giàu trí phiêu lưu; người ta lại thấy lá cờ của dòng họ Bourbons ở cả hai xứ Pháp và Y Pha Nho, đâu đó, thấp thoáng lá cờ của dòng dõi Thần Vũ ngàn năm của xứ Phù Tang; thuyền Tây Ban Nha, thuyền Ý Đại Lợi, thuyền Hoà Lan, thuyền người Thiên Trúc, người Miên, người Chàm, người Mạ lũ lượt kéo về tề tựu quanh chốn này. Cảng thị Hội An. Ánh sáng vùng Viễn Đông  khơi nhiều trí tưởng tượng cho người phương Tây, nó thêu dệt những giấc mộng từ đêm trường Arab, nó hát những khúc ca từ môi nàng Shéhérazade trong đôi mắt đức vua Shahryar trong đêm cuối cùng của câu chuyện dài gần ba năm; nó lôi kéo bước chân của Marco Polo, nó níu giữ tâm hồn của Alexander đại đế, nó để Voltaire thả cơn mộng mị vào lý trí mình, nâng gót giày của André de Longjumeau và William of Rubruck, kích thích lòng tham của đám thương nhân như  Maroc Ibn Battuta và sau cùng nó để mỗi con người đã từng qua chốn Viễn Đông này một ký ức để mãi mãi nhớ về. Đi, nghĩa là về. Đi trên thực tại và về trên ký ức. Thế nhưng, cánh cửa phương Đông huyền bí này hiếm khi mở cánh cửa của nó ra, đám Hán tộc vẫn còn mãi đắm chìm trong vùng đất trung nguyên mà họ xem nó là cả thế giới, họ nuôi giấc mộng trong lòng miệng giếng bị bao bọc bởi dãy núi Hy Mã Lạp Sơn và vùng Thái Bình Dương rộng lớn, và hiển nhiên, nỗi lo sợ hợp tan như một quy luật của xứ này khiến những vị con trời vẫn nặng lòng suy tư về việc quản trị đế chế rộng lớn của mình khỏi đôi mắt dòm ngó từ phương Bắc mà họ vẫn gọi là đám rợ, đám hung.
Thì nơi đây, vùng cực Nam của Hoa Lục kết thúc tại cửa ải cuối cùng, cánh cửa duy nhất bước vào vùng Nam Á mà suốt ngàn năm họ lăm le vẫn chưa qua được. Đại Việt lúc này được trị vì dưới bàn tay của đám con cháu vua Lê Thái Tổ, một vị vua mà công lao đánh đuổi giặc Ngô ra khỏi bờ cõi Đại Việt vĩ đại đến mức, người ta không tìm ra nổi một lý do để lật đổ đám con cháu bất tài bạc nhược của ngài ra khỏi quyền cai trị quốc gia. Đó là thời đại mà người ta vẫn còn chưa có khái niệm về quốc gia như cách mà ngày nay người ta hiểu về quốc gia, một thứ quốc gia theo quan điểm người phương Tây và nền văn minh lý trí; còn lúc này, phương Đông, thế giới của những kẻ đại diện cho ý nguyện trời mà họ tự gọi là con trời, thì cương giới lãnh thổ một quốc gia được hiểu theo nghĩa là tài sản của một cá nhân, nếu cá nhân đó là ý nguyện chọn lựa từ trời cao. Do đó, thứ tài sản đó được truyền lại cho con cháu đời sau mà không ai được quyền tước đoạt.
Ngay cả với thời hiện đại, quốc gia vẫn chưa thoát khỏi khái niệm là tài sản của một đám người cầm quyền mà lịch sử đã chọn lựa một cách ngẫu nhiên trong tật nguyền lý trí.
Thật tội nghiệp cho đám người mải mê theo đuổi giấc mộng xem của cải người khác là của mình.
Nhưng lúc này đây, đám con cháu vua Lê đã mất hẳn quyền cai trị, quyền lực thật sự nằm trong tay hai dòng họ lớn: Họ Trịnh và họ Nguyễn. Họ Trịnh tiếm quyền ở miền Bắc Đại Việt, còn họ Nguyễn thì trấn giữ phương Nam Đại Việt nhưng không ngừng mở rộng cương thổ về Nam. Truyền qua vài đời, khi ký ức đã trở thành những câu chuyện kể và thực tại lại có quá nhiều so với trí nhớ của con người, đám đông đã lựa chọn cho riêng mình những gì giản dị nhất có thể nhớ và có thể nghĩ. Và đó cũng là lúc người đàn ông chau mày nhìn cảng thị Hội An hiện ra dần trước mắt. Tay ông ta mở ra rồi gấp lại bức thư kỳ lạ được gửi cho mình, loáng thoáng giấc mưa vùng nhiệt đới làm lem luốc vài chữ Hán, nhưng có thể nhìn rõ nội dung ngắn gọn của nó.
Kính thư ngài Thanh,
Nhũn nhặn dâng ngài một bảo vật xứ Đại Việt. Ngài sẽ bận tâm đến tay nghề điêu luyện đã gần đạt mức tinh xảo, là một thương nhân tinh tế, ngài sẽ tìm thấy món hời xứ này. Hãy đến căn nhà bên bờ phố Hoài, hỏi nhà lão Tâm. Tôi có thể cung cấp cho ngài nhiều hơn những gì ngài thấy.
Một người AnNam.
Cho đến khi một lá cờ của Nhật Hoàng được kéo lên đỉnh cột buồm, nhằm báo hiệu cho người bến cảng biết để thu xếp cho vị trí đỗ thuyền, lập tức Thanh cúi rạp người trước lá cờ và hắn hô to, “Thiên Hoàng vạn tuế!”. Nghi thức chóng vánh kết thúc khi cờ nằm trên đỉnh buồm. Tay hoa tiêu nhận lệnh từ người đàn ông nhỏ thó ở canh gác phía cảng thị, một cái chòi lá được làm bằng tre cao tận ba mươi thước, đủ cao để nhìn bao quát toàn bộ cảng thị để giúp đỡ tàu bè tránh bãi cạn, nước xoáy hoặc thời điểm con nước lên để vào sâu trong bến. Một lá cờ vàng phất lên từ tay trái, một lá cờ đen đưa ngang tay phải; tay hoa tiêu hét lớn để tên giữ bánh lái đủ nghe thấy, “Rẽ trái, tránh đá ngầm mạn phải!” Thủ bộ của người trênh canh gác thay đổi, tay trái đưa về phía sau, hoa tiêu lại thét lớn, “Giữ nguyên bánh lái! Tiến thẳng vào! Con nước đã dâng lên.” Bên dưới khoan thuyền, đám thuỷ thủ miệng hét lớn để nỗ lực đẩy mái chèo vì khu vực cửa sông xuất hiện nhiều xoáy nước do giao thoa giữa mặt sông và mặt biển. Nhưng nhờ con nước triều lên, biển đẩy thuyền vào sông dễ hơn, đám thuỷ thủ bên dưới khoang tàu không còn cảm giác chông chênh vì cơn sóng liên tục vỗ vào mạn thuyền nữa. Một cảm giác bình lặn diễn ra, cho đến khi thuyền trưởng hét lên, “Nghỉ tay!” Nghĩa rằng đã vào khu vực sông, chỉ cần dựa vào sức nước và sức gió, cùng bàn tay rắn rỏi của tay giữ bánh lái là đủ. Đám thuỷ thủ chạy ào ra hai bên mạn thuyền, chúng trầm trồ không ngớt khi thuyền lớn thuyền bé cập hai bên con sông, những nóc nhà mái ngói cong hiện ra san sát và tấp nập. Trên mỗi cánh cửa sổ, đám đàn bà bên cạnh thúng đựng thức ăn để trên lá chuối, thoăn thoắt tay gói lại rồi đẩy cho một gã đàn ông buộc chúng lên đầu sào tre, miệng họ hét lớn, “Mì thuyền số một! Hai cắc! Đi!” “Ba mì thuyền bến dừa! Một quan tám! Đi!” “Mười hai tô mì thuyền Phù Tang! Bảy quan hai, giảm còn bảy thôi! Đi!” Từng sào tre thoăn thoắt đưa ra đưa vào, có lúc trên đầu sào tre chỉ buộc thúng nhỏ chứa những tô mì chông chênh, nhưng có lúc là những thúng lớn chất hơn mười mấy bát mì. Tay người nào cũng thoăn thoắt, không một bát mì nào rơi ra khỏi. Tiếng cười nói vang khắp bến sông.
Người ta nói cười cũng phải, bởi đám bán hàng bên bờ sông Hoài vẫn không mất đi tính khí hài hước của đám lưu dân đã theo Nguyễn Hoàng vào lập nghiệp vùng Thuận Hoá, người ta thừa hiểu một quan là 10 xâu tiền, mỗi xâu có 60 đồng, mỗi đồng ăn 10 đồng mẻ gọi là cắc; làm gì có chuyện mỗi bát mì chỉ hai cắc mà ba bát đã thành một quan tám tiền. Họ nói khống lên cho vui, họ thích làm quá những gì trong tưởng tượng, ngay cả đám vung sào đưa thức ăn cũng làm quá. Chúng đung đưa cây sào một hai bận rồi mới thả xuống đám thực khách trên thuyền. Đám thực khách muốn trả tiền cũng không yên, họ phải ném trúng đồng tiền lên thúng nhỏ mà tay cầm sào đong đưa. Ném trúng, thực khách cười và đám bán hàng cũng cười, nên bọn người Hoà Lan và Y Pha Nho luôn ném nhiều tiền hơn số tiền mà chúng phải trả, chủ yếu để vui.
Đó là khung cảnh bên trên bến tàu, còn bên dưới thì lũ người Annam cởi trần vận khố đang khuân vác hàng hoá lên và xuống thuyền. Tên gọi Annam này do đám người Tây gọi theo cách gọi của người Tàu từ thời nhà Đường, bởi họ biết đến nước Đại Việt theo thư tịch từ người Tàu. Còn với người Đại Việt, người ta không quan tâm đến tên gọi đó, họ tự hiểu họ khác với người Tàu. Cái tên gọi mà người ta gọi không quan trọng bằng cách họ nghĩ về chính mình.
Lúc này đây, cảng thị Hội An đủ mọi tầng lớp và sắc dân, có người Chàm đội khăn bán những bình gốm trải trên vải lanh, có người Thiên Trúc người Ba Tư đứng trên thuyền ngã giá về đống gia vị và những tấm thảm tinh xảo hiếm thấy, người Y Pha Nho ngã giá với người Tàu để trao đổi trà và đồ gốm, người Phù Tang thì muốn mua muối của người Annam. Mọi ngôn ngữ xa lạ lúc này trở thành một ngôn ngữ duy nhất, ngôn ngữ hình thể. Người ta cố gắng hiểu nhau qua mọi cử chỉ để ngã giá và cuộc mặc cả diễn ra rất chóng vánh, thuyền đến rồi đi chỉ trong một ngày nơi bến cảng. Đôi lúc, người ta thấy ngài quan thuế trong sắc phục của phủ Chúa Nguyễn phía sau là đám lính cầm lọng che, ngài đi trước tay mở tráp bạc và đám thương nhân nhũng nhặn bỏ tiền thuế của mình vào đó. Việc xuất hiện của ngài rất gián đoạn, chủ yếu chỉ mang tính hình thức, còn thực tế, ngoài kia, đám chiến thuyền của Chúa Nguyễn dọc ngang khắp biển Đông, họ lập trạm quan thuế để thu thuế của thuyền bè các nước tại những đảo lớn đảo nhỏ. Công việc chính của những chiến thuyền này là đảm bảo không có cướp bóc, uy khấu[1] tấn công thuyền buôn, tàu của ngư dân Đại Việt và mưu đồ quỷ quyệt của những kẻ muốn xâm lăng Đàng Trong.
Chiếc thuyền của Thanh neo gần bến, tiếng hét của viên thuyền trưởng, “Thả neo!” và sau tiếng bõm của chiếc neo sắt rơi xuống mặt sông thì một tên lực lưỡng trên thuyền ném dây lên bến, một đám người An Nam trong sắc phục lính đội nón lá rộng hơn cả bờ vai, trên đỉnh nón sơn hai lớp sơn đỏ để phân chia vai vế. Chúng hô lớn rồi từng nhịp một kéo thuyền vào bến, sau đó chúng buộc dây vào những cọc gỗ lớn đóng trên bến.
Đám người Phù Tang lần này theo Thanh thuộc Mạc Phủ của tướng quân Tokugawa. Những tàu Nhật khác có thể nhận ra gia huy trên chiếc áo của đám người này, một biểu tượng hình tròn có hoa thục quỳ ba cánh màu vàng nghệ. Rõ ràng, đây là đám cận thần của dòng dõi tướng quân Tokugawa. Họ đến nước Đại Việt này để làm gì? Đám người Phù Tang trên những chiếc thuyền khác tự hỏi. Theo sau là một chiếc kiệu gỗ tám người khiêng, hai bên hông là bốn võ sĩ đạo và theo đuôi là mười sáu tuỳ tùng.
Thanh, một người Phù Tang gốc Hoa, cụ cố của Thanh là người đã đến Nhật và chịu ơn tướng quân Tokugawa đầu tiên, ngài Tokugawa Ieyasu, đã cưu mang đám lưu dân người Hán này đã lìa bỏ quê hương trên con đường trốn chạy chiến tranh. Thanh là tên gọi chữ Hán, tên tiếng Nhật của Thanh là Shitatari Ochiru, nghĩa là giọt nước đang rơi xuống. Nó lấy ý từ một bài hơi Haiku của ông nội Thanh mà cha Thanh đã lấy nó làm tên cho chàng, trước khi ông ta xuống tóc quy y chôn cả đời mình vào ngôi biệt viện vùng tỉnh lị Iwate mà không bao giờ Thanh có thể tìm lại cha mình. Ngôi biệt viện đó nằm khuất sâu trong núi, đường mòn đi vào đó đã bị xoá bởi thời gian, gia đình Thanh tin rằng cha của chàng khi lên núi đã tự gieo xuống đường đi mỗi một nhành hoa lan hài Rebun, Rebun Atsumori So. Đến khi thành cây và trổ bông trắng như tuyết mùa đông thì con đường lên ngôi biệt viện đó đã bị xoá sạch.
Với người dân cảng thị này, họ đã quá quen thuộc với đám người dị chủng với lối ăn mặc lạ lẫm xuất hiện mỗi ngày khi con nước lên. Nhưng với người Phù Tang trên bến sông này thì khác, vì đây là lần đầu họ nhìn thấy bóng dáng của tướng quân, những người cai trị thật sự nước Nhật đang ẩn hiện bên bờ biển Đông. Họ cũng hiểu, chính sách mới của tướng quân Tokugawa Iemitsu hiện nay không thân thiện với những người Nhật buôn bán phương xa, vị tướng quân này, Iemitsu muốn nối gót triều đình nhà Minh tạm ngưng giao thiệp với người Tây Phương và bắt đầu chính sách ngăn cản thuyền buôn ra khỏi Nhật Bản; nhưng chỉ là manh nha ý tưởng, chưa thật sự tướng quân này muốn ban hành thành sắc lệnh. Hơn nữa, Iemitsu nhận ra nhà Minh dưới thời trị vì của hoàng đế Hy Tông, một vị hoàng đế trẻ chỉ mới lên ngôi vài năm đã bị tên thái giám Nguỵ Trung Hiền tiếm quyền, quốc gia bên bờ sụp đổ. Bên ngoài cương thổ Hoa Lục, vùng Hắc Long Giang, tộc người mang họ Ái Tân Giác La đang trở nên hùng cường và muốn thâu tóm toàn bộ trung nguyên. Điều này sớm muộn gì cũng khiến đám người Minh sẽ chạy loạn ra khắp nơi, họ sẽ nương theo thuyền buôn nước Nhật và vào đến Nhật. Iemitsu không muốn đón tiếp những kẻ dị chủng dưới sự trị vì của mình. Nhưng tại sao, đám người Phù Tang tự hỏi, gia huy của tướng quân, dòng họ Tokugawa lại xuất hiện chốn này, một người vốn không khuyến khích việc xuất dương?
Mặc cho đám người Phù Tang tự hỏi nhau, đám người mang gia huy đã đi vào con phố bên trong. Rồi đột ngột, kẻ đi bên hông kiệu hô lớn, kiệu dừng lại và hắn nhìn Thanh, “Sang! Công tử gọi mi!” Sang là âm đọc của chữ Thanh trong tiếng Nhật. Thanh vội bước đến bên hông kiệu, người cúi ngang và kính cẩn, “Công tử cần chi?” Một giọng nói thỏ thẻ từ trong kiệu vang ra, “Đã đến nhà lão Tâm chưa?” “Qua hai con phố này nữa là đến thưa công tử.” “Ngươi hãy đến trước và gọi họ ra tiếp đón ta, bằng nghi thức trang trọng nhất của vùng đất này.” “Thưa vâng. Công tử còn cần thêm điều gì?” “Thời tiết ở đây oi bức, ngươi hãy đến cửa hiệu kia mua cho ta một thanh quạt giấy.”
Một bàn tay nhẹ nhàng đưa ra nhận quạt. Thanh cúi người giữ nguyên tư thế lùi từng bước chân cho đến khi cửa mành tre của kiệu buông xuống. Bóng Thanh khuất ở phía xa, người ta lại nghe tiếng hô vang. Đám người Phù Tang này lại lững thững từng bước đi về phía trước, tiếng guốc gỗ của chúng gõ thành từng nhịp như một bài hát, ngặt nỗi chỉ thiếu tiếng đàn koto để hoà cùng. Lững thững là một thứ nhịp điệu của âm nhạc mà chỉ có người Nhật nghe thấy trong dáng đi của họ.
Nhà lão Tâm là một nhà thuốc lớn của cảng thị này, lúc này đám gia nhân đã bắt đầu nâng những mảnh gỗ đen nhánh chặn ngang hai bên hông cửa, báo hiệu cửa tiệm sẽ nghỉ sớm. Lớp gỗ đen đã chặn lên phân nửa chiều cao cửa chính, lão Tâm bước ra và đó cũng là lúc Thanh bước đến. Thanh cúi chào lão theo nghi thức và lão vòng tay cung kính vái chào. Đưa tay, lão mời Thanh bước vào trong nhà, mùi vị thuốc xộc thẳng vào mũi Thanh. Thanh nói gọn lỏn, “Công tử đã đến.” “Vậy tôi mau chóng chuẩn bị đón tiếp ngài.” Phất tay, đám gia nhân lập tức lui ra cửa sau, để lại gian sảnh chính im lặng và trống vắng.
Chẳng mấy chốc, tiếng nhịp của guốc gỗ đã vang đến. Lão Tâm cùng Thanh bước nhanh ra cổng.
“Mời công tử bước vào tệ xá.”
“Chỉ mỗi ông ra đón ta sao?”
“Chỉ mỗi lão.”
“Người nhà ở đây đâu cả rồi?”
“Chúng không xứng đáng diện kiến mặt ngọc của công tử.”
“Hừ!”
“Xin công tử bớt giận, mời ngài mau chóng vào tệ xá, kẻo kẻ qua người lại chạm đến sự riêng tư cao quý của ngài.”
Một âm thanh hằn hộc không thành tiếng nhưng có thể cảm nhận được từ người trong kiệu. Một bàn tay nõn nà vén bức mành tre của kiệu sang một bên, một người vận trang phục quý tộc Phù Tang, mang mạng che mặt bằng loại vải đắt tiền từng bước đi vào trong sảnh. Dần dần lũ lượt đám hầu cận cũng vào theo.
Phòng khách xứ này không giống như xứ Phù Tang, đám khách lạ lẩm bẩm tự nghĩ, chúng chờ chủ nhà sắp xếp nơi ngồi cho chúng. Chỉ có một tấm phản lớn nằm sát tường cùng vài chiếc ghế chạm trổ công phu, cẩn những mảng xà cừ lấp lánh hình con dơi. Lão Tâm bước đến trước, trải tấm chiếu hoa lên chiếc phản rồi nói. Xin mời công tử. Sau đó, lão thu xếp cho đám hầu cận ngồi vào những chiếc ghế bên tả, lão cũng không ngờ đám hầu cận của người này lại đông đến vậy. Kết quả vài người phải đứng phía sau ghế.
“Sang!” Vị công tử đang cầm chiếc quạt phe phẩy gọi Thanh.
Thanh chầm chậm bước đến, người cúi ngang, “Công tử cần chi?”
“Bao giờ thì bắt đầu?”
Lão Tâm vội trả lời, “Cuộc đấu giá này còn vài vị khách nữa thưa công tử.”
“Bao giờ thì bắt đầu?” Vị công tử như không nghe thấy tiếng lão Tâm.
“Thưa công tử. Chúng ta còn phải chờ vài người khách nữa.” Thanh nhũn nhặn nói.
“Còn chờ bao người?” Công tử hỏi.
“Còn bốn vị khách nữa thưa công tử.” Lão Tâm đáp.
“Còn chờ bao người?” Công tử lại hỏi như không nghe thấy tiếng lão Tâm.
“Thưa công tử, còn bốn người.” Thanh đáp.
Thoáng chút thay đổi trên nét mặt, lão Tâm nói, “Để lão vào nhà sau pha chút nước chè mời công tử.”
“Không cần, ta chỉ uống trà của riêng mình.” Phẩy mạnh cây quạt xuống, đám cận thần của vị công tử mang đến khay trà và chúng khum người ngồi lên phản, trước mặt vị công tử, như một thiền sư say sưa với hành động lập đi lập lại, hắn như thể không nghe không thấy gì xung quanh. Tay hắn đổ trà vào cối, hắn giã nhẹ trong khi chiếc lò than nhỏ nhắn được quạt cho nổi lửa. Tuy không thấy mặt công tử, người ta vẫn có thể cảm nhận nụ cười khoé miệng của ngài, công tử chỉ quạt vào tên hầu cận pha chế, “Nước dùng để pha trà phải lấy từ mạch nước ngầm trong rừng Aokigahara, phải được lấy vào đúng mùa thu, khi đó mạch nước sẽ trong và mát.” Công tử nói như thể mọi người đang lắng nghe ngài, “Các ngươi có biết nước ngầm từ rừng Aokigahara từ đâu đến không? Từ trời. Thời Nara xa xưa, một vị thiền sư đã lên núi Phú Sĩ, ngài hoá thành con bướm trắng bay từ đỉnh núi đến chân núi, đậu lên nhánh hoa lan dại của rừng Aokigahara, từ đó chảy ra mạch nước từ tuyết trắng đỉnh Phú Sĩ. Mỗi năm, hạ đến, tuyết từ Phú Sĩ sơn chỉ chảy đúng một lần và tạo thành hai dòng chảy, trên mặt đất là hiện thân của sông Kakita mà nước trong đến mức thấy tận lòng sông, dưới mặt đất là những con nước chảy xuyên qua từng ngách đá đủ để tạo nên vẻ đẹp u linh từ thác Shiraito-no-Taki. Nhưng không dòng nước nào trong xanh như mạch nước ngầm của rừng Aokigahara, nó ngọt hơn nước hồ Biwa, thanh mát hơn hồ Yamanaka. Chỉ có nó mới làm nồng thêm mùi vị của trà Sencha tháng năm, làm hương của trà Houjicha tỉnh thức trong cơn ngủ.” Khi công tử vừa dứt, bình nước trên bếp lò đã sôi. Tay pha trà nhũn nhặn đổ nước sôi vào bình trà và đặt lên bếp một cái khay bằng kim loại, nhằm giảm đi nhiệt độ cho nước sôi, giữ cho nó ở mức nhiệt thấp hơn sôi. Tiếp, hắn chế nước trà tráng quanh bát, một lần, rồi hai lần. Sau đó, hắn mới để nước sôi già vào bình trà. Kính cẩn, hắn dâng bát trà lên cho công tử. Công tử không vội nhận lấy, hắn ngồi thẳng người, hai vai đưa nhẹ về sau, người ta có thể cảm thấy cánh mũi của hắn nở rộng đón làn hơi trà từ tay người pha. Công tử nói như thể mọi người trong phòng vẫn lắng nghe hắn, “Đúng là hương vị từ bậc đại sư Sen no Rikyū,” công tử bậc cười khanh khách như thể hắn hiểu rằng không một ai trong đám chủ khách của căn phòng này có thể hiểu về cái tên đó hơn hắn, “Đại sư Sen no Rikyū, bậc thầy về pha chế trà đạo của trường phái Sansenke, ngài là sủng thần của thiên hoàng và là bậc dâng trà Oda Nobunaga…” Cả phái đoàn người Phù Tang đột ngột ngồi thẳng người và hướng mắt về công tử, thái độ trọng thị danh xưng Oda Nobunaga, bốn võ sĩ đạo ngồi trên ghế mím môi thật chặt đôi mắt đanh lại như thể đối diện trước tướng quân. Oda Nobunaga là lãnh chúa nổi tiếng khắp nước Nhật, cả đời sống trên yên ngựa và chiến đấu không khoan nhượng, kẻ được nhân dân sùng kính vì công lao của ngài thống nhất nước Nhật, chấm dứt thời chiến quốc phân năm xẻ bảy hơn trăm năm trước. Ngài Oda đã khai sinh ra chế độ Mạc Phủ mà tướng quân Tokugawa Ieyasu là tướng quân đầu tiên, nội tổ phụ của tướng quân Iemitsu lúc này. Có thể thoáng nhận ra nụ cười kiêu hãnh trong lãnh đạm phía sau bức mạn che mặt của công tử, hắn tiếp, “Ngài Oda đã nói, chỉ có đại sư  Rikyū mới có thể dâng trà cho ta, dạy cho ta, nói cho ta nghe đường đi của hương trà lan toả trong cõi không gian này, đánh động từng nhành rơm trên chiếc chiếu tatami, giữa cơn gió thoảng ngoài kia mang cả chuyển động bốn mùa vào trong tách trà này.” Công tử hai tay cầm lấy bát trà xoay nhẹ nó, “Những chuyển động, chuyển động.” mạch chảy của trà xoáy vào giữa bát, đẩy hương thơm từ trà lên cánh mũi của công tử, hắn tiếp, “đó là ánh trăng của mặt nước mùa thu, là âm thanh của lũ côn trùng nỉ non giờ báo tử, cánh nhài đêm chấp chới bên ánh đèn cầy và bị thiêu cháy một phần, lảo đảo ngã xuống chiểu rơm, bùng lên, bùng lên.” Cánh mũi công tử nở to hơn để đón mùi hương rào rạt bắt đầu xông thẳng lên xoan mũi, “Đó là trà. Trà của ngài Rikyū không phải để uống mà để thưởng thức. Ôi. Dòng dõi trà của ngài Sen, bên dưới niềm tin của tướng quân Hideyoshi,” đám võ sĩ samurai tim đập mạnh hơn, áp suất dòng máu trong huyết quản nhanh như đoàn quân Oda, chúng đang nghe lại câu chuyện làm nao lòng võ sĩ, một câu chuyện mà bất kỳ một samurai nào cũng hi vọng mình được dự phần vào câu chuyện đó, cái chết của Rikyū, người luôn được tướng quân Hideyoshi tin tưởng nhưng không bao giờ chung về lý tưởng, tướng quân đã ban cái chết bằng danh dự cho Rikyū, ở tuổi bảy mươi, bên trong dinh thự Jurakudai, “máu của Rikyū chảy ra từ dạ dày” công tử nhấm môi để nước trà nóng thấm lên đầu môi, “dòng máu của Rikyū chảy trên từng hương vị của môn đệ ngài.” Nước trà ấm lan từ thực quản đến khí quản, lan xuống dạ dày làm người bừng lên một sức sống bởi hơi âm của nó. Công tử tiếp, “Ngươi đúng là truyền nhân của Rikyū, hỡi Fushimi.” Fushimi đôi mắt lưng tròng, cúi rạp người trên tấm phản trước mặt chủ nhân, với hắn, lời khen ngợi của chủ nhân còn hơn cả danh dự tiền tài và địa vị mà cả đời hắn đánh đổi, kể cả cái tên Fushimi cũng do công tử đặt cho hắn, cái tên xuất phát từ lâu đài mà tướng quân Hideyoshi xây dựng nhằm vinh danh trà sư Rikyū khi hắn được pha cho công tử bát trà đầu tiên, trong cái quán lá hèn mọn ven đường, trong mùi mồ hôi chật hẹp của lũ tiện dân. Ngài đã uống ly trà của hắn bằng tất cả sự trịnh trọng mà không bổ bả của đám tiện dân trong làng, từ lúc đó, hắn đã quên hẳn cái tên mà cha mẹ đặt cho mình, cả đời hắn từ đây về sau chỉ dành cho một chủ nhân duy nhất, kẻ đã mang lại một danh xưng cao quý cho hắn, Fushimi.
Khi nhìn lên không khỏi thất vọng, công tử không thấy lão Tâm ở đâu, người lắng nghe câu chuyện và phép uống mà hắn tự xem là tinh tế đến cao quý của mình, chỉ có đám tuỳ tùng của mình. Thật ra vốn liếng tiếng Phù Tang của lão Tâm có giới hạn, lão chỉ là con buôn, tiếng Phù Tang mà lão biết chỉ đủ để dùng mua bán với thuyền buôn người Nhật. Mọi hoạt động giao tiếp với công tử, chủ yếu qua sự phiên dịch của Thanh, một người khá sõi tiếng Annam. Lúc này, lão Tâm lúi cúi ở nhà sau, lão nói vợ chuẩn bị thức ăn đón tiếp đoàn khách lạ. Cánh cửa gỗ đùng đùng những tiếng gõ. Mạnh và thô bạo. Thứ âm thanh như đe doạ. Lão vội chạy ra phía nhà trước, lòng thầm nghĩ, lẽ nào là những người thu thuế? Nhưng trước cửa nhà đã treo môn bài rồi mà. Hay là nhóm khách đã mời? Nhưng những món hàng đấu giá tối nay đều đắt tiền, chỉ có những bậc quyền quý mới có tiền chi trả, những con người như vậy sao lại có kiểu gõ cửa thô lỗ như vậy? Thật ra lão Tâm cũng không rõ bao nhiêu khách được mời, lão chỉ biết người chủ thật sự những món đồ đấu giá tối nay thông báo vỏn vẹn, có năm nhóm khách. Chỉ năm. Đó là cái đêm kỳ lạ, khi nước lũ đổ về, dòng thu ba[2] nức nở trong cơn mưa, những lớp sóng từ biển thu mình lại ở phía xa nhường đường cho tiếng ầm ầm của những xoáy nước cuốn lớp đất đá đôi bờ tả ngạn Thu Bồn.
Trong một đêm, nước lũ đã dâng lên nửa căn nhà, tiếng ầm ầm của mùa dông bão bắt đầu, cơn khí nóng nhiều ngày nay đã báo hiệu một cuộc giao hoan tình tự của thời tiết, lớp khí nóng cuộn lên trời cao bị đẩy ra biển hoà với hơi nước xoáy thành những vòng mây. Cuồn cuộn. Chúng kéo vào cảng thị Hội An.
“Chủ cửa hiệu mở cửa!” Kèm theo tiếng gõ cửa inh ỏi.
Vượt qua lớp nước dâng lên gần nửa bụng, nặng nề đẩy chân qua mạch nước chảy dưới chân, lão Tâm nâng khúc gỗ chặn cửa, “Từ từ, tới liền.” Tiếng gõ vẫn chưa dừng, thang âm nặng nề của người bên ngoài hối thúc, “Lồm gì như ri thế!”. Khúc gỗ chặn cửa rất khó nhấc lên, lão biết bên ngoài mực nước dâng cao hơn trong nhà, phải cố gắng đẩy cửa ra phía trước để nâng khúc gỗ chặn lên. Nước tràn mạnh vào, đầu mũi ghe chạm gần ngực lão. Tiếng người trên ghe nói nhanh, “Năm ni nước cao hỉ.” nói rồi cười, “Ông ni tìm ông.” Tay chèo chỉ về phía sau, trong thứ ánh sáng nhợt nhạt của trăng mười bốn, một người đàn ông đội chiếc nón lá đứng đầu mũi thuyền kia đang quay lại.
“Ông Tâm?”
“Là lão.”
“Tôi mang đến cho ông một cơ hội làm giàu.”
“Có tui hông chú?” Người chèo đò đưa tay vắt nước mưa trên áo.
Người đàn ông không đáp, vẫn hỏi lão Tâm, “Tôi vào được chứ?”
“Để tôi nâng mái nhà lên.” Nói rồi lão Tâm kéo mảnh xích kế bên cửa, tiếng lạch cạch vang lên rồi phía trên mái nâng dần lên, đủ để chiếc ghe trôi vào, nhưng phải khom người xuống. Lão chỉ tay về phía nhà trong, “Ngài chịu khó đến bên cạnh lầu trên, tôi sẽ cho người thả thang xuống.” Rồi lão thét lớn, “Bà nó! Đón khách.” Một người phụ nữ lưng hơi còng, miệng còn nhóm nhép miếng trầu, đến bên lầu thả chiếc thang gỗ xuống để người đàn ông bước lên thang. Ông ta không quên cái quày bằng gỗ, nơi đựng tay nải của mình. Ông ta quẳng lên đầu mũi ghe vài đồng tiền, người chèo cảm ơn rối rít rồi chống sào cho ghe lùi ra ngoài. Lão Tâm hạ mái cửa xuống.
“Ngài tên gì?” Lão Tâm hỏi tay rót trà vào tách, ánh đèn dầu phấp phới một khuôn mặt tối bởi chiếc nón lá vẫn chưa tháo ra khỏi đầu.
“Việc đó không quan trọng. Ông thường tổ chức đấu giá vào khi nào?”
Hơi rung động, nhưng cử chỉ lão Tâm vẫn hoà nhã, “Nào có. Ngài đã nghe lời đồn bậy.”
Người đàn ông vẫn không quan tâm, ông ta biết lão Tâm ban ngày kinh doanh hiệu thuốc, tối đến, lão lang thang bến thuyền để mời một số nhà buôn đến nhà đấu giá đồ cổ Trung Hoa, đồ cổ miền Ngoài và có cả đồ dùng ở phủ Chúa ngoài Thuận Hoá. Đôi lúc, lão mua một số mặt hàng của người Tây bán cho người Nhật, hoặc ngược lại. Việc của lão lén lút, bởi nếu phủ chúa biết, lão phải đóng thuế cao hơn. Cả đời lão gắn liền với cảng thị này, lão hiểu rõ cách thức mà thuyền buôn mua bán, lão nói được dăm bảy thứ tiếng để bán cho họ những gì họ cần. Đưa tay vào quày, lấy ra tay nải, chầm chậm mở ra nhưng vẫn nhìn thấy ánh mắt biến động của lão Tâm. “Tôi cần ông đấu giá nó.”
Phải chăng là tay chủ món hàng này trở lại? Tay lão nâng cánh khúc gỗ lên như cách đã từng đón tiếp người đàn ông kia. Không. Một mùi mồ hôi khó chịu xộc vào mặt, lớp nắng buổi chiều vẫn làm choá mắt lão, một kẻ khệ nệ nhưng cao lớn, hắn béo ú đến mức miếng vải nịt lấy bụng hắn như muốn bung ra. Hắn nói bằng thứ tiếng Annam ngọng ngịu, thiếu vắng sự lịch sự, “Tâm phải không? Đến đấu giá. Thư mời đây.” Hắn dụi vào tay lão như một thứ vé vào cổng phải trả cho tên soát vé, không cần sự trả lời, hắn lách người đi thẳng vào trong với hơi thở phì phò của lớp ngấn mỡ đè lên khí quản. Hắn lầm bầm, không ngừng lấy mảnh vải lau mồ hôi trên mặt. Lão Tâm nghe biết đó là tiếng nói của người Hoà Lan. Mảnh giấy trước mặt, thứ chữ của người Hoà Lan mà lão vẫn đọc được.
Kính thư ngài Ojeda,
Nhũn nhặn dâng ngài một bảo vật xứ Đại Việt. Ngài sẽ bận tâm đến tay nghề điêu luyện đã gần đạt mức tinh xảo, là một thương nhân tinh tế, ngài sẽ tìm thấy món hời xứ này. Hãy đến căn nhà bên bờ phố Hoài, hỏi nhà lão Tâm. Tôi có thể cung cấp cho ngài nhiều hơn những gì ngài thấy.
Một người AnNam.
Khệ nệ, không cần mời, Ojeda ngồi phẹt lên tấm phản cách không xa phía công tử ngồi. Ojeda cười hề hề nhìn đám người Phù Tang, đưa bàn tay tròn lẳn với đôi mắt ti hí nửa chào hỏi nửa chọc ghẹo. Lớp mồ hôi vẫn đua nhau chảy ra và thấm lên râu, Ojeda thở phì phò nhìn về phía công tử, trong khi bốn tên võ sĩ đạo tay bắt đầu nắm chặt vào kiếm của mình. Lão Tâm bước vào, lão vội thu xếp cho Ojeda ngồi ở phía mành tre nhìn ra giếng trời. Mành tre kéo lên, lớp không khí lùa vào phòng khách, đến lúc này người ta mới thấy sự thoải mái trên khuôn mặt Ojeda. Hắn đưa ngón tay cái lên trước mặt lão Tâm, cười hà hà, “Mát. Mát.” Thứ tiếng Annam cụt ngủn, nhưng đủ để mặc cả.
Lão Tâm nhìn về công tử, thấy đôi tay hắn như rung lên, chỉ là cảm giác. Nhưng người ta có thể dễ dàng đọc được cảm xúc của vị công tử lúc này, hắn cảm thấy bị xúc phạm. Thanh bước đến gần công tử, hạ người thấp xuống để miệng gần phía tai công tử, nói gì đấy, công tử dịu người xuống. Thanh đến gần lão Tâm nói, “Buổi đấu giá diễn ra vào tối nay phải không? Lão có thể thu xếp cho công tử nhà ta một cái buồng để ngài nghỉ ngơi? Chuyến đi xa đã lấy hết sức lực của ngài.” Lão Tâm hiểu, “Được được, tôi cho người dọn phía buồng trong.”
Chẳng bao lâu, căn phòng khách chỉ còn lại tiếng phì phò của Ojeda, người ta không biết hắn đã ngủ chưa vì mắt hắn lúc này nhắm hay mở cũng như nhau, nhưng tiếng phì phò rất đều đặn. Có lẽ đã ngủ. Mà cũng ngủ. Hơi thở phì phò lúc này rải đều trong nhà, phía trên lầu, căn buồng nhỏ phủ một tấm mùng để công tử nằm, nhắm mắt. Có lẽ đã ngủ. Xung quanh là đám tuỳ tùng, ngồi, lưng thẳng, nhưng nhắm mắt. Có lẽ cũng ngủ. Giấc ngủ rất ngắn, chỉ ngủ ở tinh thần, nhưng đôi tai vẫn lắng nghe động tịnh, mọi âm thanh nhỏ dù là tiếng chim gõ trên mái ngói cũng đủ làm đám võ sĩ này tay nắm chặt lấy chuôi kiếm. Người Phù Tang gọi lối ngủ này là Inemuri, lối ngủ rất ngắn, như cái chợp mắt rồi thức tỉnh, ngủ trong khoảnh khắc của tâm hồn, ngắn gọn như vần thơ mười bảy âm tiết của haiku. “I” trong tiếng Phù Tang nghĩa là có mặt, nemuri là ngủ. Ngủ để có mặt tức thì, ngủ để thức nhiều hơn và tỉnh táo hơn. Cái khoảnh khắc với người Phù Tang như tiếng thét của thiền sư  Lâm Tế.
Riêng Thanh lúc này, bên tai chàng văng vẳng tiếng kinh kệ của người thanh niên đó, trước điện thờ đức Phật.
Hữu thời đoạt nhân bất đoạt cảnhHữu thời đoạt cảnh bất đoạt nhânHữu thời nhân cảnh câu đoạtHữu thời nhân cảnh câu bất đoạt
Rồi một tiếng thét xét toạc màn đêm. Thanh mở mắt. Mọi thứ biến mất. Bên tai là tiếng la lối ngọng ngịu của Ojeda, “Có ai không! Ta đói! Đói!”
Xung quanh đám người Phù Tang đã mở mắt từ trước, nhưng họ vẫn như pho tượng. Công tử vẫn trong chiếc mùng kia, thẳng người, im lặng. Không rõ ngủ hay thức.
Lão Tâm đến bên Ojeda dỗ dành như dỗ dành đứa trẻ, nhắc Ojeda rằng bữa cơm sắp được dọn lên và rồi, ngoài cửa lại nghe tiếng gõ. Nhẹ và khẽ. Đủ để khuấy động âm thanh vào cơn chiều muộn này. Lại khách đến, lão lẩm bẩm, ai nữa đây, hi vọng không phải là một người như Ojeda.
Cánh cửa mở ra, một người phụ nữ tuổi ngoài trung niên, thật ra là đã già nhưng thật khó đoán tuổi người Tây. Nhưng số nếp nhăn trên khuôn mặt của người đàn bà luôn ngẩn cao, với cái đầm xoè quá khổ cùng chiếc dù nhỏ trên tay. Thật lạ. Bà ta nói khá sõi tiếng Annam. “Ông là Tâm? Ta được mời đến dự buổi đấu giá vật phẩm xứ Annam này.” Rồi bà ta chìa bàn tay ra, chiếc găng tay trắng muốt, lão Tâm sững người không hiểu. Môi bà ta rung động, những nếp nhăn trên khoé miệng đủ để một người tinh tế hiểu rằng, một câu nói đã hiện lên trong đầu người đối diện, “Lũ người thiếu văn minh.”
Lão Tâm nhũn nhặn, “Bà có thư mời không?”
Tay mở chiếc túi trên khuỷu tay, bà đưa lá thư bằng thứ tiếng Anh cao quý, nét chữ thật mềm mại. Đọc sơ qua, lão Tâm đủ hiểu nó không khác gì lắm với những bức thư trước đó.
Kính thư lệnh bà Sophia,
Nhũn nhặn dâng lệnh bà một bảo vật xứ Đại Việt. Lệnh bà sẽ bận tâm đến tay nghề điêu luyện đã gần đạt mức tinh xảo, là một quý bà tinh tế, bà sẽ tìm thấy món hời xứ này. Hãy đến căn nhà bên bờ phố Hoài, hỏi nhà lão Tâm. Tôi có thể cung cấp cho lệnh bà nhiều hơn những gì bà thấy.
Một người AnNam.
“Cứ tưởng ai xa lạ, thì ra là bà bá tước, Sophia. Ngọn gió nào đưa bà đến vùng Viễn Đông này?” Người đàn ông phía sau nói bằng thứ tiếng Anh giọng Pháp.
“Tôi cứ tưởng người như ông sẽ không dám đi đâu xa trừ khu ổ chuột Luân Đôn, hoá ra nơi đây cũng không khác lắm.” Bà bá tước nói nhưng vẫn không nhìn về sau, “À không, phải nói ngược lại, khu ổ chuột yêu mến ngài, như đĩ điếm tìm đến khách chơi, như cống rãnh dựa hơi loài chuột. Vậy thì, vùng đất này đã làm gì nên tội mà lũ chuột lại tìm đến?”
Người đàn ông đi thẳng vào nhà, tay lão Tâm lại có một tấm thiệp. Không cần mở nó ra, bởi nét chữ bên ngoài giống hoàn toàn trong lá thư gửi bà bá tước Sophia.
Kính gửi ngài Louis J. X. François
Thì ra là người Phú Lang Sa, lão Tâm lại lẩm bẩm. Lão đưa tay mời bà Sophia vào. Miệng Sophia mỉm cười, ngẩn đầu đi vào trong. Lão Tâm cũng bật cười thầm, người Anh Cách Lan thật kỳ lạ.
Lão Tâm nhìn lên, bóng chiều đã phủ trên mái ngói, mặt trời chỉ còn là một sợi chỉ vàng vắt lên tầng mây. Bước vào phòng khách, Ojeda cùng Sophia bắt đầu làm quen với nhau, còn François xem chừng vẫn hậm hực. Hắn quẩn quanh phòng khách, xem những bức tranh thuỷ mặc trên vách tường. Đôi lúc, hắn chen ngang vào câu chuyện của hai người, rồi lại tiếp tục săm soi những món đồ trong phòng. Hết tranh rồi đến bình trà, hết bình rồi đến những món đồ lạ lẫm với người Pháp, như cái ống nhổ, đồ têm trầu, những chiếc mặt nạ hình lãnh chúa người Chăm xưa bằng đất nung. Chủ yếu để giết thời gian, thời gian làm cho một cuộc nói chuyện trở nên gần gũi hơn, làm cái khoảng cách về phương diện địa lý trong tâm hồn con người ngắn bớt, xoá cái mặc cảm từ định kiến của tuổi tác. Và rồi, François cũng ngồi xuống ghế tiếp tục câu chuyện nửa gián đoạn nửa liên tục của Sophia và Ojeda. Nếu ở Châu Âu, việc bắt chuyện một cách nhanh chóng thế này sẽ khó xảy ra, người ta cần thời gian để sự hội nhập diễn ra một cách tự nhiên mà không sồ xã, nhưng ở vùng Viễn Đông xa xôi này; chặn đường dài đủ sinh ra nhiều câu chuyện mà người ta muốn giãi bày, với họ, người Tây, hành trình xa xôi, lênh đênh trên biển cả, cập bến hàng chục lần, tiếp cận những nền văn minh xa lạ và huyền bí, vốn chỉ có trong trí tưởng tượng từ những quyển nhật ký hành trình mà họ đọc được. Thì bây giờ, lúc này, họ là một phần của câu chuyện, một phần của sự huyền bí được thêu dệt, một phần của giấc mơ chính mình trong cuộc hành hương vượt qua vùng miên viễn của tâm hồn. Ai mà biết được những điều họ nói với nhau mà không bị thêu dệt? Ai cũng xem mình có những trải nghiệm sâu sắc đến mức, người khác không tài nào thấu hiểu, những thứ trải nghiệm không cần đặt câu hỏi mà chỉ nên lắng nghe bằng lời trần thuật. Đôi lúc, Sophia đưa tay lên miệng, đôi mắt mở to khi nghe Ojeda kể về cơn bão nhiệt đới vùng biển Ấn Độ Dương, nhưng rồi Sophia đưa tay ra dấu hiệu thể hiện rằng, cơn bão nhiệt đới mà mình trải qua cũng ghê gớm không kém, không chừng còn hơn.
Trên căn gác, dường như công tử đã thức dậy mà cũng có thể đã dừng cơn thức tỉnh, chẳng ai biết công tử suốt mấy canh giờ này ngủ hay thức. Vẫn trong chiếc mạng che mặt, bước nhẹ xuống cầu thang cùng lũ tuỳ tùng, bước qua cái giếng trời giữa nhà. Công tử dừng lại, “Sam!” Thanh bước đến cạnh. “Ngươi có cảm giác nơi đây rất quen thuộc không?” Thanh nhìn quanh khoản sân nhỏ, một cái bàn gỗ đóng sơ sài cùng bộ ấm chè của người Annam, đặt cạnh một cái lu nước để chứa nước mưa. Cạnh tường, mớ dây leo đã ăn vào trong phủ kín. Đến giờ Thanh mới để ý có một bức tượng Phật Amida bằng đá, một thứ đá bóng nhẫy với nhiều lớp gân màu cánh gián. Thanh buộc miệng, “Tượng Phật này…” Giọng công tử trầm lắng hẳn, “Trong ngôi biệt viện năm đó.” “Không thể nào.” Thanh nói người hơi rùng mình, chầm chậm bước đến bức tượng, điêu khắc tỉ mỉ và tinh xảo, cao bằng người thật được đặt trên một cái bệ đá xanh mà nước mưa đã bào mòn thành những vết lõm nhỏ, lũ rêu bám đầy. Thanh đưa tay sờ lên đầu bức tượng, hi vọng tìm thấy một dấu vết nào đó, thở phào nhẹ nhõm, không có. Thanh thấy buồn cười, tự nhắc mình thần hồn át thần tính[3]. Văng vẳng, Xứ tôi người ta tin rằng trong mỗi con người có hai vị thần cai quản, một người cai quản phần linh hồn và người còn lại cai quản tính tình, nhưng theo như những quyển sách ở đây mà tôi đọc được, nó còn có nghĩa là vị thần cai quản cảm xúc và lý trí. Khi cảm xúc được đặt lên khỏi lý trí, người ta xem là sự chiến thắng của vị thần cai quản linh hồn. Thanh nhìn lại phía công tử, có thể nhận ra bàn tay run rẩy của ngài đang che dấu qua lớp áo. Thanh lắc đầu, công tử như thở phào nhẹ nhõm. Lão Tâm lúc ấy đang đi đến, thấy đám người Phù Tang săm soi bức tượng Phật, lão nói, “Đây là tượng Phật có ở đây rất lâu, trước khi tôi xây căn nhà này lên.” Lão nhìn Thanh và tiếp, “Tôi xem thầy phong thuỷ, biết nó có vị trí trấn yểm quỷ của bờ sông này. Hơn nữa còn liên quan đến lời nguyền của dòng sông.” Thanh nhắc lại, “Quỷ bến sông này?” Công tử tuy không hiểu tiếng Annam như Thanh, nhưng bõm bẽm vài chữ thì vẫn nhận ra, bước đến lắng nghe. Ba người Tây phía phòng khách cũng bước ra như muốn nghe câu chuyện. Lão Tâm thấy vậy bèn sai mụ vợ mang ít ghế ra giữa sân ngồi nghe kể chuyện, vào vừa trình bày bằng tiếng Nhật đôi lúc lại chuyển sang tiếng Anh để đám người Tây có thể hiểu.
[1] Từ cổ chỉ hải tặc, từ này thông dụng ở Nhật.
[2] Thu ba: sóng nước mùa Thu.
[3] Nhiều người gọi quen là Thần hồn nát thần tính, hoặc thần hồn nhát thần tính.