Một bài luận của mình trong học phần Nhân học Văn hoá do PGS. TS. Nguyễn Hữu Thức - Giảng viên cao cấp Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương, nguyên Vụ trưởng Vụ Văn hóa - Văn nghệ, Ban Tuyên giáo Trung ương giảng dạy với đề bài "Nêu cảm tưởng và cho biết những nội dung trong môn Nhân học Văn hoá mà anh/ chị tâm đắc? Vì sao?".
---
Với em, điều em tâm đắc nhất trong học phần này đó là “Các trường phái lý thuyết Nhân học văn hóa”.

Thuyết tiến hoá luận

Về thuyết tiến hoá luận, bản thân em trước kia là một học sinh năng khiếu môn Sinh học, nên cũng rất quan tâm đến các vấn đề về tiến hoá, di truyền, các hình thái quần thể, quần xã. Em không nghĩ rằng sẽ có một ngày áp dụng được những kiến thức em từng được học và chuyên ngành Quản lý Văn hoá. Ngoài ra, những năm gần đây em cũng học tập và nghiên cứu qua bộ sách “Lược sử loài người” và “Lược sử tương lai” của tác giả Yuval Noah Harari (Tiến sĩ đại học Oxford). Theo lược sử thời gian: cách mạng nhận thức, cách mạng nông nghiệp, sự thống nhất của loài người, cách mạng khoa học, cuốn sách tập trung lý giải những hiện tượng từ 13,5 tỉ năm trước khi vật chất và năng lượng xuất hiện, đến sự tiến hoá của chi Homo, sự tồn tại của Homo Sapiens và qua đó đặt ra những giả thiết/ giả thuyết của loài người trong tương lai. Cuốn sách lý giải từ việc tại sao đàn ông thường gia trưởng, đàn bà thường cung phụng phối ngẫu của mình, chế độ một vợ một chồng/ sống bầy đàn và cùng chăm sóc con cái, tiền tệ, thể chế chính trị, tôn giáo… và qua học phần này em mới biết đó là dựa trên tiền đề xã hội và tiền đề tự nhiên, từ đó áp dụng góc nhìn về hai tiền đề cơ bản này lên mọi hiện tượng văn hoá từ quá trình hình thành, phát triển và biểu hiện đều có thể lý giải nó một cách dễ dàng. 
Bài giảng của thầy về phần này có viết:
Các nền văn hóa đều trải qua các giai đoạn khác nhau và mang tính chất đồng hướng, theo một quy luật nhất định. - PGS. TS. Nguyễn Hữu Thức
Em xin trích lại một đoạn của cuốn sách Lược sử loài người:
Cách tốt nhất để đánh giá đúng xu hướng chung của lịch sử là đếm số lượng thế giới người riêng rẽ cùng tồn tại ở bất cứ thời điểm nào trên hành tinh. Ngày nay, chúng ta thường nghĩ tới cả Trái đất như một đơn vị đơn lẻ, nhưng trong hầu hết lịch sử, Trái đất thực tế là một thiên hà của những thế giới người sống cô lập." – Lược sử loài người – Yuval Noah Harari, tr. 208).
Phần sau tác giả có đưa ví dụ về hòn đảo Tasmania ở nam châu Úc bị tách biệt với văn minh thế giới trong 12.000 năm. Tất cả các nền văn hóa đều trải qua các giai đoạn phát triển giống nhau theo một trật tự nhất định. 

Phân tích chức năng văn hoá

Xã hội như là một cơ thế sống trong đó mọi cơ quan có liên quan chặt chẽ với nhau. - PGS. TS. Nguyễn Hữu Thức
Về phần này làm em nghĩ đến một câu hỏi đơn giản nhưng em đã dành cả mùa hè vừa rồi để tìm cách lý giải hợp lý: sự khác nhau giữa khái niệm xã hội và cộng đồng. Vừa rồi em cũng mới hoàn thành xong một khoá học về phát triển bền vững của Trường học phát triển Việt Nam, đây là một sáng kiến hướng đến thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hiệp Quốc (SDGs) và trong khuôn khổ khoá học em cũng được học về chỉ số văn hoá, chức năng văn hoá gắn với 17 mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hiệp Quốc cụ thể tại Việt Nam. Theo đó, có 7 nhu cầu cơ bản của con người: sự trao đổi chất, tái sinh, tiện nghi, an toàn, di chuyển. sinh thành sức khỏe. 
Vì vậy, khi quay lại định nghĩa về văn hoá của UNESCO đã đưa ra:
Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động và sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc.
Có thể thấy sự liên quan mật thiết của việc phát triển bền vững (vốn là để thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người) và văn hoá, nó có tác động qua lại lẫn nhau và văn hoá là một yếu tố không thể tách rời. Nếu đặt văn hoá ngoài vòng của những yếu tố cấu thành nên sự phát triển thì phát triển lập tức trở thành suy thoái.
Em xin chia sẻ với thầy một câu chuyện trên mạng xã hội mà em bắt gặp, cách đây khoảng một tuần có một người nước ngoài ở khu vực Hồ Tây đã chụp bức ảnh một người Việt Nam vứt bàn thờ xuống Hồ Tây và bày tỏ rằng anh ta lo ngại về vấn đề môi trường, hay thậm chí có lo sợ rằng đó là hành động phi tang xác người. Nhiều người Việt Nam (trong đó có em) đã vào giải thích về phong tục này của người Việt, giải thích rằng Hồ Tây từng là một đoạn của sông Hồng, ý nghĩa của hành động đó và những vấn đề liên quan. Phản ứng của người nước ngoài trong bài đăng đó phân cực khá rõ ràng:
1.    Chỉ trích, lăng mạ phong tục lạc hậu, không thân thiện với môi trường
2.    Tôn trọng văn hoá của đất nước sở tại
Nhưng khi áp dụng lý thuyết phân tích chức năng văn hoá: 
Dân tộc có nền văn hóa của mình, gắn bó hữu cơ với nhau, tạo nên sự toàn vẹn của cơ thể sống, không nên phá vỡ trật tự, cần đảm bảo sự hài hòa, ổn định giữa các thể chế xã hội. Cần tôn trọng các yếu tố văn hóa nội sinh, trong tính toàn vẹn của nó. Khi văn hóa không còn chức năng với xã hội nữa tự nó tiêu vong.
thì sẽ thấy được hạn chế của lý thuyết này đó là ít có khả năng giải quyết các mâu thuẫn nội tại, các rối loạn chức năng và các hiện tượng bệnh lý của văn hóa. Rõ ràng việc làm nêu trên không còn phù hợp nữa vì lý do môi trường, cảnh quan. Nhưng em cũng tự đặt câu hỏi: Vậy bàn thờ không dùng nữa thì sẽ phải xử lý thế nào? Vứt ra bãi rác thì cũng có nhiều bất cập và chắc chắn cũng sẽ hình thành nên sự xung đột với niềm tin của người Việt. Đây là một câu hỏi lớn và chắc chắn với trình độ của em chưa thể đưa ra giải pháp thoả đáng ngoài việc áp dụng lý thuyết tiếp theo.

Lý thuyết tương đối văn hóa

Thuyết tương đối văn hóa là nguyên tắc mà những người khác cần hiểu về tín ngưỡng và hoạt động của mỗi cá nhân theo văn hóa của riêng cá nhân đó.
Tiếp cận lý thuyết này làm em nhớ đến bài viết của em nhân sự kiện giới chức Ấn Độ rút ống thở của các bệnh nhân cao tuổi hồi tháng 4 khi dịch Covid-19 đang leo thang ở đất nước này. Bài viết như sau:
Chuyện rút ống thở ở Ấn - luân lý của việc giết người.
Đọc tin về hệ thống y tế ở Ấn tỏ ra tuyệt vọng, cùng cực và lạnh lùng làm mình nhớ đến một tiết học nọ ở trường Harvard mà mình xem cách đây 2 năm, giáo sư Michael Sandel bắt đầu bằng một chuỗi câu hỏi, và để kiểm chứng xem tâm lý đám đông ở Việt Nam có khác những sinh viên đại học Harvard không, mình đã up lên trang instagram cá nhân với dạng biểu quyết. Nội dung các câu hỏi như sau:
Câu hỏi thứ 1: Giả sử bạn là người lái tàu, tàu đang đi với vận tốc 100km/ giờ, ở cuối đường ray có 5 công nhân đang làm việc và phanh bị hỏng, nếu tiếp tục cho tàu chaỵ sẽ giết cả 5. Trong lúc vô vọng bạn thấy bên phải có một nhánh ray phụ - nơi một công nhân đang làm việc và hệ thống bẻ lái vẫn hoạt động. Bạn sẽ bẻ lái vào đường ray phụ (giết 1 người) hay tiếp tục đi thẳng (giết 5 người)? Đâu là việc nên làm, đâu là việc bạn sẽ làm trong trường hợp này? 
Kết quả là 60% chọn bẻ lái và 40% chọn đi thẳng. Dù là nhóm đa số hay thiểu số, họ cũng có những luận cứ đủ mạnh để bảo vệ cho luận điểm của mình.
Câu hỏi thứ 2: Lần này bạn không phải người lái xe điện mà là người đứng trên cầy và quan sát, tình huống tương tự như câu hỏi thứ nhất nhưng không có đường ray phụ. Bạn tuyệt vọng nhìn con tàu sắp đâm vào 5 người công nhân cho đến khi nhận ra ngay bên cạnh mình là một người đàn ông rất béo và bạn có thể hích ông ta rơi ngay xuống đường ray phía dưới, ông ta sẽ chết nhưng cứu được 5 người công nhân. 
Kết quả là 23% chọn sẽ làm vậy trong khi 77% sẽ không làm vậy.
Câu hỏi thứ 3: Bạn là một bác sĩ của một phòng cấp cứu, có 6 bệnh nhân: 1 bệnh nhân rất nặng và 5 bệnh nhân nặng. Nếu chọn chữa cho bệnh nhận rất nặng sẽ mất một ngày và 5 bệnh nhân kia sẽ chết và ngược lại. Bạn sẽ chọn cứu 1 hay 5.
21% chọn cứu 1 người và bỏ mặc 5 người kia chết, 79% chọn sẽ cứu 5 người.
Câu hỏi thứ 4: Lần này bạn là một bác sĩ phẫu thuật cấy ghép nội tạng, bạn có 5 bệnh nhân mỗi người cần ghép một bộ phận để sống và không có ai hiến tạng. Cùng lúc đó có một có một anh chàng khoẻ mạnh đến kiểm tra sức khoẻ. Anh ta chợp mắt một chút, bạn lẻn vào phòng, gây mê, lấy đi 5 bộ phận, anh ta sẽ chết nhưng cứu được 5 bệnh nhân. Bao nhiêu người sẽ làm vậy?
Chỉ 11% chọn làm vậy, 89% tin rằng đó là việc không nên làm.
Nhóm đa số đã có sự thay đổi, đặt ra một câu hỏi rõ ràng: điều gì đã trở thành nguyên tắc để tạo nên sự khác biệt trong việc chọn lựa cứu nhóm đa số hay thiểu số trong từng trường hợp? Đều có 1 trường hợp chọn cứu 1 người và 1 trường hợp chọn cứu 5 ở cả 2 tình huống vì vậy lý giải chọn cứu số đông có vẻ chưa hợp lý. Ở tất cả trường hợp, cả 6 người đều vô tội, vậy lý do của sự khác biệt đó là gì?
Câu chuyện ở Ấn cũng tương tự như vậy, người cao tuổi hay người trẻ đều vô tội, thậm chí người cao tuổi còn là nhóm yếu thế trong xã hội. Kể cả nếu xét về việc “thời gian sẽ sống” nếu được chữa khỏi bệnh, cũng không có gì đảm bảo rằng một thanh niên 25 tuổi sẽ có thời gian sống lâu hơn một bà cụ 65 tuổi.
Những lý giải mà mình nhận được nhiều nhất là về “lương tâm”, “đạo đức”, “việc đúng đắn nên làm”,… nhưng cái gì tồn tại trước cả đạo đức, cái gì đã hình thành, chi phối đạo đức và quyết định rằng nên bẻ lái giết 1 người để cứu 5 người và không nên giết 1 người khoẻ mạnh để lấy nội tạng giết 5 người?
Điều này có thể tạm lý giải có 2 quan điểm về đạo đức:
1. Chủ nghĩa kết quả: xác định giá trị đạo đức dựa trên kết quả của hành động, tiêu biểu là thuyết vị lợi của J. Bentham.
2. Chủ nghĩa tuyệt đối: xác định giá trị đạo đức theo điều kiện (bổn phận và quyền) tuyệt đối nào đó và không quan tâm đến hậu quả.
Những tranh luận về chính trị và pháp lý này mở ra những câu hỏi triết học. Triết học dạy chúng ta, rồi làm chúng ta bối rối bằng cách đặt chúng ta đối mặt với những điều chúng ta đã biết. Độ khó của triết học là dạy chúng ta những điều đã biết, lấy những điều chúng ta đã biết sẽ làm gì trong ngữ cảnh quen thuộc và làm nó trở nên kỳ lạ. Triết học tách chúng ta khỏi những lệ thường, khỏi những giả định quen thuộc, khỏi những niềm tin có sẵn.
Triết học chính trị hay triết học đạo đức?
Chủ nghĩa hoài nghi xuất hiện như một sự thoái thác: chúng ta không thể giải quyết dứt điểm, và vấn đề ở đây là mỗi người có một quan điểm và không có gì để nói. Đó là một sự thoái lui.
Những vấn đề đã được tranh luận trong thời gian cực kì dài và dai dẳng. Lý do không thể thoát được nó, vì chúng ta phải trả lời những câu hỏi kiểu này hàng ngày. Vì vậy với chủ nghĩa hoài nghi, buông tay và từ bỏ các suy nghĩ đạo đức không phải là giải pháp. Đó là lý do chúng ta có nhiều quan điểm triết học, từ đó hình thành nên quan điểm quốc gia, hệ thống luật pháp. Cần lưu ý rằng đã từng có những bộ luật khi người chồng phạm tội hiếp dâm, người vợ sẽ bị tử hình, tức là những gì con người từng nghĩ cũng khác những gì con người đang nghĩ. Giá trị sinh mạng con người được định giá khác nhau ở mỗi lát cắt lịch sử mặc dù nó cùng một đơn vị (sinh mạng). Âm nhạc con người nghe vào thế kỷ 21 khác với âm nhạc con người nghe vào thế kỷ 19, và nếu con người thế kỷ 21 nghe âm nhạc của thế kỷ 19 họ cũng sẽ cảm nhận khác với những gì con người thế kỷ 19 cảm nhận.
Điều đó chứng minh một điều: loài người đang tiến hoá, và ở mỗi cá thể quá trình tiến hoá diễn ra độc lập, sai số là rất bé nhưng khác nhau. Xã hội luôn chia làm 2 phần: chúng ta và họ. Chúng ta là những người giống mình về giới tính, quốc gia, quan điểm, sở thích,… còn họ là những người còn lại. Vậy tập xác định chúng ta lớn nhất là gì? Là Homo Sapiens. Đấy chính là lý do chính trị, luật pháp ra đời để giữ tập xác định ấy. Chính vì thế, luật pháp chưa chắc là điều đúng, nhưng là đều nên làm với triết học chính trị. Cần phải lưu ý rằng triết học chính trị KHÔNG làm chúng ta trở thành những công dân tốt. Trong lịch sử loài người, sự tồn vong của nhân loại chưa bao giờ được đặt lên hàng đầu, triết học chính trị quan tâm đến quốc gia của họ, những công dân dưới hệ thống chính trị của họ. 6 người của mỗi ví dụ như một quốc gia thu nhỏ: có nhóm thiểu số và đa số, yếu thế và lợi thế, chúng ta và họ: kết hôn đồng tính, cưỡng chế nhập ngũ, dân tộc thiểu số, bà mẹ đơn thân,… Nơi mà ở đó hạnh phúc, sinh mạng và quyền tư hữu được xác lập bởi nhà nước.
Nếu ai mong chờ một câu trả lời tuyệt đối thì sẽ không có bất kì một câu trả lời nào cả. Loài người dành cả lịch sử của mình để trả lời những câu hỏi đó và rồi đẩy trách nhiệm cho một thứ gọi là triết học: thứ thức tỉnh sự hiếu động của lý trí và xem nó sẽ dẫn đến đâu. Và triết học có lẽ cũng giống như vũ trụ, là vô tận. Những gì chúng ta biết có lẽ chỉ bằng một thiên hà lùn còn những học thuyết vĩ đại của Jeremy Bentham, Karl Marx, Immanuel Kant chỉ là những hạt hạ nguyên tử proton bé nhỏ.
HẾT TRÍCH.
Em muốn trích bài viết này của em, vì muốn tiếp cận lý thuyết này trên phương diện triết học, lý thuyết tương đối khá tương đồng với chủ nghĩa hoài nghi em nêu trong bài viết và khẳng định thêm một lần nữa các thuyết Nhân học có khả năng trao đổi nội dung liên ngành rất cao. Thuyết tương đối không chỉ là tương đối giữa biểu hiện văn hoá A và biểu hiện văn hoá B, mà còn là tương đối trong chính các thuyết Nhân học.
<i>Pieter Aertsen (1551), A Meat Stall with the Holy Family Giving Alms.</i>
Pieter Aertsen (1551), A Meat Stall with the Holy Family Giving Alms.

Thuyết trung tâm và ngoại vi văn hoá

Các mối quan hệ giữa trung tâm và ngoại vi, vì các mối quan hệ này hiện diện ở mọi cộng đồng, dân tộc, quốc gia, khu vực và trên toàn thế giới. 
Chúng ta vẫn thường nói nhiều đến những nền văn hoá “đích thực”, nhưng nếu “đích thực” mà chúng ta hàm ý về cái gì đó phát triển một cách hoàn toàn độc lập, và bao gồm những truyền thống địa phương cổ đại không bị tác động bởi yếu tố bên ngoài, thì theo đó không có những nền văn hoá đích thực còn lại trên Trái đất này. Trong vài thể kỷ gần đây, hầu hết các nền văn hoá đều thay đổi đến mức không thể nhận ra bởi dòng chảy cuồn cuộn của các ảnh hưởng toàn cầu. Một trong những ví dụ thú vị nhất của sự toàn cầu hoá này là ẩm thực “dân tộc”. Trong một nhà hàng Ý, chúng ta muốn món mì spahetti với sốt cà chua; ở một nhà hàng Ba Lan và Ireland thì có nhiều khoai tây; ở một nhà hàng Argentina chúng ta có thể lựa chọn nhiều loại thịt bò; ở một nhà hàng Ấn Độ, ớt cay nóng được kết hợp với mọi thứ; và điểm nổi bật của bất cứ quán cà phê ở Thuỵ Sĩ nào là sô-cô-la nóng và đặc nằm dưới một lớp kem được đánh lên thành hình ngọn núi. Nhưng không có đồ ăn nào kể trên là đặc sản của những đất nước đó. Cà chua, ớt cay và ca cao, tất cả đều có nguồn gốc từ Mexico; chúng tới châu Âu và châu Á chỉ sau khi người Tây Ban Nha xâm lược Mexico và khoai tây tới Ba Lan và Ireland mới cách đây 400 năm. Những bộ phim Mỹ đã duy trì hình ảnh người thổ dân da đỏ là những người chăn ngựa can đảm, dũng cảm tấn công những chiếc xe ngựa của thực dân châu Âu để bảo vệ truyền thống của tổ tiên họ. Nhưng họ không phải những người bảo vệ cho nền văn hoá cổ xưa và đích thực mà là sản phẩm của cuộc cách mạng chính trị và quân sự trọng đại đã quét qua vùng đồng bằng lớn ở phía tây của Bắc Mỹ vào thế kỷ 17 và 18, kết quả của việc những con ngựa châu Âu đến lục địa này. Trước đó, cho đến năm 1492, không có con ngựa nào ở Mỹ. Vậy tức là, biểu hiện văn hoá được xem là đặc trưng của một quốc gia hay một nền văn minh nào đó thường là ở những nơi mà biểu hiện văn hoá đó phát triển lên mức biểu tượng, những nơi có chỉ số văn minh cao và được coi là trọng tâm theo thuyết trung tâm và ngoại vi. Điều này cũng đúng khi ta nhìn vào tiền tệ hay ngôn ngữ được sử dụng phổ biến trên thế giới, Osama Bin Laden, cho dù có lòng căm thù đối với văn hoá Mỹ, tôn giáo Mỹ và chính trị Mỹ, nhưng lại rất thích những đồng đô-la Mỹ. Trong trường hợp này cho thấy Mỹ là một trung tâm khi nói đến sự phát triển và văn minh của nhân loại.

Trường phái tân tiến hoá

Một nền văn hóa tiến hóa theo tỉ lệ thuận với khả năng kiểm soát năng lượng của nó.
Và theo công thức của Leslie White: C = E × T (Trong đó C là văn hóa E là năng lượng và T là công nghệ. Hiểu một cách đơn giản tiến bộ công nghệ và khả năng kiểm soát năng lượng ngày càng tăng là động lực cho tiến hóa văn hóa.)
Theo những bức ảnh được NASA công bố thì những nơi sáng nhất trên thế giới (vào ban đêm) chính là những nơi phát triển nhất. Phần này là phần em chưa rõ nhất trong các thuyết Nhân học Văn hoá, tuy nhiên em cũng cố gắng diễn giải công thức trên theo một sơ đồ vòng lặp như sau:
Văn hoá cần nhiều hơn các nghiên cứu để tạo ra sự tiến bộ và phát triển. Nó phụ thuộc vào sự củng cố lẫn nhau giữa văn hoá, khoa học và kinh tế. Các tổ chức Chính phủ/ Phi Chính phủ và kinh tế cung cấp nguồn lực mà nếu không có chúng thì nghiên cứu khoa học gần như là điều không thể. Đổi lại, nghiên cứu khoa học cung cấp những năng lượng mới, mà cùng với những thứ khác sẽ được sử dụng nhằm tạo ra những nguồn lực/ nguồn tài nguyên mới phục vụ phát triển văn hoá, trong số đó sẽ được tái đầu tư cho việc nghiên cứu.

Mở ra, khép lại

Trên đây là những suy nghĩ của em về những kiến thức em tâm đắc nói riêng và học phần Nhân học Văn hoá nói chung. Vì Nhân học Văn hoá chỉ là một phân ngành trong Nhân học và với giới hạn 2 tín chỉ, chắc chắn em sẽ còn nhiều điều chưa thực sự được thông suốt. Vì vậy, nếu có những vấn đề mà từ góc nhìn của em – một sinh viên chưa có nhiều thực tiễn hoạt động, có thể có những nhìn nhận chưa đúng đắn, rất mong được thầy góp ý và giảng dạy thêm. Em có nhớ một câu nói của Tiến sĩ Nguyễn Thị Thu Hà - Phó Trưởng phòng KH&HTQT, Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam trong khuôn khổ một khoá học trực tuyến về văn hoá trong phát triển bền vững mà em tham gia, tiến sĩ Nguyễn Thị Thu Hà có chia sẻ: được nói chuyện với các bạn trẻ để có cái nhìn thực tế về những gì đang diễn ra là một cơ hội tốt cho cả những người làm công tác nghiên cứu như tiến sĩ Hà và em – một người trẻ, học tập về lĩnh vực văn hoá, tiến sĩ chia sẻ rằng những nghiên cứu dày công trong thời gian dài, sau khi nghiệm thu thì “đắp chiếu” và không áp dụng được và thực tiễn, đó là một điều đáng tiếc, điều đó thúc đẩy em lên tiếng và thậm chí là đặt mục tiêu sau này sẽ được làm công tác giảng dạy, những giảng viên tâm huyết, chuyên môn vững vàng và thực tiễn hoạt động dày dặn như thầy có nhưng rất hiếm. Một lần nữa, em cảm ơn vì sự tâm huyết của thầy, vì đề bài thu hoạch này cho sinh viên có cơ hội được phản hồi, để những ý kiến đồng thời từ trên xuống và từ dưới lên – điều mà những người học/ làm quản lý và công tác chính sách cần có.
Hà Nội, 11/2021.