Thâm hụt thương mại ngày càng tăng của nước Mỹ là đang bán dần đi chính đất nước của chúng ta. Đây là cách giải quyết vấn đề - và chúng ta cần thực hiện ngay bây giờ.
FORTUNE, 10/11/2003
Tác giả: Warren E. Buffett
Người dịch: Benjamin P. Penner
Tên bài báo gốc
Tên bài báo gốc
TÔI SẮP ĐƯA RA MỘT LỜI CẢNH BÁO liên quan đến thâm hụt thương mại của nước Mỹ, và cũng sẽ đề xuất một giải pháp cho vấn đề này. Nhưng đầu tiên, tôi cần trình bày hai lý do vì sao bạn nên hoài nghi về những gì tôi sắp chia sẻ. Trước hết, thành tích của tôi trong việc dự báo những vấn đề về kinh tế vĩ mô không mấy ấn tượng. Ví dụ như, trong suốt hai thập kỷ vừa qua, tôi luôn lo sợ một cách thái quá về lạm phát. Còn về vấn dề hiện tại, tôi đã bắt đầu thể hiện sự quan ngại một cách công khai về tình trạng thâm hụt thương mại đang tăng dần của chúng ta từ năm 1987, và như bạn biết đấy, chúng ta không chỉ tồn tại mà còn phát triển mạnh mẽ. Do đó, về phương diện thương mại, tôi đã thua ít nhất một “ván”. Tuy nhiên, tôi lại đang liều lĩnh một lần nữa và lần này là dùng tiền của Berkshire Hathaway. Cho đến hết mùa xuân năm 2002, tôi đã sống gần 72 năm trong khi chưa bao giờ mua một đồng ngoại tệ nào. Kể từ lúc đó, Berkshire đã thực hiện nhiều khoản đầu tư, và hiện tại vẫn đang nắm giữ, bằng vài đồng ngoại tệ khác. Tôi sẽ không đi sâu vào chi tiết cụ thể; nhưng thực tế là, dù chúng là những đồng tiền nào thì cũng không quan trọng. Điều quan trọng là: nắm giữ những đồng tiền khác đồng nghĩa với việc tin rằng đồng đô la Mỹ sẽ mất giá.
Với tư cách là một công dân Mỹ và là một nhà đầu tư, tôi thực sự hy vọng những niềm tin này sẽ là một sai lầm. Bất cứ khoản lợi nhuận nào mà Berkshire kiếm được từ việc giao dịch tiền tệ đều chẳng là gì so với khoản lỗ mà công ty và các cổ đông, trong các khía cạnh khác của cuộc sống, phải gánh chịu do đồng đô la giảm giá.
Nhưng với tư cách là người đứng đầu Berkshire Hathaway, tôi có trách nhiệm đầu tư tiền của công ty theo những cách hợp lý nhất. Và lý do khiến tôi cuối cùng phải thực hiện những gì tôi cần làm là vì thâm hụt thương mại của chúng ta đã trở nên tồi tệ hơn rất nhiều, đến mức mà "tài sản ròng" của đất nước, có thể nói như vậy, hiện đang được chuyển ra nước ngoài với tốc độ đáng báo động. Nếu sự chuyển dịch này trở nên lâu dài, thì sẽ gây ra vấn đề nghiêm trọng. Để hiểu tại sao, thì hãy cùng tôi thực hiện một chuyến du ngoạn thú vị đến hai hòn đảo biệt lập có cùng diện tích và nằm cạnh nhau, Phung Phí và Tiết Kiệm. Đất đai là tài sản giá trị duy nhất trên hai hòn đảo này, và những cộng đồng tại đây sinh sống ở mức độ xã hội nguyên thủy, chỉ cần có thức ăn và chỉ tạo ra thức ăn. Mỗi cư dân chỉ cần làm việc tám tiếng một ngày là đã có thể kiếm đủ thức ăn để nuôi sống bản thân anh ta hay cô ta. Và đó là điều đã diễn ra từ rất lâu. Trên mỗi hòn đảo, mọi người đều làm việc tám tiếng cần thiết mỗi ngày, có nghĩa là mỗi cộng đồng đều có thể tự cung tự cấp.
Nhưng cuối cùng, những cư dân với tư tưởng công nghiệp hóa của đảo Tiết Kiệm quyết định sẽ thực hiện việc tiết kiệm và đầu tư một cách nghiêm túc, họ bắt đầu làm việc 16 tiếng một ngày. Theo cách này, họ tiếp tục sống bằng lượng thực phẩm họ sản xuất trong 8 tiếng làm việc, nhưng bắt đầu xuất khẩu một lượng tương đương đến đối tác giao dịch duy nhất của họ, đảo Phung Phí.
Người dân của đảo Phung Phí rất phấn khích bởi sự thay đổi này, bởi vì, bây giờ họ có thể sống thoải mái mà không cần làm việc, nhưng vẫn có thể ăn uống no đủ. Ồ, đương nhiên, có sự đánh đổi ở đây, nhưng với người Phung Phí, thì dường như vô hại: tất cả những gì người Tiết Kiệm muốn nhận được để thực hiện trao đổi thức ăn là Trái phiếu Phung Phí (và hiển nhiên, chúng bị chi phối bởi đồng Phung Phí).
Theo thời gian, đảo Tiết Kiệm tích lũy được một lượng lớn những trái phiếu này, mà về bản chất là những tờ giấy nợ đảm bảo quyền sẽ nhận được những gì đảo Phung Phí làm ra trong tương lai. Một vài chuyên gia ở đảo Phung Phí nhận thấy sẽ có vấn đề xảy đến. Họ dự đoán rằng để người Phung Phí vừa có cái ăn và vừa trả hết, hay đơn giản chỉ để trả lãi, số nợ mà họ đang chồng chất, họ sẽ cần phải làm việc nhiều hơn tám tiếng một ngày. Nhưng người dân của đảo Phung Phí không có hứng thú để lắng nghe những lời mắm muối đó.
Trong khi đó, người dân đảo Tiết kiệm lại bắt đầu lo lắng. Họ tự hỏi, liệu có tin được lời hứa sẽ trả nợ từ những kẻ lười biếng của hòn đảo kia hay không? Vì vậy người Tiết Kiệm thay đổi chiến lược: mặc dù họ vẫn tiếp tục nắm giữ một số trái phiếu, họ bán phần lớn trong số đó cho người dân đảo Phung Phí, và dùng số tiền nhận được mua đất đai của đảo Phung Phí. Để rồi cuối cùng, người Tiết Kiệm sở hữu toàn bộ hòn đảo Phung Phí.
Đến lúc này, người Phung Phí bị buộc phải đối mặt với một tình thế vô cùng tồi tệ: bây giờ, họ không những phải quay lại làm việc tám tiếng một ngày để kiếm miếng ăn, vì họ không còn gì để trao đổi cả; mà còn phải làm thêm giờ để trả lãi trái phiếu và tiền thuê đất trên đảo Phung Phí, thứ mà họ đã bán một cách không suy nghĩ. Trên thực tế, đảo Phung Phí đã bị thuộc địa hóa bởi việc mua bán chứ không phải bởi xâm lược.
Nhưng bạn cũng có thể phản biện rằng, giá trị hiện tại của những gì người Phung Phí sẽ làm ra phải chuyển cho người Tiết kiệm là bằng với những gì mà người Tiết Kiệm ban đầu đã từ chối tiêu xài, và do đó, cả hai bên đều có một thỏa thuận công bằng. Nhưng bởi vì, một thế hệ của người Phung Phí hưởng lợi và các thế hệ tương lai phải trả giá mãi mãi cho điều đó, nên theo cách nói của các nhà kinh tế học, tồn tại một sự "bất bình đẳng thế hệ" khá nghiêm trọng ở đây.
Hãy xem xét trong trường hợp nếu là một gia đình: Hãy tưởng tượng, tôi, Warren Buffett, có thế có được mọi thứ tôi sẽ tiêu xài trong đời, và sẽ đổi bằng những tờ giấy nợ đứng tên gia đình Buffett, thứ mà sẽ có thể trả được bằng hàng hóa, dịch vụ và cộng thêm lãi suất, bởi con cháu của tôi. Kịch bản này có thể xem là một giao dịch công bằng, giữa gia đình Buffett và những chủ nợ. Thế nhưng, các thế hệ Buffett sau tôi sẽ không hoang ngênh thỏa thuận này (và, trời ơi, họ thậm chí có thể sẽ chối bỏ nó).
Hãy nghĩ một lần nữa về những hòn đảo kia: sớm hay muộn, chính phủ đảo Phung Phí, khi đối mặt với số tiền lãi khổng lồ phải trả, sẽ quyết định dùng đến những chính sách siêu lạm phát, đó là, phát hành nhiều đồng Phung Phí hơn nữa để pha loãng giá trị của mỗi đồng. Bởi vì, chính phủ này sẽ giải thích, số trái phiếu Phung Phí khó chịu đó chỉ yêu cầu trả về số lượng đồng Phung Phí, chứ không phải một lượng giá trị đồng tiền cụ thế. Nói ngắn gọn, khiến đồng Phung Phí ít giá trị hơn sẽ làm giảm gánh nặng tài chính của hòn đảo.
Điều này là lý do tại sao tôi, với tư cách là một người dân đảo Tiết Kiệm, sẽ lựa chọn quyền sở hữu trực tiếp đất đai đảo Phung Phí, thay vì trái phiếu chính phủ của hòn đảo này. Hầu hết các chính phủ nhận thấy rằng, về mặt đạo đức, việc tịch thu tài sản được sở hữu bởi người nước ngoài sẽ khó hơn việc làm giảm sức mua của những tấm séc mà người nước ngoài nắm giữ. Trộm cướp lén lút được ưa thích hơn trộm cướp bằng vũ lực.
Vậy mấy câu chuyện về hòn đảo này thì có liên quan thì đến nước Mỹ? Đơn giản mà nói, sau Thế chiến thứ hai và đến tận đầu những năm 1970, chúng ta hành động theo cách của người dân đảo Tiết Kiệm, chúng ta thường bán hàng ra nước ngoài nhiều hơn những gì chúng ta mua từ họ. Đồng thời, chúng ta đầu tư phần thặng dư này ra nước ngoài, với kết quả là giá trị đầu tư ròng, tức lượng nắm giữ tài sản nước ngoài của chúng ta trừ đi lượng tài sản Mỹ mà nước ngoài nắm giữ, đã tăng từ 37 tỷ đô năm 1950 lên đến 68 tỷ đô năm 1970 (số liệu được tính theo phương pháp, đã được sửa đổi sau đó, mà chính phủ khi đó đang sử dụng). Tổng cộng, vào thời đó, “tài sản ròng” của nước ta bao gồm tất cả của cải trong biên giới của chúng ta cộng với một phần nhỏ tài sản từ phần còn lại trên thế giới.
Thêm nữa, bởi vì nước Mỹ đang trong vị thế sở hữu ròng so với phần còn lại của thế giới, chúng ta nhận được thu nhập ròng từ đầu tư, bên cạnh lượng thặng dư thương mại, và sẽ trở thành nguồn vốn đầu tư thứ hai. Do đó, tình hình tài chính của chúng ta tương tự như một cá nhân vừa tiết kiệm một phần tiền lương, vừa tái đầu tư số cổ tức nhận được từ quỹ tiết kiệm hiện có của anh ta.
Vào cuối những năm 1970, vị thế thương mại đã đổi chiều, tạo ra lượng thâm hụt mà ban đầu chỉ chiếm khoảng 1% GDP. Điều này không mấy nghiêm trọng, bởi vì thu nhập ròng từ đầu tư vẫn đang dương. Mà thực ra, nhờ có sức mạnh của lãi kép ủng hộ cho ta, số dư sở hữu ròng của chúng ta đạt mức cao nhất vào năm 1980 với 360 tỷ đô la.
Tuy nhiên, kể từ đó, mọi thứ đã tệ đi, với tốc độ suy giảm gia tăng nhanh chóng trong năm năm qua. Thâm hụt thương mại hàng năm của chúng ta bây giờ đã vượt 4% GDP. Điều đáng quan ngại tương tự là, phần còn lại của thế giới đang sở hữu một con số đáng kinh ngạc, 2.5 nghìn tỷ đô la, nhiều hơn những gì nước Mỹ sở hữu từ các nước khác. Một số trong 2.5 nghìn tỷ này đang được đầu tư vào giấy tờ có giá - trái phiếu Mỹ, cả của chính phủ và tư nhân - và một số khác vào các tài sản khác như bất động sản và chứng khoán vốn.
Thực tế là, nước ta đang hành động như một gia đình giàu sụ, sở hữu một nông trại rộng bao la. Để tiêu dùng 4% nhiều hơn những gì chúng ta làm ra, chính là khoảng thâm hụt, chúng ta đang mỗi ngày vừa phải bán đi một phần của nông trại và vừa tăng thêm khoản thế chấp mà ta đang nợ.
Để hiểu rõ hơn quy mô của 2.5 nghìn tỷ đô sở hữu ròng của nước ngoài này, hãy so sánh nó với con số 12 nghìn tỷ giá trị của toàn bộ cổ phiếu đang niêm yết của Mỹ, hay khoản tương đương của toàn bộ bất động sản nhà ở tại Mỹ, hay với con số mà tôi ước lượng là toàn bộ 50 nghìn tỷ đô tài sản quốc gia. Những so sánh này cho thấy rằng những gì được chuyển ra nước ngoài là một con số đáng kể, vào khoảng, ví dụ như, tương đương 5% tài sản quốc gia của chúng ta.
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là, sở hữu nước ngoài đối với tài sản của ta sẽ tăng khoảng 500 tỷ đô mỗi năm xét theo mức thâm hụt thương mại hiện tại, có nghĩa là, lượng thâm hụt này sẽ làm tăng thêm một phần trăm mỗi năm cho sở hữu nước ngoài đối với tài sản của ta. Và khi lượng sở hữu này tăng lên, thì thu nhập ròng hàng năm từ đầu tư cũng sẽ rời khỏi đất nước này. Điều này buộc chúng ta phải trả một lượng cổ tức và lãi suất ngày càng tăng cho thế giới, thay vì là người nhận chúng, như trong quá khứ. Chúng ta đã bước vào thế giới của việc tích lũy lãi kép âm - tạm biệt thoải mái, xin chào đau khổ.
Chúng ta đã được dạy trong nhập môn Kinh tế học rằng, các quốc gia không thể duy trì một lượng lớn và tăng dần thâm hụt thương mại. Đến một lúc nào đó, người ta sẽ khẳng định rằng cơn sốt tiêu dùng của đất nước hạnh phúc này sẽ bị kìm hãm bởi sự điều chỉnh tỷ giá hối đoái, và bởi các nước chủ nợ sẽ không sẵn lòng tiếp tục cho phép kẻ chi tiêu mạnh tay này gia tăng thêm số giấy nợ một cách vô tận. Và đó là điều đã thực sự diễn ra với phần còn lại của thế giới, như chúng ta có thể thấy thông qua việc bị cắt giảm tín dụng đột ngột của các quốc gia hoang phí đã phải trải qua trong những thập kỷ gần đây.
Tuy nhiên, nước Mỹ lại có thể tận hượng một vị thế đặc biệt. Trên thực tế, chúng ta có thể hành xử như ta muốn ngày hôm nay là bởi vì hành vi tài chính của chúng ta trong quá khứ là rất mẫu mực, và cũng bởi vì chúng ta quá giàu có. Dù là khả năng hay là ý muốn trả nợ của chúng ta đều không bị đặt nghi vấn, và chúng ta sẽ tiếp tục có một núi tài sản đáng mong muốn để đổi lấy đồ tiêu dùng. Nói cách khác, thẻ tín dụng quốc gia của chúng ta cho phép chúng ta dùng với một hạng mức vô cùng lớn. Nhưng mức tín dụng của chiếc thẻ đó không phải là vô hạn.
Thời điểm để dừng việc đổi tải sản để lấy đồ tiêu dùng là ngay bây giờ, và tôi đề xuất một chính sách để thực hiện điều này. Giải pháp của tôi có thể sẽ nghe như một chiêu trò quảng cáo, và nó thực chất là một loại thuế quan nhưng được gọi bằng một cái tên khác. Nhưng đây là một loại thuế có khả năng giữ được hầu hết những ưu điểm của thị trường tự do, vừa không bảo hộ riêng biệt một ngành nào, vừa không trừng phạt một quốc gia cụ thể nào, và vừa không khuyến khích chiến tranh thương mại. Chính sách này sẽ gia tăng xuất khẩu của chúng ta, và có thể cũng sẽ giúp gia tăng giao thương toàn cầu. Và nó sẽ cân bằng sổ sách của chúng ta mà không làm giảm giá đáng kể giá trị đồng đô la, điều mà tôi tin gần như chắc chắn sẽ xảy ra.
Chúng ta sẽ đạt được sự cân bằng này thông qua việc phát hành thứ mà tôi sẽ gọi là Chứng chỉ Nhập khẩu (Import Certificate - IC) cho tất cả các nhà xuất khẩu của Mỹ, với số lượng tương đương với giá trị đô la mà họ xuất khẩu. Đến lượt họ, mỗi nhà xuất khẩu sẽ bán những chứng chỉ IC này cho các bên, dù là nhà xuất khẩu của nước ngoài hay là nhà nhập khẩu trong nước, muốn đưa hàng hóa vào nước Mỹ. Ví dụ, để nhập khẩu 1 triệu đô la hàng hóa, một nhà nhập khẩu phải cần có số IC sản sinh từ 1 triệu đô la hàng xuất khẩu. Kết quả không thể tránh khỏi: cân bằng thương mại.
Bởi vì tổng giá trị xuất khẩu của ta vào khoảng 80 tỷ đô một tháng, số lượng IC sẽ được phát hành với lượng lớn tương đương - 80 tỷ chứng chỉ một tháng; và do đó, chúng chắc chắn sẽ được giao dịch trên thị trường với mức thanh khoản khổng lồ. Sau đó, sự cạnh tranh sẽ xác định người nào, trong số các bên muốn bán hàng cho chúng ta, sẽ mua chứng chỉ và cái giá họ sẽ trả. (Tôi nghĩ rằng những chứng chỉ này nên được phát hành với thời hạn ngắn, có thể là sáu tháng, để không khuyến khích những nhà đầu cơ tích lũy chúng.)
Để minh họa rõ hơn, hãy giả định rằng mỗi IC được bán với giá 10 cent, tức 10 cent trên mỗi 1 đô la giá trị xuất khẩu mà nó đại diện. Những yếu tố khác là như nhau, con số này có nghĩa là một nhà sản xuất của Mỹ có thể kiếm thêm 10% nhiều hơn, khi anh ta xuất khẩu hàng ra thị trường nước ngoài so với việc bán lượng hàng này trong trước, với con số 10% thêm này đến từ doanh thu bán IC.
Theo ý kiến của tôi, nhiều nhà xuất khẩu sẽ xem khoản thu được này như một cách giảm chi phí hàng hóa, giúp họ giảm giá sản phẩm của họ trên thị trường quốc tế. Đặc biệt những sản phẩm thuộc loại hàng hóa cơ bản (commodities) sẽ càng dễ bị ảnh hưởng bởi kiểu hành vi này. Ví dụ, nếu nhôm được bán với giá nội địa 66 cent một pound và IC đáng giá 10%, những nhà sản xuất nhôm trong nước có thể bán chúng với giá 60 cent một pound (cộng với chi phí vận chuyển) tại thị trường nước ngoài, và vẫn có thể đạt được biên lợi nhuận như thường lệ. Với kịch bản này, hàng hóa của nước Mỹ sẽ trở nên cạnh tranh hơn rất nhiều, và xuất khẩu sẽ tăng trưởng. Theo đó, số lượng việc làm sẽ tăng theo.
Hiển nhiên, các nước khác bán hàng cho ta sẽ phải đối mặt với tình thế khó khăn hơn. Nhưng đó là vấn đề họ sẽ phải đối mặt dù cho “giải pháp” thương mại nào được áp dụng, và đừng nhầm lẫn, rồi một giải pháp cũng sẽ phải được đưa ra. (Như Herb Stein đã từng nói, “Nếu một thứ không thể tiếp diễn mãi mãi, nó sẽ dừng lại.”) Cách tiếp cận sử dụng IC sẽ tạo ra sự linh hoạt đáng kể cho những nước nào bán hàng cho ta, bởi vì chính sách này không trừng phạt một ngành hay sản phẩm riêng biệt nào. Mà cuối cùng, thị trường tự do sẽ quyết định cái gì sẽ được bán ở thị trường Mỹ và ai sẽ bán chúng. Các chứng chỉ IC sẽ chỉ quyết định tổng sản lượng đô la hàng hóa được bán ra.
Để biết điều gì sẽ xảy ra đối với các nhà nhập khẩu, hãy xem xét một chiếc xe được nhập vào Mỹ với chi phí 20,000 đô đối với nhà nhập khẩu. Với chính sách mới và giả định rằng IC sẽ được bán với giá 10%, chi phí của nhà nhập khẩu sẽ tăng lên 22,000 đô. Nếu nhu cầu của chiếc xe này thực sự lớn, nhà nhập khẩu có thể xoay sở để chuyển toàn bộ chi phí này sang người tiêu dùng Mỹ. Tuy nhiên, trong trường hợp thông thường, áp lực cạnh tranh sẽ vào cuộc, buộc nhà sản xuất nước ngoài phải hấp thụ một phần, nếu không nói là toàn bộ, khoản chi phí 2,000 đô IC này.
Không có bữa ăn nào là miễn phí, ngay cả với chính sách IC này: nó chắc chắn sẽ có những hệ quả nghiêm trọng đối với công dân Mỹ. Giá của hầu hết hàng hóa nhập khẩu sẽ tăng, và theo đó là giá của những hàng hóa cạnh tranh được sản xuất nội địa. Do đó, chi phí từ những chứng chỉ này, dù là một phần hay toàn bộ, sẽ hoạt động như một loại thuế đánh lên người tiêu dùng.
Đây là một bất lợi nghiêm trọng. Nhưng cũng sẽ có những bất lợi khác, nếu ta tiếp tục để đồng đô la mất giá, hoặc nếu ta tăng thuế quan đối với các sản phẩm cụ thể, hoặc nếu ta đặt hạn ngạch đối với chúng - những con đường mà theo tôi là có ít cơ hội thành công hơn. Dù vậy, sau tất cả, nỗi đau từ việc hàng hóa nhập khẩu có giá cao hơn sẻ chỉ lu mờ khi đặt cạnh nỗi đau chúng ta cuối cùng phải trải qua, nếu chúng ta buông xuôi và tiếp tục bán đi những phần lớn hơn nữa từ tài sản của đất nước ta.
Tôi tin rằng IC sẽ nhanh chóng tạo ra sự cân bằng thương mại, ở mức cao hơn đáng kể mức xuất khẩu hiện tại, nhưng thấp hơn mức nhập khẩu hiện tại. Những chứng chỉ này cũng sẽ phần nào hỗ trợ tất cả các ngành công nghiệp của chúng ta trên thương trường quốc tế, dù rằng bản thân thị trường tự do mới là thứ quyết định ngành nào trong số chúng cuối cùng rồi sẽ vượt qua bài kiểm tra “lợi thế cạnh tranh”.
Chính sách này sẽ không thể bị sao chép bởi những đất nước có xuất khẩu ròng, bởi vì IC của họ sẽ không có giá trị. Nhưng, liệu những nước xuất khẩu hàng đầu sẽ trả đũa bằng cách khác hay không? Liệu điều này sẽ bắt đầu một cuộc chiến thuế quan giống Smoot-Hawley không? Khó có thể. Vào thời của Smoot-Hawley, chúng ta có mức thặng dư thương mại không hợp lý mà chúng ta muốn duy trì. Bây giờ, chúng ta lại có mức thâm hụt nghiêm trọng mà cả thể giới biết rằng ta phải khắc phục.
Trong nhiều thập kỷ, thế giới đã phải vật lộn với mê cung đầy biến động của các loại thuế trừng phạt, trợ cấp xuất khẩu, hạn ngạch, những đồng tiền có tỷ giá cố định gắn với đồng đô la, v.v. Nhiều công cụ hạn chế nhập khẩu và khuyến khích xuất khẩu đã được áp dụng trong thời gian dài bởi các quốc gia xuất khẩu lớn, khi họ cố gắng khiến thặng dư tăng cao hơn nữa - dù vậy, vẫn chưa có cuộc chiến tranh thương mại lớn nào xảy ra cả. Chắc chắn sẽ không có ai hành động hấp tấp trước một đề xuất chỉ nhằm mục đích cân bằng sổ sách của quốc gia có mức thâm hụt thương mại lớn nhất thế giới. Các nước xuất khẩu lớn đã hành xử khá lý trí trong quá khứ, và họ sẽ tiếp tục làm thế; mặc dù, như thường lệ, vì lợi ích của bản thân, họ sẽ cố gắng thuyết phục chúng ta rằng họ sẽ hành xử khác trước.
Kết quả rất có thể xảy ra của chính sách IC là các quốc gia xuất khẩu, sau một vài động thái mang tính phô trương ban đầu, sẽ chuyển sự sáng tạo của họ sang việc khuyến khích nhập khẩu từ chúng ta. Lấy Trung Quốc làm ví dụ, ngày nay họ đang bán cho nước ta 140 tỷ đô hàng hóa và dịch vụ hàng năm trong khi chỉ mua 25 tỷ đô. Khi IC được áp dụng, Trung Quốc chỉ còn cách là lắp đầy khoảng chênh lệch bằng cách mua 115 tỷ chứng chỉ hàng năm. Nhưng họ có thể thay thế việc phải mua IC bằng cách cắt giảm xuất khẩu vào Mỹ, hoặc bằng việc tăng mua hàng từ chúng ta. Lựa chọn cuối có lẽ là con đường dễ chịu nhất đối với Trung Quốc, và chúng ta nên mong điều đó xảy ra.
Nếu xuất khẩu của chúng ta tăng, nguồn cung IC vì vậy cũng sẽ tăng theo, giá thị trường của chúng sẽ giảm xuống. Thật vậy, nếu xuất khẩu tăng đủ lớn, IC sẽ trở nên vô giá trị và toàn bộ chính sách sẽ tự động mất hiệu lực. Được trao quyền thực hiện điều này, các nước xuất khẩu quan trọng có thể nhanh chóng loại bỏ các cơ chế mà họ đang sử dụng để hạn chế xuất khẩu từ chúng ta.
Nếu triển khai chính sách IC, chúng ta có thể chọn một số năm chuyển tiếp, khi mà chúng ta chủ động đạt mức thâm hụt tương đối nhỏ, một bước đi cho phép thế giới có thể điều chỉnh, trong khi chúng ta dần đạt được những gì ta cần đạt. Khi thực hiện chính sách này, chính phủ nước ta có thể bán đấu giá một số IC “thêm” mỗi tháng, hay đơn giản là tặng chúng, ví dụ như, cho các nước kém phát triển hơn, khi họ cần tăng xuất khẩu của mình. Cách làm thứ hai sẽ tạo ra một dạng hỗ trợ quốc tế, mà có thể sẽ rất hiệu quả và được đánh giá cao.
Tôi sẽ kết thúc bằng cách nhắc bạn một lần nữa là tôi đã từng thua môt ván trước đó. Tổng thể mà nói, tỷ lệ ghi bàn của những người dự báo điều không tốt lành ở Mỹ vô cùng tệ. Đất nước chúng ta liên tục biến những kẻ hoài nghi về tiềm năng kinh tế, hoặc khả năng chống chịu của đất nươc trở thành trò cười. Nhiều kẻ bi quan đã đánh giá thấp sức sống mãnh liệt, điều đã giúp chúng ta vượt qua những trở ngại từng được xem là không thể. Chúng ta vẫn đang sở hữu một đất nước và một nền kinh tế thực sự đáng nể.
Nhưng tôi cũng tin rằng, thâm hụt thương mại là câu hỏi mà sẽ kiểm tra khả năng tìm ra giải pháp của chúng ta. Một đồng đô la dần mất giá sẽ không phải là câu trả lời. Đúng, nó sẽ giảm thâm hụt thương mại đến một mức độ nào đó, nhưng sẽ không đủ để dừng sự việc thất thoát tài sản ròng quốc gia, và sự thâm hụt đang tăng dần trong thu nhập từ đầu tư.
Có thể tồn tại những giải pháp khác tốt hơn của tôi. Tuy nhiên, suy nghĩ viễn vông - và bạn đồng hành thường thấy của nó, ngồi im thụ động - không phải là con đường chúng ta nên chọn. Theo những gì tôi đang quan sát, hành động để ngăn chặn sự thất thoát nhanh chóng của cải của đất nước là cần thiết, và Chứng chỉ Nhập khẩu IC dường như là con đường ít đau đớn nhất và chắc chắn nhất để đạt được mục tiêu. Hãy luôn nhớ rằng đây không phải là một vấn đề nhỏ: ví dụ, với tốc độ mà phần còn lại của thế giới đang thực hiện đầu tư ròng vào Mỹ như hiện tai, họ có thể mua và tích góp cho bản thân gần 4% số cổ phiếu đang niêm yết ra công chúng của Mỹ.
Liên quan vấn đề định giá quyền chọn mua tại Berkshire, cộng sự của tôi, Charles Munger, đề nghị rằng chúng tôi nên đặt nhiều sự quan tâm vào mong muốn nho nhỏ của ông: “Tất cả những gì tôi muốn biết là đi đến đâu tôi sẽ chết, để tôi không bao giờ đi đến đó.” Những người xây dựng chính sách thương mại của chúng ta nên lưu ý đến lời cảnh báo này, và tránh xa hòn đảo Phung Phí ra.

Tên bài báo gốc: America’s Growing Trade Deficit Is Selling the Nation Out From Under Us. Here’s a Way to Fix the Problem—And We Need to Do It Now. Đăng trên tạp chí FORTUNE ngày 10, tháng 11, năm 2003