So sánh Psyche trong Phân tâm học và trạng thái Tâm trong thiền Phật giáo
Bài viết thuộc lĩnh vực nghiên cứu liên ngành Tôn giáo học và Phân tâm học, nên có thể có một sô điểm khó hiểu và "tối nghĩa" với các bạn đọc. Rất mong mọi người chỉ ra những điểm cần diễn đạt dễ hiểu hay những điểm cần bình luận.
Psyche được định nghĩa là tâm thần hay tâm hồn, theo Carl Gustav Jung thì Psyche là một thuật ngữ rộng hơn chữ tâm thần khi cho nó là "thực thể tâm thần". Còn trạng thái Tâm trong thiền Phật giáo là thuật ngữ ám chỉ tình trạng và hoạt động của các chủng tử trong tâm.
Lý thuyết về Psyche trong Phân tâm học và trạng thái Tâm trong thiền Phật giáo có các mối liên hệ khi các thành phần trong đó có sự bổ trợ cho nhau. Đồng thời cũng có những khác biệt nói lên tính đặc trưng của hai lĩnh vực. Đối với bài viết này, tác giả xin trích từ bài nghiên cứu khoa học sinh viên của chính tác giả được hoàn thiện trước đây. Cụ thể là mối liên hệ giữa vô thức và tàng thức, trong đó là quan hệ giữa Libido và Tham ái; Vô thức cá nhân, vô thức tập thể, chủng tử trong ý căn; mạt na thức và tiền ý thức.
1.Libido và tham ái
Theo Sigmund Freud, Psyche bao gồm: vô thức, tiền ý thức, ý thức. Trong đó vô thức là thành phần quan trọng nhất và học thuyết Phân tâm học cũng được xây dựng dựa trên khái niệm vô thức. Vô thức có vai trò chi phối toàn bộ các cảm xúc, tình cảm, tư tưởng... của con người. Vô thức có phạm vi rộng lớn, là nơi chứa đựng toàn bộ các thông tin được tâm thần thu nạp vào. Trong vô thức, yếu tố đóng vai trò quan trọng là dục năng (libido). Libido là xung năng tính dục, tức sự khát dục. Freud cho rằng, vô thức là nơi chứa đựng toàn bộ các xung năng, trong đó xung năng tính dục quan trọng nhất vì nó cung cấp năng lượng cho mọi hoạt động tâm thần. Quan điểm này của ông nhận nhiều chỉ trích và ý kiến trái chiều, đặc biệt từ phía giáo hội Công giáo vì quan điểm này bị họ coi là báng bổ, phỉ báng. Theo ông, libido chịu tác động của nguyên tắc khoái cảm (pleasre principle): “Khát vọng tình dục là nhu cầu thỏa mãn một ham muốn mang nội dung tình dục”[1]. Đồng thời, libido được ông đặt ngang hàng như các nhu cầu mang tính bản năng khác của con người như: ăn uống, ngủ nghỉ, bài tiết...Và Freud cũng cho rằng libido không chỉ diễn ra trong 5 giai đoạn phát triển nhân cách của trẻ mà chi phối suốt cuộc đời của con người. Nhờ những yếu tố của bản ngã, siêu ngã mà nguyên tắc khoái cảm được ngăn chặn, vì vậy con người chỉ thực hiện thỏa mãn khi hội tụ đủ các yếu tố.Tàng thức cũng có vai trò tương tự Vô thức khi được định nghĩa là một cái kho chứa toàn bộ các chủng tử (hạt giống) được thu nạp vào Tâm. Các dữ liệu trong Tàng thức được một bộ phận xử lý là Mạt na, làm công việc sắp xếp các chủng tử cùng loại vào một nhóm. Trong đó, bản ngã là trung tâm của Mạt na và có Tham Ái làm động lực thúc đẩy. Libido (dục năng) hay tham ái cùng có chức năng giống nhau khi làm động lực để các chủng tử trong Vô thức hay Tàng thức thực hiện công việc gieo nhân, gặt quả. Libido hay tham ái đều có nghĩa là sự khao khát để được thỏa mãn đặt trên đối tượng mà nó phát sinh yêu thích (ái). Chúng không mang bản chất thiện hay ác mà chỉ đơn giản là các hiện tượng đi theo một tiến trình nhất định. Ví dụ khi nảy sinh sự ưa thích với đọc sách, đến thời điểm sự ưa thích đó “đạt ngưỡng” thì người đó sẽ có hành động là đi tìm sách để đọc và đọc sách. Khi tạo thói quen đọc sách đó (nuôi dưỡng trong mạt na thức) thì người đó sẽ coi đọc sách và việc tất yếu và làm công việc nghiên cứu sách trong suốt cuộc đời của họ. Libido và Tham Ái có điểm tương đồng về chức năng, tuy nhiên vẫn có nhiều điểm khác biệt. Theo Phân tâm học với hướng nghiên cứu của Sigmund Freud thì Libido chủ yếu nói đến tham muốn tình dục, còn theo hướng của Carl Gustav Jung thì phạm vi của Libido rộng hơn, nó bao gồm các năng lượng thúc đẩy các hoạt động tâm thần, các hành vi của con người ứng xử với cộng đồng, xã hội. Tuy nhiên Libido vẫn chưa được mô tả thật sự rõ ràng gồm những nội dung loại nào, hay có kết cấu ra sao.
Trong khi đó, Tham Ái có nội hàm rộng lớn hơn và được mô tả sâu sắc hơn. Tham Ái là động lực để các chủng tử trong Mạt na thức được sắp xếp cùng loại và được nuôi dưỡng bởi những nhân duyên tương ứng, để từ đó các trạng thái tâm hiện hành trên ý thức. Đồng thời Tham Ái còn là năng lượng để bản ngã được thúc đẩy, tức nhờ Tham Ái mà bản ngã tồn tại. Điều này nói lên vai trò quan trọng của Tham Ái như một nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự hình thành các trạng thái Tâm có phạm trù trong bản ngã.
2.Vô thức cá nhân, vô thức tập thể và chủng tử trong Ý căn (mạt na)
Chủng tử trong Mạt na thức bao gồm toàn bộ các hình ảnh, âm thanh, mùi, vị, xúc chạm... là những gì con người tri giác được nhờ năm giác
quan được lưu trữ trong Tàng thức. Vì vậy khi kết hợp với học thuyết của Phân tâm học, ta thấy rằng vô thức cá nhân và vô thức tập thể đều thuộc Chủng tử trong Mạt na thức. Vô thức cá nhân là những thông tin bị “lãng quên” hay những kí ức dồn nén được lưu trữ lại trong vô thức. Carl Gustav Jung mô tả đặc điểm quan trọng nhất của vô thức cá nhân là các phức cảm gồm suy nghĩ, cảm xúc, sự phản ứng, kí ức tập trung vào một thuật ngữ đơn lẻ. Phức cảm có ảnh hưởng lớn đến cá nhân dựa theo những thành tố trong nó. Tuy nhiên, khác với Freud tập trung vào các dồn nén của kí ức tuổi thơ, thì Jung tập trung hơn ở hiện tại và hướng về sự ảnh hưởng của nó trong tương lai cá nhân. Vô thức của mỗi cá nhân đều có sự ảnh hưởng đến nhân cách của họ, vì vậy để nhận biết tình trạng tâm thần của mỗi người, Jung đã tiến hành nghiên cứu các biểu tượng của giấc mơ. Theo ông, giấc mơ là chìa khóa để “thăm dò tiềm thức”. Vì khi mơ, hai thành tố của Psyche là vô thức và ý thức được có mặt và thành tố xuất hiện nhiều hơn là vô thức. Giấc mơ phản ánh những cảm xúc, suy nghĩ, kí ức dồn nén và chi phối sự thay đổi về tính cách, suy nghĩ của một người trong hiện tại. Như khi ta bỗng nhiên mơ thấy một giấc mơ thì giấc mơ đó là “một tín hiệu” của vô thức truyền đến ý thức về những sự thay đổi của cơ thể hay những tác động khi tỉnh táo ta “vô thức” tiếp nhận. Ví dụ trường hợp một bệnh nhân mà Carl Jung điều trị và nghiên cứu, đó là một người đàn ông mơ giấc mơ về một người “đàn bà” say xỉn. “Trong giấc mơ, hình như người đàn bà ấy là vợ ông ta, nhưng sự thực vợ ông ta khác hẳn. Mới đầu, giấc mơ ấy giả dối và chướng mắt, người nằm mơ xua đuổi ngay đi như thấy một cái gì phi lý hiện ra trong trí lúc đang ngủ” . Theo Jung trong trường hợp này, người đàn bà đó là mặt tính nữ của người đàn ông (Anima). Ở một khía cạnh nào đó, người bệnh này có sự cư xử như “người đàn bà say xỉn”, tiềm thức làm nhiệm vụ quân bình tâm thức, ra “tín hiệu” để người đó cư xử đúng mực vì trong vô thức, người này coi “mình là một người đứng đắn”. Vô thức tập thể hay còn được gọi là siêu cá nhân là những hình ảnh, biểu tượng, suy nghĩ, thói quen...của cả cộng đồng người hay cả nhân loại được ẩn tàng trong vô thức, dẫn dắt mỗi cá nhân trong cộng đồng có những “thói quen” giống nhau do được kế thừa từ tổ tiên. Theo Jung, vô thức tập thể chính là “một dạng thế giới mà chủ thể sinh ra từ đó và cũng vốn tồn tại sẵn trong chủ thể một cách bẩm sinh, như kiểu một ảo ảnh”[2] .
Vì vô thức cá nhân và vô thức tập thể đều là các chủng tử trong Tàng thức, cho nên chúng đều được sắp xếp cùng loại nhờ Mạt na thức hay Tiền ý thức. Từ hai loại vô thức này mà các suy nghĩ, hành vi của con người được hoàn thiện và được ý thức nhận biết. Tuy nhiên, vô thức cá nhân và vô thức tập thể có điểm khác với “Chủng tử” trong Tàng thức ở phạm vi hẹp của chúng. Vô thức cá nhân và vô thức tập thể chỉ là hai loại chủng tử trong Vô thức. Còn “Chủng tử” là thuật ngữ bao hàm toàn bộ hạt giống trong Tàng thức, trong đó có thể kể đến các nhóm chủng tử như: thiện, bất thiện hay dục giới, sắc giới, vô sắc giới.
3.Tiền ý thức và Mạt na thức
Ý căn (mạt na thức) là bộ phận thuộc Tàng thức, nó có nhiệm vụ nhận biết, sắp xếp các hạt giống cùng loại trong tâm với nhau, đồng thời là các “nguyên liệu” để xây dựng các suy nghĩ, hành vi trên bề mặt ý thức. Tiền ý thức cũng có vai trò tương tự Mạt na thức, nó là các bộ phận nằm dưới ý thức và phía bên trên của vô thức, đồng thời cũng cung cấp các nguyên liệu để cấu thành các hoạt động của ý thức. Mạt na thức và Tiền ý thức ngoài vai trò làm nguyên liệu
cho hoạt động của ý thức còn cùng có chức năng phản ánh. Chúng phản ánh các tác động khách quan vào thế giới của Tâm, xem xét thế giới của Tâm và thế giới khách quan bên ngoài. Từ đó chỉ ra được các nguyên nhân dẫn đến các trạng thái tâm hay tâm thần khác nhau. Mạt na thức hay Tiền ý thức đều là bộ phận thuộc Tàng thức và Vô thức. Trong đó, Tàng thức được coi là kho chứa tất cả những gì được
nó tiếp thu qua các giác quan và làm nhiệm vụ lưu trữ lại, vì vậy ta thấy Vô thức và Tàng thức đều có công việc giống nhau đó là lưu giữ các hạt giống (chủng tử) hay các thông tin một cách tự động. Để từ đó Mạt na thức hay Tiền ý thức làm công việc sắp xếp thông tin thành các nhóm cùng loại và từ đó làm nguyên liệu để ý thức hoạt động với các suy nghĩ, hành vi, lời nói... Đồng thời, Mạt na thức và Tiền ý thức đều có chức năng có thể chuyển hóa cho ý thức. Ví dụ khi ta suy nghĩ và chợt đặt ra câu hỏi: tối qua mình làm gì? thì chỉ lát sau ta nhớ ra các hoạt động tối qua mình thực hiện. Vậy là ký ức “hoạt động tối qua” vốn dĩ đang ở Mạt na thức hay Tiền ý thức liền được biến đổi xuất hiện trên Ý thức. Hay ta có thể nói Tàng thức hay Vô thức đã có các hạt giống hay thông tin được “chín muồi” để hiện hành trên Ý thức. Mạt na thức và Tiền ý thức có chức năng phản ánh “thế giới khách quan và có các vai trò trong hoạt động của Tâm” giống nhau, tuy nhiên chúng cũng có những sự khác biệt trong chức năng này.
Trong Phân tâm học và Tâm lý học nói chung, “thế giới dù có thể được xem là điều kiện và môi trường để hình thành và phát triển tinh thần, nhưng nhất định độc lập khách quan với tinh thần (tâm lý), theo đó, tinh thần phản ánh hiện thực khách quan qua lăng kính chủ thể hay con người nhập tâm hóa thế giới thành cái tâm lý”[3] .
Còn trong thiền Phật giáo nói chung, thế giới khách qua tuy cũng được mạt na thức phản ánh và cũng là thế giới độc lập với Tâm, nhưng đồng thời xét ở khía cạnh khác thì thế giới khách quan được thống nhất với tàng thức. Điều này nói lên cái nhìn chủ quan bên trong, đó là khi Tâm quan niệm thế giới khách quan là gì thì thế giới khách quan với Tâm đó là thế. Như một người đang có trạng thái tâm buồn chán thì thế
giới khách quan đối với người đó chỉ có màu u tối và buồn chán, trời nắng ráo cũng làm người đó thấy khó chịu. Và ngược lại, khi một người đang các trạng thái tâm vui vẻ thì thế giới khách quan cũng trở nên tươi sáng... Cùng với đó, cách cảm nhận về thế giới của Tâm thế nào sẽ ảnh hưởng các hành vi, ngôn từ của một người khi tác động đến các quan hệ xã hội hay các vật chất. Từ ấy, quá trình tái tạo môi trường khách quan diễn ra nhờ các động lực trong Tàng thức thúc đẩy. Khi trong Tàng thức của một người chỉ có tranh giành, cướp bóc thì
người đó sẽ thực hiện những hành vi chiến tranh, cướp bóc như ta có thể thấy một số nhân vật trong lịch sử đã tạo ra các cuộc chiến tranh, chết chóc, từ đó thể hiện sự đồng nhất thế giới trong tâm họ và thế giới khách quan.
Chú thích:
[1] Sigmund Freud (1917), Nhập môn Phân tâm học, nxb Văn Học, Hà Nội.
[2] Carl Gustav Jung toàn tập (1953),
tr.188.
[3] Daisetz Teitaro Suzuki (1998), Studies in the Lankavarara Sutra, nxb Munishiram Manoharlal, tr.190.

Tâm lý học
/tam-ly-hoc
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất

