Một chiều cuối đông, ả lơ đãng nhìn qua khung cửa sổ, những ánh đèn xe tấp nập, dòng người đang hối hả, vài giọt mưa bay bay. Bây giờ đã hơn sáu giờ chiều, ả đang chờ người ở chung phòng với ả đi làm về, ngày nào cũng vậy, tầm giờ này cô gái ấy sẽ về, sẽ tất bật quần quần, áo áo, tắm tắm, rửa rửa. Sau khi gột rửa đi những mệt nhọc, cô lại loay hoay chuẩn bị bữa tối cho cả cô và ả.
Từ khi nhận thức được những thứ xung quanh, có một vài thứ in hằn vào trong trí nhớ của ả rằng ả không có người thân quen nào cả, không cha, không mẹ, không anh, chị, em, chỉ có mỗi ả trong một không gian chật hẹp, nơi mà ả hay nghe người ta bảo là “cái chuồng”. Rồi ả được cô gái ở chung nhà đưa từ chuồng sang phòng cô, đoạn đường di chuyển đủ dài để ả được hít khí trời khác lạ, dù có vẻ hơi oai bức và hơi hôi mùi khói một tí, nhưng đủ làm ả thấy thú vị. Rồi cô hay gọi ả là “Bò”, ả chả biết bò là cái gì, chỉ biết mỗi khi cô muốn gọi ả, muốn thì thầm với ả, muốn cưng nựng ả, ả sẽ là con Bò của cô, hẳn nhiên, ả chỉ biết có đến thế, Bò không biết gì hơn kể cả việc ả là một con mèo thuộc giống hiếm mà cô gái ở cùng phải trả giá tận năm triệu đồng Đông lào để đưa ả về.
Về ở chung với cô gái, cuộc sống của Bò có những thay đổi đáng kể, không còn là những song sắt vây chặt lấy ả, không còn mùi hôi ám lấy bộ lông óng mượt của ả, không còn những chuỗi ngày dài chỉ ăn mãi một món thơm phức mùi thịt nhưng toàn bột. Căn phòng rộng mười hai mét vuông đủ để Bò chạy nhảy loanh quanh và cũng chính vì lý do này mà cô gái không thể để ả bốc mùi được bởi trong vỏn vẹn cái không gian ấy bao gồm cả giường ngủ, tủ đồ, giày dép và các vật dụng cá nhân của cô. Bò được cho ăn cùng những món mà cô gái ăn, được ngủ cùng cô, được cô cưng nựng, xem chừng ả vui lắm. Chỉ có điều, niềm vui ấy chỉ vỏn vẹn trong vài tiếng đồng hồ mỗi ngày, tức là từ lúc cô gái đi làm về đến khi cô chìm vào giấc say nồng, ba tiếng đồng hồ, đó là chưa kể có những ngày cô gái bận đến mức quên cả về nhà.
Ngày cứ thế trôi, cũng đến lúc Bò khám phá hết thảy nơi ở mới, mọi ngóc ngách đều quen thuộc, mọi đồ đạc đều thân quen đến mức nhắm mắt ả cũng có thể biết nó nằm đâu. Đó cũng là thời điểm ả nhận ra, một khi thiếu vắng cô gái, ả không thể tự mình tạo ra niềm vui cho chính mình và mười hai mét vuông với tường cao cửa rộng cũng không khác cái chuồng bao nhiêu. Ả cũng dễ dàng nhận ra rằng ngoài ả, cô gái còn có những niềm vui khác, cô sẵn sàng ôm lấy niềm vui to lớn của mình mà không đoái hoài gì đến ả, dù cả ba đều hiển hiện trong cái không gian mười hai mét vuông, cô cũng sẵn sàng cho ả ăn ít hơn vì niềm vui to lớn ấy đã ăn bớt phần của ả. Ả muốn so bì, muốn càu nhàu, muốn trách móc cô, nhưng thứ ả làm được là kêu lên mấy tiếng “mêu mêu mêu”, có lẽ đôi khi cô gái cũng cảm nhận được thứ mà Bò mè nheo nên ôm ả lên và vuốt ve lấy lệ, tuy vậy, niềm vui cá nhân của cô vẫn quan trọng hơn ả nhiều.
Chiều đông hôm ấy, lúc nhìn ra cửa sổ, ả thấy những chú mèo ướt sũng đang run lẩy bẩy chạy tìm chỗ núp cùng nhau, bỗng nhiên ả nhớ lại cái khí trời ngày ả được đưa về nhà cô gái, bỗng nhiên Bò muốn tự do tự tại, muốn được sống tụ tập cùng đồng loại, muốn đi đâu thì đi, muốn làm gì thì làm. Nhưng ả cũng cảm thấy thật tội nghiệp cho những con mèo hoang ấy, lạnh lẽo và đói khát, thứ mà ả sẽ không bao giờ muốn mình được nếm trải. Cũng chiều đông hôm ấy, ngồi bên cửa sổ, Bò đang chờ, chờ những thứ mà ả không biết rằng có ngày ả sẽ mất đi nó.