/Film: 'Man With A Movie Camera' (1929) by Dziga Vertov/
/Film: 'Man With A Movie Camera' (1929) by Dziga Vertov/
Tôi mua một tờ báo ở bến cảng và bị thu hút bởi một bài viết về một người phụ nữ lớn tuổi bị những con mèo của mình ăn thịt. Bà ấy 70 tuổi, sống một mình ở vùng ngoại ô Athens - một cuộc đời thầm lặng, chỉ có bà cùng ba con mèo sống với nhau trong một căn hộ nhỏ bé. Một ngày nọ, bất thình lình bà khuỵu ngã, úp mặt vào sofa - một cơn đau tim. Không một ai biết mất bao lâu bà chết sau khi bất tỉnh. Người đàn bà lớn tuổi không có họ hàng hay bạn bè hay ghé thăm, vì vậy đến một tuần sau người ta mới phát hiện ra xác của bà. Cửa sổ và cửa chính đều bị khóa, lũ mèo hoàn toàn bị nhốt ở bên trong. Không có thức ăn ở trong căn hộ. Có lẽ vẫn có thức ăn trong tủ lạnh, nhưng lũ mèo không thể nhận thức được việc mình nên mở tủ lạnh để tìm thức ăn. Trên bờ vực của sự sống, bọn chúng lựa chọn ăn thịt người chủ của mình.
Tôi đọc bài báo này cho Izumi, người đang ngồi đối diện mình. Vào những ngày nắng ấm, tôi và nàng thường đi dạo bộ đến bến cảng, mua những tờ báo song ngữ tiếng Anh - tiếng Athens, gọi cà phê ở một tiệm cà phê bên cạnh sở thuế rồi tôi sẽ tóm tắt cho nàng nghe những thứ thú vị bằng tiếng Nhật. Đây là những việc làm thường nhật của chúng tôi trên hòn đảo này. Nếu có một bài báo nào thu hút sự chú ý của chúng tôi, cả hai sẽ cùng thảo luận về nó một chút. Trình độ tiếng Anh của Izumi rất tốt, nàng có thể tự đọc mọi tờ báo. Nhưng tôi chưa bao giờ nhìn thấy nàng cầm trên tay một tờ báo nào bao giờ.
“Em thích có ai đó đọc cho em nghe.” nàng giải thích. “Em đã luôn muốn điều đó từ khi còn nhỏ - ngồi dưới nắng ấm, được ngắm nhìn bầu trời hoặc bãi biển, và có một ai đó ở bên cạnh đọc thứ gì đó thật to cho mình nghe. Em không quan tâm người đó sẽ đọc gì - báo, sổ ghi chú, tiểu thuyết. Không quan trọng. Nhưng từ trước đến giờ vẫn chưa có một ai đọc cho em nghe cả. Vì vậy em nghĩ rằng anh nên là người bù đắp sự thiếu sót này cho em. Hơn cả, em rất thích giọng của anh.”
Chúng tôi có bầu trời và bãi biển ngoài kia, tốt rồi. Và tôi cũng khá thích việc đọc to. Khi tôi còn ở Nhật, tôi thường đọc sách tranh cho con trai mình nghe. Đọc to có chút khác biệt so với việc chỉ dùng mắt chạy theo những dòng chữ. Có thứ gì đó không hề dự đoán trước được nảy lên trong đầu, đó là một lí do khá hợp lí, tôi nghĩ.
Nhấp một ngụm cà phê rồi tôi đọc bài báo thật chậm rãi. Tôi sẽ đọc trong đầu mình trước vài dòng, lẩm bẩm một chút để dịch nó sang tiếng Nhật và đọc to. Một vài con ong từ xa bay đến, đậu trên bàn để mút lấy số mứt rơi vãi từ những người khách trước. Chúng mút no say, và bỗng nhiên nhớ ra điều gì, chúng bất ngờ cất cánh bay lên cao khiến cả không gian đầy ắp tiếng vo ve của những cái cánh đập liên hồi. Lại một lần nữa như nhớ ra điều gì, những con ong lại dừng bay và hạ cánh xuống mặt bàn. Sau khi tôi đọc xong bài báo, Izumi vẫn ngồi đó, bất động, khuỷu tay chống lên bàn. Đầu ngón tay phải của nàng chạm vào đầu ngón tay trái, tạo thành một túp lều nhỏ. Tôi đặt tờ báo lên đùi mình và ngắm nhìn những đầu ngón tay thon mảnh ấy. Nàng ngắm nhìn tôi qua những ô trống giữa các đầu ngón tay.
“Chuyện gì xảy ra tiếp theo nữa?”, nàng hỏi.
“Chỉ có thế thôi.”, tôi đáp, gấp tờ báo lại. Tôi rút khăn tay từ trong túi áo ra và lau cà phê còn sót trên miệng. “Ít nhất thì đó là những gì được ghi trong bài báo.”
“Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra với lũ mèo?”
Tôi cất khăn tay lại vào túi áo. “Anh không biết, không có ai ghi thêm gì.”
Izumi mím một bên môi, đó là thói quen nhỏ đặc trưng của nàng. Mỗi khi nàng muốn đưa ra một ý kiến nào đó - một ý kiến thường giống một lời tuyên ngôn - nàng sẽ mím môi lại như vậy như thể nàng giật mạnh tấm chăn để duỗi thẳng những nếp nhăn của nó. Lần đầu tiên tôi gặp nàng, tôi thấy thói quen này của nàng khá hấp dẫn.
“Báo nào cũng giống với báo nào, dù ở đâu cũng vậy.” cuối cùng nàng lên tiếng. “Nó không bao giờ cho anh biết được điều mà anh muốn.”
Nàng rút một điếu Salem ra khỏi hộp, ngậm trong miệng và đốt một que diêm. Mỗi ngày, nàng hút một gói Salem - không nhiều hơn, không ít hơn. Nàng sẽ khui một gói mới toanh vào mỗi sáng rồi hút hết cho đến cuối ngày. Tôi không hút thuốc. Vợ tôi bắt tôi bỏ thuốc từ năm năm trước, khi cô ấy đang mang thai.
“Điều em thực sự muốn biết,” Izumi bắt đầu nói, khói thuốc của nàng từ từ bay lên, “là chuyện gì sẽ xảy ra với lũ mèo ngay sau đó. Liệu các nhà chức trách có giết chúng không, vì chúng đã ăn thịt người phụ nữ ấy? Hoặc là họ sẽ nói rằng ‘Ồ, các bạn đã trải qua một khoảng thời gian khó khăn rồi.”, vỗ đầu bọn chúng và thả chúng đi? Anh nghĩ như thế nào?”
Tôi nhìn vào những con ong đang vo ve trên bàn và bắt đầu nghĩ về điều đó. Trong một khoảnh khắc, những con ong đang hút mật trên bàn cùng ba con mèo trong bài báo đã hòa làm một trong tâm trí tôi. Thình lình, một tiếng kêu của một con hải âu vang lên đâm toạc tiếng vo ve của lũ ong, khiến cho tôi nhận ra mình vừa như đi lạc giữa thực tại và hư ảo. Tôi đang ở đâu? Vì sao tôi lại ở đây? Tôi không thể nắm được tình huống hiện tại. Tôi hít một hơi thật sâu, ngẩng đầu nhìn lên bầu trời cao rồi quay lại nhìn Izumi.
“Anh không biết.”
“Anh nghĩ lại đi. Nếu anh là thị trưởng của thị trấn đó, hoặc là đội trưởng đội cảnh sát, thì anh sẽ làm gì với lũ mèo?”
“Hay là đưa bọn chúng vào một viện nghiên cứu để cải tạo lại?” tôi đáp. “Cải tạo chúng thành dân ăn chay.”
Izumi không cười. Nàng rít một hơi thuốc rồi nhả khói. “Câu chuyện này làm em nhớ đến một bài học em từng học khi vừa vào trường trung học Công giáo. Em có kể cho anh nghe rằng em từng theo học ở một trường Công giáo chưa? Ngay sau lễ khai giảng, một trong những vị sơ đứng đầu đã tống tất cả học sinh vào một hội trường và thuyết giảng về đạo. Cô ấy nói nhiều thứ lắm, nhưng em nhớ nhất, thật ra là thứ duy nhất em nhớ được, là một vụ việc đắm tàu, người đó bị lạc đến một đảo hoang cùng với một con mèo.”
“Nghe có vẻ thú vị.” tôi nói.“ ‘Các con đang ở trên một con tàu đắm’, cô ấy nói với tụi em, ‘người duy nhất leo lên được con thuyền cứu sinh là các con và một con mèo. Các con bị trôi dạt đến một hòn đảo vô danh, không có gì để ăn. Những gì các con có là một lượng nước uống và vài phần bánh quy vừa đủ cho một người cầm cự trong vòng 10 ngày.’ cô ấy nói. ‘Được rồi, cô muốn các em hãy tưởng tượng bản thân mình đang ở trong hoàn cảnh ấy. Nhắm mắt lại và tưởng tượng. Các con đang ở trên một hòn đảo hoang, chỉ có các con cùng một con mèo. Gần như không có gì để ăn. Các con có hiểu không? Các con đói, khát, và không bao lâu nữa sẽ chết. Các con sẽ làm gì? Liệu các con có chia sẻ phần lương thực ít ỏi của mình cho con mèo kia không? Không, các con không nên làm như vậy. Đó sẽ là một sai lầm. Các con là những cá thể đặc biệt được Chúa lựa chọn, còn con mèo thì không. Đó là lí do các con nên ăn hết lương thực một mình.’ Rồi sơ nhìn tụi em bằng đôi mắt nghiêm trọng như thế này này. Khi ấy em khá là sốc. Lí do gì lại kể một câu chuyện như vậy cho một lũ trẻ vừa bước vào trường chứ? Em nghĩ rằng whoa mình sắp sửa bắt đầu cuộc sống ở đâu thế này?”
Izumi và tôi ở trong một căn hộ hai người ở một hòn đảo nhỏ bé tại Hy Lạp. Hiện tại đang là mùa giảm giá, hòn đảo không có quá nhiều du khách vì vậy giá thuê khá rẻ. Chúng tôi chưa bao giờ nghe đến hòn đảo này trước khi đến đây. Nó nằm gần biên giới của Thổ Nhĩ Kỳ, vì vậy vào những ngày bầu trời trong xanh có thể bắt gặp những ngọn núi xanh rì xa xa của Thổ Nhĩ Kỳ. Vào những ngày nổi gió, người dân địa phương thường đùa rằng có thể ngửi thấy mùi thịt nướng ở khắp nơi. Ngoài những lời nói đùa, người ta nói rằng hòn đảo này gần với một bãi biển của Thổ Nhĩ Kỳ hơn đảo của Hy Lạp, và đó - xuất hiện lờ mờ trong tầm mắt bạn là khu vực Tiểu Á.
Ở quảng trường thành phố có một bức tượng vinh danh một người anh hùng đã giành độc lập cho Hy Lạp. Ngài đã lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa chống lại người Thổ Nhĩ Kỳ, những người lúc bấy giờ đã xâm chiếm vùng đảo này của Hy Lạp. Thế nhưng người Thổ Nhĩ Kỳ đã bắt và giam giữ ngài đến chết. Họ dựng một cái cọc ở quảng trường thành phố, bên cạnh bến cảng, để cho người anh hùng ở trần và đặt ngài ở đó. Sức nặng của ngài tựa trên cây cọc, cây cọc đâm qua hậu môn của ngài và phần thân còn lại cho đến khi dựng thẳng giữa miệng - một cái chết chậm rãi và dữ dội. Bức tượng được xây ngay tại địa điểm đã xảy ra trong lịch sử.
Khi nó vừa được xây dựng, nó hẳn là một bức tượng rất ấn tượng. Nhưng qua thời gian, với gió biển, cát bụi và chất thải của những con hải âu, bạn sẽ khó nhìn ra được đây là một bức tượng có hình dáng của một người đàn ông. Người dân địa phương thường nhìn bức tượng đầy vẻ khinh miệt, còn về phần bức tượng, người anh hùng như thể đã quay lưng lại với tất cả mọi người, cả hòn đảo và thế giới này.
Khi Izumi và tôi ngồi ở quán cà phê ngoài trời, gọi cà phê hoặc bia, chúng tôi thường vô thức nhìn những con thuyền đậu ở cảng, lũ hải âu, những ngọn núi Thổ Nhĩ Kỳ phía xa, chúng tôi đang ngồi ở bên rìa của châu Âu. Gió ở đây là gió ở bên rìa thế giới. Có một màu sắc thuộc thời gian cũ kĩ phủ kín nơi này. Nó khiến tôi cảm giác như mình bị nuốt chửng bởi một sinh vật lạ kì nào đó ở ngoài không gian, một thứ gì đó không thể nắm được và nằm ngoài nơi đây, mơ hồ, nhưng cũng vô cùng dịu dàng. Màu sắc đó phủ lên gương mặt, đôi mắt, làn da của những con người đang ngồi ở bến cảng.
Đôi khi tôi không thể tin được mình là một phần của cảnh tượng ấy. Dù tôi có ngắm nhìn khung cảnh này bao nhiêu lần, dù tôi có hít thở bầu không khí này bao nhiêu lần, tôi vẫn không tìm thấy được sợi dây kết nối giữa tôi và nơi này.
Hai tháng trước, tôi vẫn còn sống cùng vợ và cậu con trai bốn tuổi của chúng tôi ở một căn hộ ba phòng ngủ tại Unoki, Tokyo. Không phải một nơi quá mắc tiền, nhưng đầy đủ và ấm cúng. Tôi và vợ có phòng ngủ riêng, con trai tôi cũng vậy, và tôi có thêm một phòng làm việc tại nhà. Căn hộ khá vắng lặng, nhưng khung cảnh đẹp. Vào cuối tuần, một nhà ba người chúng tôi thường đi dạo đến hồ Tama. Mùa xuân, hàng anh đào dọc bờ hồ nở rộ, tôi sẽ đèo con trai mình sau chiếc xe đạp đến xem đội Giant’s Triple A đánh bóng vào kì huấn luyện mùa xuân.
Tôi làm việc ở một công ty thiết kế tầm trung cho các bìa tạp chí, bìa sách. Gọi tôi là một nhà thiết kế nghe có vẻ thú vị hơn công việc vốn có của tôi, phần lớn công việc chỉ là cắt-và-in. Chẳng có gì hoa mỹ hay sáng tạo. Phần lớn thời gian chúng tôi khá bận rộn, và mỗi tháng tôi phải tăng ca qua đêm ở công ty khá nhiều lần. Vài phần việc khiến tôi chán ngấy. Dẫu vậy tôi không có ý định bỏ việc, công ty vẫn là một môi trường khá thân thiện. Vì tôi là một người làm có thâm niên, tôi có quyền chọn lựa phụ tá cho mình, cũng như muốn nói gì thì nói. Sếp của tôi OK, mối quan hệ của tôi với đồng nghiệp không có vấn đề gì. Đương nhiên, lương bổng ở đây không tồi. Vì vậy nếu không có việc gì xảy ra, tôi vẫn sẽ tiếp tục gắn bó với công ty này trong tương lai dài. Và cuộc sống của tôi, như con sông Moldau - nói đúng hơn là những dòng nước vô danh hội tụ lại thành một con sông tên Moldau, sẽ tiếp tục chảy trôi, dù là chậm rãi hay nhanh chóng, nó cũng sẽ đổ ra biển.
Nhưng tôi đã gặp Izumi. 
[...]
/Cơm trắng chan cà phê dịch/
24.03.22