Giới thiệu
Marie Curie - nhà bác học người Ba Lan , trong suốt cuộc đời của mình, bà đã đạt được rất nhiều thành công cuộc sống, bà được mệnh danh là nhà khoa học nữ vĩ đại nhất của thế kỷ 20, bà cũng là một trong những biểu tượng của phái nữ. Không những vậy , Marie Curie còn là nhà khoa học nữ đầu tiên nhận được 2 giải Nobel. Bà là một trong những người đầu tiên trên thế giới này nghiên cứu về phóng xạ và là một huyền thoại cũng như là một người mang lại trong giới khoa học. Nhờ những công trình của bà mà nhân loại đã biết đến khái niệm về nguyên tử và phóng xạ. Có một điều đặc biệt là sau này những người nhà bà đều là những nhà bác học vĩ đại sau này của thế kỷ 20. Nhưng dù vậy, cuộc sống luôn sống trong hoàn cảnh thiếu thốn, cuộc đời bà cũng trải qua rất bi thương. Vì khoa học, mà sức khỏe của bà và người nhà đều không có một sức khỏe tốt. Và hôm nay các bạn đọc bài viết của KHÔI HAM HỌC phiên bản đặc biệt nói về một nữ bác học vĩ đại của thế kỷ 20 : Marie Curie
Chân dung của Marie Curie
Chân dung của Marie Curie
Con đường học vấn và thời niên thiếu.
Marie Curie có tên thật là Maria Sklodowska, sinh ra vào ngày 7 tháng 11 năm 1867. Bà sinh ra và lớn lên tại Warsaw của Đế Quốc Ba Lan (bị Đế Quốc Nga chiếm đóng vào thời điểm đó ). Bà là con gái út trong số 5 anhchị em của bà . Gia đình bà có truyền thống nhà giáo khi cả ba bà là ông Władysław Skłodowski và bà  Bronisława đều là những giáo viên nổi tiếng. Thời niênthiếu và cả tuổi thơ của bà toàn là những bi thương bố của Maria thì bị đuổi việc,gia đình phải chuyển đến một khu tập thể để sinh sống. Chị cả của Maria,Sophie, qua đời vì bệnh thương hàn. Sau đó, mẹ của Maria cũng qua đời vì bệnh lao phổi vào năm Maria 11 tuổi. Như tuổi thơ của bà,cả con đường học vấn cũng là một vấn đề lớn đối với bà vào thời đó. Maria biết đọc lúc chỉ có 4 tuổi, lúc nào cũng đứng đầu lớp và có rất nhiều thành tích xuất sắc và học giỏi nhiều môn. Dù là một học sinh có thành tích xuất sắc nhưng cô gặp rất nhiều rào cản trong con đường học của mình. Vào thời đó, người Ba Lan bị cấm đọc, viết tiếng Ba Lan và phải tuân thủ theo các luật lệ của Nga. Ngoài ra, là một phụ nữ, học hành là một điều xa vời, nên để thách thức mọi người, Maria đã theo học tại trường Đại Học Floating, một tổ chức giáo dục thanh niên bí mật tại Ba Lan.
Hình ảnh gia đình của Maria
Hình ảnh gia đình của Maria
Maria đã cố gắng rất nhiều trong việc làm thêm ròng rã trong 6 năm thời niên thiếu của mình, trong đó có việc tiết kiệm bằng việc làm gia sư. Sau khi số tiền cần có đã đủ , bà đã tới miền đất Paris, nơi hứa hẹn về khoa học cũng như là miền đất hứa cho nữ giới thời đó được chấp thuận về việc học tập và làm việc. Tại thủ đô Paris lãng mạn , cô Maria theo học tại trường Sorbone danh tiếng của vùng đất này. Ở nơi đây cô học rất nhiều môn và mượn rất nhiều sách từ thư viện để học tập. Vì học quá nhiều nên Marie bị suy nhược thần kinh một năm. Thời đó, phụ nữ luôn bị coi thường, Marie đã lấy đó làm động lực để nỗ lực học. Thành công cuối cùng cũng đến với cô: Marie đỗ đầu trường Sorbonne và trở thành cử nhân. Marie nhận được cả hai bằng bao gồm Vật Lý và Toán Học. Vì hầu như cô chỉ ăn bánh mì và uống trà, nên đôi lúc cô ngất xỉu vì quá đói.
Tình yêu tại thành Paris và con đường nhận giải Nobel đầu tiên của phái nữ
Như mọi người thường nói , thành Paris là một nơi vừa cổ kính vừa lãng mạng, vì thế tại nơi đây, cô gái trẻ Marie cũng đã gặp nửa kia của đời mình.Đó chính là nhà Vật Lý Pierre Curie, một nhà khoa học thiên tài có cùng chí hướng và đam mê giống cô, người đồng nghiệp cũng là người chồng tương lai của cô.Vào thời ấy mọi người có quan niệm rằng nữ giới không thể trở thành nhà khoa học. Nhưng sau một thời gian, Pierre đã nhận ra, ai cũng có thể trở thành nhà khoa học và đã ngỏ lời tỏ tình thật lãng mạn  với Marie. Nhưng cô vẫn còn lưỡng lự khi còn muốn trở về quê hương, người cha của mình. Nhưng khi trở về lại tổ quốc của mình, cô nhận ra rằng, người phụ nữ có học hành sinh sống ở đây là một điều rất khó khăn. Nhưng cô vẫn chưa mất tất cả, tại Paris, người cô yêu, Pierre vẫn chờ cô ở đó.
Marie Currie và người chồng Pierre Curie
Marie Currie và người chồng Pierre Curie
 Sau một thời gian cô chấp thuận lời cầu hôn của Pierre và đổi tên mình thành Marie Curie, và cả hai đã trở thành một đội làm việc vô cùng ăn ý với nhau thông qua tình yêu.  Có một nghiên cứu đã khiến cho Curie chú ý. Vào năm 1896, Henri Becquerel phát hiện ra uranium có tính phóng xạ (phát sáng), và tự phóng ra một loại phóng xạ giống tia X mà có thể tương tác với tấm phim. Sau đó, Curie sớm nhận ra rằng nguyên tố Thorium cũng phát ra bức xạ tương tự. Quan trọng nhất là độ mạnh của phóng xạ chỉ phụ thuộc vài số lượng của nguyên tố đó và không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ thay đổi lý hóa nào. Điều này đã làm bà kết luận rằng phóng xạ phát ra từ thứ gì đó ở trong nguyên tử của từng nguyên tố,đó là một ý tưởng cấp tiến, ý tưởng này đã bác bỏ khái niệm nguyên tử là một vật không thể tách rời. Marie và Pierre cùng nhau nghiên cứu các vật chất phóng xạ, sau nhiều năm nghiên cứu họ đã tinh chế vài tấn uraninit, ngày càng tập trung các phần phóng xạ, và cuối cùng tách ra được chất muối chloride (radium chloride) và hai nguyên tố mới, có tính phóng xạ mạnh hơn cả urani. Đặc biệt là quặng urani uraninit, có tính chất kỳ lạ là phóng xạ hơn chất urani được chiết ra. Đến 1898 họ đã có giải thích hợp lý: uraninit có một chất phóng xạ hơn urani; ngày 26 tháng 12 Marie Curie tuyên bố sự hiện hữu của chất này. Sau đó, bằng cách nghiên cứu về khoáng vật siêu phóng xạ  Pitchblende, nhà Curie đã nhận ra nguyên tố Uranium không thể tự tạo ra tất cả nguyên tố phóng xạ đó, vậy có thể là do các nguyên tố phóng xạ khác ư? Sau khi làm thí nghiệm nhiều lần, ngoài nguyên tố phóng xạ trên còn có một nguyên tố nữa, nguyên tố này đã được bà và người chồng phát hiện ra. Đó chính là nguyên tố Polinium, bà đặt tên cho nguyên tố cả hai người tìm ra và đã đặt theo tên quê hương của bà, đó chính là đất nước Ba Lan, nơi mà bà đã sinh ra và lớn lên. Và Radium trong tiếng La tinh có nghĩa là Tia. Họ cũng đặt ra thuật ngữ “ phóng xạ “. Vào năm 1902,....