Mùa bát ngoạt

Theo tài liệu thư tịch cổ: từ xa xưa thuở ban đầu, người Việt không biết tết, không biết năm (theo lịch Trung Hoa) cứ lấy ngày Sửu tháng 8 làm ngày hội, già trẻ đi chúc tụng nhau, coi đó là ngày đầu năm. Dấu tích của tập tục ăn tết vào tháng 8 là hình bông lau trên đồ hình hội mùa khắc trên mặt trống đồng. Điều đó đã chỉ báo tập tục Tết Thu – mùa bông lau trổ bông và cũng khế hợp với thời điểm kết thúc vụ lúa mùa tháng 8, được gọi là “mùa bát ngoạt” duy trì đến mãi sau này. Như vậy, thời điểm tổ chức lễ Tết chí ít đã một lần đổi từ tháng 8 đến tháng Giêng âm lịch (tức là theo lịch Tàu). Chúng ta không có dữ liệu nói về nguyên nhân của sự thay đổi này, song có thể đoán định và hiểu rằng là do ảnh hưởng của văn hoá Trung Quốc thời Bắc thuộc và ở đó cũng do sự chuyển đổi theo tiến trình thay đổi chung của cuộc sống, đặc biệt là sự thay đổi trong hoạt động canh tác làm ăn theo một nông lịch mới. Và từ đó người ta đặt tên cho lễ này là Tiết Nguyên Đán, “những buổi rạng đông của sự khởi đầu”. Ngày này là lúc khởi đầu của năm, tháng và mùa. Nói chung Tết là sự biểu hiện của sự chuyển mùa hoặc chuyển giao thời điểm từ mùa Đông sang mùa Xuân, hoặc từ mùa nắng khô sang mùa mưa. Điều đó, đã chỉ ra rằng Tết là thời điểm kết thúc và khai mở công việc làm ăn theo chu kỳ tiết thứ hằng năm. Nó đứng đầu chuỗi nhịp điệu các thời kỳ. Vì thế, buổi sáng của ngày đầu tiên tháng Giêng âm lịch đó là buổi sáng linh thiêng nhất. Nó là điềm báo trước cho các sự kiện tốt lành của các tháng âm lịch tiếp theo. Và tất cả các cử chỉ ta làm trong những giờ đầu tiên này đều có hiệu lực của một đạo bùa quý báu. Bản thân hoàng đế cũng phải đánh dấu, bằng những nghi lễ được quy định cẩn thận sự kiện tạo cho ngài một năm mới để thực hiện thiên mệnh của mình. Xưa kia, người ta thổi ống tiêu để đoán tính chất điều kiện khí hậu trong năm; người ta uống rượu để xua đi các hơi lạnh và tử khí; người ta đốt vàng mã để xua đuổi tà ma hoặc nạn binh đao, v.v… Thông tục, tết được coi là lễ tạ ơn Trời Đất, thần linh và Tổ tiên đã phù hộ cho công việc làm ăn, canh tác trong năm qua và cầu mong sự phù hộ cho người yên, vật thịnh, mong muốn có một năm mới an khang thịnh vượng. Đây là văn hoá và cũng là nhu cầu tâm linh của người Việt trong những ngày Tết. Ngoài ra, Tết còn đáp ứng nhu cầu xã hội. Tết đoàn viên hiểu theo nghĩa đây là dịp liên kết các thành viên trong gia đình, gia tộc và mở rộng ra chòm xóm, cộng đồng, thân hữu. Đồng thời, Tết là dịp thư giãn, gác lại sự bon chen danh lợi để nghỉ ngơi, giải trí, để cùng nhau tham dự vào các trò chơi, trò diễn, các bữa tiệc, những bữa ăn tập thể thân tình…

Ông Táo 

Về thực tế, việc chuẩn bị cho ngày Tết bắt đầu ngay hôm sau ngày cúng thần bếp, ngày 23 tháng Chạp. Hôm đó, Táo Quân, thần trông coi đời sống của gia đình mà ngài che chở và giám sát, lên trời để tâu trình tỉ mỉ với Ngọc Hoàng về cách ăn ở của mọi người trong gia đình năm qua. Thần bếp, Táo Quân thường hay bị nhầm lẫn với thổ công hay thổ địa, là thần đất trong nhà, bản thân thần này là lệ thuộc của thành hoàng làng, tức là thần đất của làng, và thần xã tắc là vị thần vua, hiện thân của đất nước. Bên cạnh việc thờ tổ tiên, những vị thần này chiếm vị trí rất quan trọng trong đời sống tâm linh của mỗi gia đình. Các thần bếp này lên trời ngày 23 tháng Chạp. Mọi người trong mỗi gia đình đều tìm cách lấy lòng các vị thần đó bằng cách cúng các vị một bữa cỗ thịnh soạn. Người ta đốt cho các thần những chiếc mũ tuyệt đẹp trang điểm hoa sặc sỡ, nhiều thoi vàng và bạc bằng hàng mã. Người ta thả xuống con sông gần nhất những con cá chép dùng làm ngựa cho các thần đó cưỡi lên trời. Chuyến đi lên trời này được rất nhiều người quan tâm. Bằng những đồ cúng hậu hĩnh và bằng những lời cầu khấn, họ tìm cách làm vừa ý những vị thần mang sớ tấu trình hằng năm về các hành động tốt và xấu của người trần. Ở mọi thời đại, chuyến đi đó cũng gây cảm hứng cho một nền văn học châm biếm phong phú về những sự ác độc của con người trong năm, dưới dạng thơ và phú làm vui thích các độc giả thuộc mọi lứa tuổi. Cuộc khởi hành của các thần bếp phát tín hiệu cho mọi người chuẩn bị đón tết. Phố phường có dáng vẻ rất nhộn nhịp và được trang hoàng rất đẹp mắt. Góc nhỏ nhất cũng bị  những người bán hoa, cây xanh, tranh dân gian, thực phẩm chiếm mất…Bởi thế, tháng Chạp âm lịch là thời kỳ hoạt động khẩn trương. Việc mua bán nhộn nhịp một cách lạ thường ở tất cả các chợ trong nước. Bên trong ngôi nhà của mỗi gia đình, đều được trang trí đẹp đẽ và chuẩn bị một bầu không khí nhuốm màu sắc rực rỡ là biểu tượng của hạnh phúc, là điềm báo trước những sự kiện tốt lành, và dán những lá bùa có thể xua đuổi ma quỷ cùng các tà khí độc hại. Những cành đào là biểu tượng của sức sống và sự trường thọ cũng không thiếu trong từng mỗi gia đình.
Mâm ngũ quả

Đêm giao thời 

Như vậy, tất cả các cuộc chuẩn bị đều phải hoàn thành, mọi nợ nần đều phải được thanh toán trước giờ cuối năm. Các cửa nẻo được đóng sau lúc sẩm tối. Người chủ gia đình sẽ mặc lễ phục đứng trước bàn thờ tổ tiên để thỉnh các vị về ăn Tết cùng các con cháu. Và người ta thức sau bữa tối để chờ năm cũ nhường chỗ cho năm mới. Người lớn quây quần điểm lại mọi sự kiện của quá khứ, và rút ra những bài học cho tương lai. Bọn trẻ con cũng không ngủ. Chúng chờ năm mới đến, bên cạnh những tấm áo của chúng được gấp nếp cẩn thận đặt trên giường, chẳng phải để đón một ông thần nào đó mang đồ chơi cho những đứa bé ngoan như ở phương Tây, mà chỉ để “xem” người lớn đón các thần mới như thế nào, và người cha trong gia đình rút ra các bánh pháo quý báu đang nằm đó trong tầm mắt đầy thèm thuồng của chúng.
Bàn thờ gia tiên
Quá nửa đêm, người ta kê một cái bàn ở giữa sân cúng Thượng đế cùng Táo quân sắp từ trời trở về sau khi dâng tờ tâu trình hằng năm. Người ta đặt trước các mũ thần bằng giấy nhiều màu những đĩa kẹo, những chén trà, rượu, hương, nến, v.v… Ở nhiều nhà, người ta bày lên bàn thờ một con gà trống mà chân gà sẽ nói cho chủ nhân biết, nhờ sự giải thích của các thầy cúng và thầy bói, điều mà gia chủ phải chờ đợi trong năm đang bắt đầu. Gia chủ sẽ quỳ lạy trước bàn thờ này, và cũng lạy cả bốn phương trời, để cầu xin ân huệ của tất cả các thần trên thế gian. Bàn thờ tổ tiên cũng được thắp đèn sáng, và bánh kẹo được dâng cúng giữa khói hương dày đặc. Những nghi lễ hoàn toàn có tính gia đình này được đánh dấu bằng tiếng nổ đinh tai của những tràng pháo dài. Và trong nhiều giờ, từ 11 giờ đêm đến 2, 3 giờ sáng. Cả thành phố và nông thôn dường như phải nghe một tràng tiếng nổ không dứt. Tràng tiếng nổ đó làm vui tất cả mọi người, lớn cũng như bé. Và như ngạn ngữ thường nói, nếu không có thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ, không có bánh chưng, không có cây nêu, thì chẳng có tết thực sự. Đêm giao thừa này còn được đánh dấu bằng những cuộc đi lễ đền chùa. Ai cũng lấy làm vui thích và tự thấy mình có bổn phận phải ra đình, và đến các đền chùa. Chẳng đêm nào thú vị và đẹp như đêm ấy. Đúng là một điều vui thích hiếm có khi được thức đêm đó ngoài trời. Ở tất cả các đền chùa này, nghi ngút đèn hương, mọi người, cả già lẫn trẻ, đến dâng lên chư Phật cùng những thần linh khác những lời cầu nguyện đầu tiên. Cuộc đi lễ đêm ở các đền chùa, nhà thờ đã trở thành truyền thống từ lâu đời. Mọi người đều muốn đi lễ đền chùa, trước khi cử hành lễ đón giao thừa trong gia đình. Sau khi đi thăm các đền chùa trở về, và coi là đã thấm nhuần ân huệ của các thần, người ta vững tâm xông đất nhà mình. Vì ai cũng muốn yên trí rằng người đầu tiên bước vào nhà mình là người đem theo những dấu hiệu tốt lành. Nếu chẳng có ai tốt hơn, thì không ai chắc chắn bằng chính mình là người có phước, từ chốn của thần thánh trở về nhà, mang về từ đó một nén hương để cắm lên bàn thờ tổ tiên, với hy vọng một năm mới sẽ đến với tất cả may mắn và bình an.


Người viết: Tạ Đức Thụy