0.    Dẫn nhập.

“Thực hành triết học như thế nào để giữ cho tâm trí ta bình an trước những biến cố?”.
Một vấn đề lớn như việc “Giữ cho tâm trí ta bình an trước những biến cố”, không phải chỉ tới từ việc “Thực hành những kỹ thuật để giúp tâm trí ta bình an”, như Chủ nghĩa khắc kỷ (Mà người viết cho là rất hiệu quả về mặt tâm lý). Sâu trong ý tưởng này, ta phải trả lời được câu hỏi:
“Tại sao ta lo lắng trước những biến cố?”
Lo lắng trước những biến cố, tức là ta cảm giác cuộc đời ta vô định. Cảm giác cuộc đời ta vô định, tức là ta chưa hiểu được ý nghĩa cuộc đời ta. Vì vậy, nếu giải quyết được câu hỏi “Ý nghĩa cuộc đời ta là gì?” và hành động theo nó, thì ta sẽ không lo lắng.
Việc hiểu được ý nghĩa cuộc đời, cần nhiều thời gian để ta chiêm nghiệm về bản thân.

1.    Telos.

Dimitri: Nếu thần Atlas đỡ Địa cầu, vậy thì ai đỡ thần Atlas?Tasso: Thần Atlas đứng trên lưng con rùa. Dimitri: Nhưng con rùa ấy đứng trên cái gì? Tasso: Một con rùa khác. Dimitri: Thế con rùa khác ấy đứng trên cái gì? Tasso: Dimitri thân mến à, trở xuống toàn là rùa suốt lượt!
Để truy vấn một vấn đề, chúng ta liên tục hỏi “Tại sao?”.
Triết học dạy ta điều gì? Triết học đưa ra những giải thích cho câu hỏi lớn, và đồng thời cung cấp những kỹ thuật để ta hành động. Triết học là nền tảng cho mọi quyết định nhất quán trong cuộc đời ta.
Giới trẻ Việt Nam đa phần chưa được tiếp cận với triết học thật sự. Thay vì phải đau đầu trả lời những câu hỏi lớn: “Tôi là ai, tôi nên quyết định thế nào, việc này có phù hợp với đạo đức không?”, vì chỉ được tiếp cận những tư tưởng triết học chính trị Karl Marx. Chính bởi vì không suy nghĩ về những câu hỏi nền tảng về cuộc đời, nên người ta dễ lạc lối trong một xã hội bão hòa thông tin. Ta không có thời gian để suy nghĩ về cuộc đời, nên ta lại càng bị xao nhãng khỏi những câu hỏi quan trọng, và dễ dàng để người khác lôi kéo theo những khoái lạc nhất thời, hay nói cách khác là để người khác trả lời những câu hỏi cuộc đời hộ ta.
Một cuộc đời đáng sống phải trả lời được câu hỏi :
"Ý nghĩa cuộc đời tôi là gì? Tôi làm cách nào để đạt được nó?"
Ta bắt đầu với một cuộc trò chuyện điển hình giữa những người bình dân:
“Tôi học để làm gì? – Để được điểm cao”. “Được điểm cao để làm gì? – Để có một công việc tốt”. “Một công việc tốt để làm gì? – Để có được cuộc sống sung túc”. “Cuộc sống sung túc để làm gì? – Để tôi có được cảm giác hạnh phúc”. “Hạnh phúc để làm gì? Và Hạnh phúc là gì?”
Những cuộc trò chuyện thông thường như vậy dẫn chúng ta đến tư duy kiểu Mục đích luận của Aristotle, khi ông cho rằng bất cứ sự vật nào cũng có Telos, và chúng ta bất đồng trong mọi chuyện, bởi vì chúng ta muốn thống nhất Telos của mọi thứ.
Ý nghĩa cuộc đời, chính là câu trả lời cho câu hỏi:“Tôi được sinh ra trong thế giới này có mục đích gì?” và “Làm thế nào để tôi đạt được nó?”
Vậy, Telos của cuộc sống con người là gì, nếu không phải là mưu cầu hạnh phúc, vì xem ra ai cũng muốn đạt đến một cuộc sống thịnh vượng, trọn vẹn với chức năng của mình hơn?
Ý nghĩa cuộc đời có phải là để chúng ta mưu cầu hạnh phúc không?
Những phản đối về Telos của con người – Ý nghĩa cuộc sống, là “Mưu cầu hạnh phúc”, cũng không ít:
Một số nhà triết học theo chủ nghĩa hư vô, nhà vô thần, cho rằng về bản chất cuộc sống chẳng có ý nghĩa gì. Con người sẽ sinh sôi và diệt vong trong một thời gian ngắn nữa. Con người, một giống loài ích kỷ, tự cho mình hơn những loài khác bằng cái ảo vọng có một Telos cao đẹp vượt ngoài tính cá nhân.
Những người triết gia Chủ nghĩa hiện sinh có vẻ không đồng ý với ý kiến chúng ta có một ý nghĩa cuộc đời là tìm kiếm hạnh phúc, họ cho rằng: Cuộc đời chúng ta không có ý nghĩa gì, và chúng ta phải tự tìm kiếm ý nghĩa đó (Jean-Paul Sartre), hoặc cuộc đời chúng ta vô nghĩa, và chúng ta phải chấp nhận sự vô nghĩa đó (Albert Camus).
Thế nhưng, tư tưởng này rất dễ bị trượt vào tư tưởng tự do cá nhân cực đoan. Bởi vì chúng ta tự lo lựa chọn bất cứ ý nghĩa nào cho cuộc đời ta, và ý nghĩa đó có thể “Sai trái” đối với xã hội. Một xã hội tự do hoàn toàn là một xã hội hỗn loạn, bởi vì Con người có tính hay So sánh và gian lận. Dan Ariely chỉ ra trong quyển “Phi lý trí” của ông rằng: Con người dễ dàng trượt vào tính đố kỵ và hay so sánh, và sẵn sàng gian lận một chút, trong khi thật sự nghĩ rằng mình trung thực.
Sartre cũng nhắc chúng ta về “Sự Ngụy tín”, về những niềm tin xấu, nhưng ông không giải thích rõ ràng và dễ hiểu tại sao lại không được lựa chọn như vậy. Tư tưởng “Ngụy tín” của Sartre phần nào đó giống tư tưởng tự do của Kant:
“Dĩ nhiên tôi có quyền tự do lựa chọn ý nghĩa cuộc đời, nhưng khi tôi tự lựa chọn tự do ý nghĩa cuộc đời tôi theo hướng tôi khao khát (chẳng hạn, Quân phiệt, hoặc khoái lạc), khi đó tôi không thật sự tự do, mà tôi bị những quyết tâm ngoại trị chi phối”.
Tự do thật sự, theo Kant, mà thỏa mãn những tư tưởng phổ quát, và thỏa mãn “Mệnh lệnh tuyệt đối: xem Nhân loại như mục đích, không phải công cụ”. Ông cho rằng khi chúng ta tham gia vào cái gọi là “Lý trí thực tiễn thuần túy”, cuối cùng, con người sẽ có những quyết định chung nhất về những “Mệnh lệnh tuyệt đối”, Nhân loại sẽ trở thành khối thống nhất.
Vậy, con người có Telos không?
Những nghiên cứu tâm lý học xã hội gần đây nhất cho thấy con người tiến hóa theo kiểu chọn lọc nhóm, thay vì chọn lọc cá thể như giới khoa học vẫn thường hình dung. Chúng ta tiến hóa để sống trong một nhóm. Tức như Aristoteles, con người tìm kiếm ý nghĩa của mình trong thành bang:
“Một con người chỉ sống và có ý nghĩa khi anh ta gắn liền với cộng đồng. Nếu tách rời khỏi thành bang, anh ta bị mất đi ý nghĩa cá nhân. Người này hẳn phải là thú vật hoặc thần thánh”. (Aristoteles).
Vậy, có cách nào giải quyết được mâu thuẫn giữa hai niềm tin, một niềm tin cho rằng con người có Telos, và một niềm tin cho rằng con người không có Telos hay không? Đến hiện tại, giả thuyết khả dĩ nhất trong thế giới vật chất, cho rằng con người tiến hóa theo kiểu “Chọn lọc nhóm”, và các nhóm cạnh tranh với nhau. Dĩ nhiên, nó chưa thể là kết luận cuối cùng về Telos của con người, nhưng như Kant viết khi ông luận về “Thế giới khả giác” và “Thế giới giả niệm”:
"Chúng ta không thể chứng minh được nó, nhưng chúng ta không thể sống mà không giả định nó có tồn tại"
Chúng ta chưa thể chứng minh được con người sinh ra có Telos là phát triển nhóm, nhưng không thể hiểu được ý nghĩa cuộc đời mà không giả định Telos đó có tồn tại.
Nếu xét từng cá nhân, sẽ không có cái gọi là ý nghĩa cuộc đời. Nhưng bởi vì con người tiến hóa theo kiểu chọn lọc nhóm, nên chúng ta gắn liền ý nghĩa cuộc đời ta với việc phát triển cho cộng đồng lớn mạnh. Đó là Telos của con người. Khi đó, ta đạt đến Hạnh phúc.

2.    Hạnh phúc.

Hạnh phúc là gì? Là thỏa mãn kiểu Hóa học, là thỏa mãn kiểu Tiền định, hay là thỏa mãn kiểu Vị lợi?
Hạnh phúc theo diễn giải của các nhà sinh học, là sự pha trộn giữa những hợp chất “Hormone hạnh phúc” tiết ra trong não, khiến chúng ta lâng lâng, cực khoái, và luôn tràn ngập cảm xúc.
Thế nhưng tư tưởng này có một số điểm yếu. Nếu chúng ta được cung cấp một viên thuốc, mà khi uống vào, ta lâng lâng cực khoái mỗi ngày, và tất cả những gì ta làm chỉ để đủ tiền mua “Viên thuốc hạnh phúc” đó.
Thuốc viên hạnh phúc
Thuốc viên hạnh phúc
Liệu ta có còn muốn sống theo kiểu này? Những nhà thần học thời gian đầu như thánh Augustine và Paul cho rằng con người giống như những “Con nghiện khoái lạc”, tư tưởng đó chưa hẳn đã sai hoàn toàn. Nếu chúng ta khảo sát 100 người sử dụng ma túy trong cơn phê, hẳn họ sẽ khẳng định chắc nịch ma túy làm họ hạnh phúc, và ta sẽ ra về với một bản kết luận: “Hãy phổ cập ma túy đến mọi người dân, vì người ta luôn hạnh phúc khi sử dụng nó”.
Thuốc phiện: Hạnh phúc hóa học.
Thuốc phiện: Hạnh phúc hóa học.
Vậy, hạnh phúc không đơn thuần chỉ là một “Phản ứng hóa học”, mà nó còn là một loại cảm giác nào đó vượt ra ngoài những khoái lạc đơn thuần của con người.
Hạnh phúc có phải là một “Dharma’?
Dharma trong giáo lý Ấn Độ cổ đại cho rằng con người sinh ra có những bổn phận nhất định phải tuân theo, được tiền định từ trước. Lẽ dĩ nhiên, con người có thể từ chối đi theo Dharma đó, nhưng chỉ khi theo đuổi đúng Dharma của mỗi người, họ mới có thể đạt đến hạnh phúc đích thật. Tư tưởng này có vẻ đúng một phần, khi các Triết gia phương Đông nói:
“Ta là cây hường, thì ta hạnh phúc nhất khi sống đời cây hường. Ta là cây huệ, thì ta hạnh phúc nhất khi sống đời cây huệ”.
Hay như Socrates:
“Know Thyself”.
Câu nói nổi tiếng trong phim của Triệu Tử Long: "Chúng ta đều mang những vai diễn của cuộc đời".
Câu nói nổi tiếng trong phim của Triệu Tử Long: "Chúng ta đều mang những vai diễn của cuộc đời".
Thế nhưng, tư tưởng này nếu phát triển đến chỗ cùng cực, sẽ nảy sinh Chế độ đẳng cấp Varna, hoặc chế độ Quân chủ phong kiến, hoặc chế độ Nhân tài, khi cuộc đời của ta gắn liền với những biến cố ngẫu nhiên mà ta không thể lựa chọn được, cụ thể ở đây là Xuất phát điểm, tầng lớp, thậm chí là tài năng bẩm sinh. John Rawls và Malcolm Gladwell nắm chính xác được tinh thần này trong hai quyển sách “Học thuyết công lý” và “Những kẻ xuất chúng”.
Với John Rawls, ông đề xuất một chế độ Nhà nước phúc lợi, khắc phục những biến cố ngẫu nhiên tác động đến cuộc đời mỗi người, bằng việc giả định ra một “Bức màn vô minh”, nơi con người có thể bỏ lại đẳng cấp, xuất phát điểm,… Để đồng thuận những quy tắc chung.
Với Malcolm Gladwell, ông viết:
“Cây sồi cao lớn nhất trong rừng sở dĩ cao lớn nhất không phải chỉ bởi nó nảy ra từ quả sồi cứng cáp nhất; nó là cây cao lớn nhất bởi không có cây cối nào chặn mất ánh sáng mặt trời của nó, đất đai xung quanh nó vừa sâu vừa màu mỡ, không có con thỏ nào gặm mất vỏ cây khi nó còn non tơ, và cũng không có tay thợ rừng nào đốn hạ khi nó chưa đủ cứng cáp… Vĩ đại, là một loạt những tích lũy nhỏ bé từ những lợi thế ngẫu nhiên ban đầu, mà sự nỗ lực chỉ là một khía cạnh trong đó”.
Vậy, Hạnh phúc không hẳn là một Dharma, mà là một thứ mỗi người có thể nắm bắt trong khả năng của mình, thay vì để Định mệnh dẫn lối.
Hạnh phúc có phải là “Tốt nhất cho số đông”? hay “Tự do lựa chọn mục đích cuộc đời?”
Học thuyết vị lợi lần đầu được áp dụng bởi Jeremy Bentham, Triết gia vị lợi, khi ông cố gắng đưa “Hạnh phúc” và “Đau khổ” về những đại lượng có thể tính toán được, và đem đến cho xã hội một loại hạnh phúc lớn nhất, và ít đau khổ nhất.
Thế nhưng, tư tưởng của chủ nghĩa vị lợi dễ bị trượt vào việc đàn áp nhóm thiểu số. Sự đau khổ của thiểu số không thể so sánh được với hạnh phúc lớn lao của số đông. Nó đàn áp tự do của con người, và trong một xã hội nơi một cá nhân hoàn toàn đánh mất mình trong nhóm, một xã hội đó có thể trở thành một xã hội Quân phiệt.
Ném giáo dân Cơ Đốc cho sư tử: Sự đau khổ của số nhỏ không thể sánh với hạnh phúc của số đông.
Ném giáo dân Cơ Đốc cho sư tử: Sự đau khổ của số nhỏ không thể sánh với hạnh phúc của số đông.
Trái ngược với Bentham là John Stuart Mill, ông bảo vệ Chủ nghĩa tự do cá nhân, khi ông viết:
“Việc bảo vệ các tư tưởng cá nhân làm thúc đẩy xã hội tiến hóa không ngừng. Và giả như những ý kiến cá nhân đó có sai sót, thì tranh luận với ý kiến chủ lưu cũng giúp củng cố tư tưởng, góp phần hoàn thiện và làm tư tưởng chủ lưu không trở nên giáo điều”.
Thế nhưng, chủ nghĩa tự do nếu áp dụng đến cùng cực, khi quyền lực Nhà nước bị hạn chế đến mức tối thiểu để đảm bảo các giao kèo, thì một “Xã hội thị trường” sẽ thay thế cho một nền “Kinh tế thị trường”, khi thứ gì cũng có thể đem ra trao đổi, và con người không thể thống nhất thành những nhóm lớn hơn.
Những mặt trái của Chủ nghĩa tự do cá nhân thuần túy bao gồm việc xem thường tự do (Xét về khía cạnh này, tự do kiểu Kant khắt khe hơn so với tự do kiểu Mill, khi ông cho rằng "Chỉ khi nào tôi hành động theo mệnh lệnh tuyệt đối: coi Con người như mục đích, thì tôi tự do". Quan điểm này khẳng định muốn tự do, phải có những giới hạn trong các quyết định, bởi vì trong một số hoàn cảnh, ta hành động theo Khoái lạc, không phải theo Mệnh lệnh tuyệt đối). Hơn nữa, Chủ nghĩa tự do cá nhân kiểu cực đoan cho rằng điều đúng nên làm hoàn toàn dựa trên một thỏa thuận tự nguyện, mà theo quan điểm của Rawls, Sự tự nguyện là chưa đủ, còn phải xét hoàn cảnh khi ta quyết định, tức là xem xét liệu mọi người có quyết định dựa trên một vị thế bình đẳng hay không. Khi xem xét như vậy, thì hóa ra sự "Tự nguyện" không hoàn toàn tự nguyện.
Một mặt trái khác, mà chủ nghĩa tự do cá nhân mắc phải, là sự xói mòn các "Chuẩn mực". Bởi vì chúng ta luôn có thể lựa chọn mọi mục đích cuộc đời, mọi mục tiêu phấn đấu miễn nó không ảnh hưởng đến người khác trên lý thuyết (Theo Mill), nên những Phẩm chất qua thời gian được xã hội tôn vinh, và khuyến khích (Như Tình Yêu, Lòng Khoan dung, Điềm đạm,...) sẽ bị "Tham nhũng", tức là những Phẩm chất đó bị giảm giá trị trong một xã hội hỗn loạn, vô tổ chức. Một xã hội đó, nếu được chấp nhận rộng rãi, có thể sẽ dẫn đến sự tự sụp đổ của chính nó, vì nó không thể cạnh tranh được một xã hội đoàn kết hơn, nơi các Phẩm chất được tôn vinh và tưởng thưởng.
Usan Bolt - Chế độ nhân tài, nơi những tài năng bẩm sinh được tôn vinh. Nhưng tài năng của anh là ngẫu nhiên hay chỉ thuần nỗ lực? Nếu một số người nỗ lực hơn anh mà không tạo được thành tựu nào, liệu người đó có đáng được tôn vinh trong xã hội?
Usan Bolt - Chế độ nhân tài, nơi những tài năng bẩm sinh được tôn vinh. Nhưng tài năng của anh là ngẫu nhiên hay chỉ thuần nỗ lực? Nếu một số người nỗ lực hơn anh mà không tạo được thành tựu nào, liệu người đó có đáng được tôn vinh trong xã hội?
Vậy, định nghĩa hạnh phúc hợp lý nhất cho đến nay là gì?
Chúng ta không thể xem “Khoái lạc” như một mục tiêu mà Hạnh phúc hướng đến, vì nó chỉ là một Ảo vọng, không làm cả xã hội và cá nhân tiến hóa.
Chúng ta không thể quá tự do lựa chọn hạnh phúc, mà hậu quả sẽ đem đến một xã hội hỗn loạn, mất đi ý nghĩa “Chọn lọc nhóm”, 
Chúng ta cũng không thể quá vị lợi, mà kết quả là việc xuất hiện một xã hội Giáo điều, Quân phiệt.
Dựa vào ý nghĩa cuộc đời của mỗi cá nhân kiểu Telos: Ý nghĩa cuộc đời của chúng ta phải gắn liền với nhóm mà chúng ta sống trong đó, và chúng ta không thể lựa chọn tự do một số trách nhiệm mà chúng ta bắt buộc phải nhận khi chúng ta ra đời.
Chúng ta là những “Con người kể chuyện”. Nguồn gốc, lịch sử của chúng ta gắn liền với những câu chuyện: Nơi tôi được sinh ra, Gia đình của tôi, xã hội cục bộ nơi tôi sống, và loài người nói chung mà tôi là một phần trong đó. Nói cách khác, chúng ta có tự do, nhưng không hoàn toàn, vì chúng ta gắn liền với những lịch sử, xã hội nơi chúng ta sinh ra, nên chúng ta có những trách nhiệm do xã hội và hoàn cảnh đó mang lại, mà chúng ta không tự mình lựa chọn lấy.
Triết học phương Tây, đối với Việt Nam hiện nay, thật dễ hiểu, hấp dẫn, và đánh trúng vào cái bản ngã sâu kín của con người: tôi muốn được người khác chú ý, tôi muốn làm con đực Alpha, bởi vì tôi sẽ là người để lại dấu vết mạnh mẽ nhất trong xã hội Loài người.
Trớ trêu thay, có những ví dụ cho thấy cuộc đời một người nếu phát triển theo hướng quá cá nhân, có thể sẽ dẫn đến đau khổ, hoặc anh ta có thể cảm nhận sự khoái lạc (mà anh ta lầm tưởng là hạnh phúc). Trong trường hợp anh ta đau khổ, vì anh ta đánh mất ý nghĩa cuộc đời mình. Trong trường hợp anh ta khoái lạc, thì những người ở lại sẽ không xem đó là một tấm gương để các thế hệ sau noi theo, mà xem đó là một cuộc đời không đáng sống. Khi đó, anh ta sẽ bị quên lãng. Với cá nhân anh ta, thì có lẽ không có vấn đề, nhưng đối với nhóm, bởi vì nó không có lợi nhiều cho chính nhóm đó, nên những cuộc đời như vậy được xem như một lối sống sai lầm, không được khuyến khích và tôn vinh.
Dia de los muertos, khi con người sợ bị quên lãng.
Dia de los muertos, khi con người sợ bị quên lãng.
Vì vậy, ta chỉ tìm được hạnh phúc, ta khi ta gắn mình trong cộng đồng, ta là "Con người kể chuyện".
Con người tìm thấy hạnh phúc khi tạo ra ý nghĩa trong người khác, là ao ước mình có thành tựu đối với giống loài, ao ước được để lại dấu vết trong giống loài của mình. Mà ta để lại dấu vết khi nào? Khi ta giúp đỡ người khác.
Giúp đỡ người khác chính là cứu rỗi cuộc đời mình.
Giúp đỡ người khác chính là cứu rỗi cuộc đời mình.
Đó là một khát vọng. Con người là một cá thể ích kỷ mong muốn được tan chảy trong cộng đồng. Điều này giải thích cho việc tiến hóa nhóm, khi con người từ bỏ cái tôi cá nhân để hòa vào nhóm của mình. Ta không thể diễn giải Cái tôi cá nhân của bản thân, mà không dựa vào những Cái tôi khác, để so sánh. Làm sao ta biết ta là một người Hòa đồng, Nhân ái, Duy tâm khi ta không có một người Ích kỷ, Độc ác, và Duy vật? Không thể so sánh được khi không có ai để so sánh. Nếu không thể so sánh, thì cũng không có ý nghĩa cuộc đời.
Có thể, ta sẽ chọn một cuộc đời hạnh phúc theo chủ nghĩa khoái lạc, khi ta thật sự tin vào tính hư vô khi ta chết đi. Khi đó việc quan trọng trong cuộc đời của ta là đạt được càng nhiều khoái lạc càng tốt, đó chính là ý nghĩa cuộc đời theo hướng cá nhân.
Hoặc, ta có thể hiểu hạnh phúc theo một nguyên tắc “Trung dung” hơn: Ta có tự do tìm hiểu bản thân vĩ đại nhất theo khía cạnh nào, và không thể vĩ đại nhất theo khía cạnh nào, đồng thời, ta gánh một số trách nhiệm gia đình, cộng đồng và xã hội, là những nghĩa vụ ta không thể tự do lựa chọn. Hạnh phúc, là chu toàn hai khía cạnh đó.
Vậy, theo đuổi hạnh phúc theo nguyên tắc “Trung dung” này có làm xói mòn Tinh thần tự lực không? Một số người lo ngại những cá nhân trong nhóm này sẽ đánh mất Tinh thần tự lực, trở nên lười biếng, và trở thành những kẻ “Ăn theo”. Điều này thay vì phát triển nhóm, thì nó lại trở thành nguyên nhân hủy hoại nhóm đó.
Nhưng đó là việc ta nhầm lẫn việc tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời với tinh thần tự lực. Tinh thần tự lực đòi buộc ta hoạt động độc lập để nâng cao khả năng bản thân. Nhưng nó là công cụ (phương tiện) để ta hoạt động có mục đích, là giúp đỡ mọi người (sống có ý nghĩa).
Vì sao vậy? Bởi vì muốn giúp đỡ được nhiều người, ta phải đủ giỏi trong khả năng tối đa của mình, và có một tinh thần vững mạnh.
Thăng tiến bản thân để giúp đỡ mọi người, và ngược lại, giúp đỡ mọi người là cứu rỗi cuộc đời mình, là thứ mà chủ nghĩa tự do cá nhân thuần túy thiếu sót.
Và bởi vì con người sống trong một tập thể, nên chúng ta phải có những quy tắc (Đạo đức tương đối) dẫn dắt chúng ta hòa nhập vào cộng đồng đó. Vậy, chúng ta trở nên hạnh phúc khi chúng ta Thăng tiến bản thân, và đồng thời Giúp đỡ mọi người, nó tạo nên ý nghĩa cuộc đời của cá nhân, và làm ta thỏa mãn.

3.    Cái tương đối, hay Cái tuyệt đối?

Bàn về Hạnh phúc, là bàn về cặp mâu thuẫn Nhị nguyên điển hình của con người: Một cá thể ích kỷ (Tự do cá nhân, 90% vượn, triết học phương Tây)  khao khát trong một nhóm toàn thể (Trách nhiệm nhóm, 10% ong, triết học phương Đông). Có lẽ, ta đạt được đến hạnh phúc khi ta có cả hai khía cạnh này, khi góp phần làm cho nhóm của ta trở nên lớn mạnh nhất, và không thể bị cạnh tranh. Khía cạnh này có thể giải thích được tình cảm gia đình, tình đồng chí, và tình yêu Tổ quốc.
Nhưng nếu xét về hạnh phúc cực đại, thì theo logic, ta phải phát triển Nhóm cục bộ (Cái tương đối) đến Nhóm toàn thể (Cái tuyệt đối). Điều này có khả thi hay không, và tại sao ta chưa đi đến Cái tuyệt đối đó? Tại sao không có một Tôn giáo chung nhất, một Quốc gia duy nhất, một Xã hội độc nhất?
Vật cực tất phản, vật cùng tất biến.
Triết học phương Đông, ngược lại, chú trọng đến mối quan hệ của cá nhân trong một nhóm cụ thể nào đó.
Con người có tính so sánh, và những bậc hiền triết luôn khuyên bản thân ta nếu muốn thoát khỏi sự đau khổ, phải thoát ra khỏi tính so sánh với người khác, mà phải so sánh với chính bản thân ta. Những bậc hiền triết thì lại hết mực khuyên ta từ bỏ cái bản ngã đó, để chuyên chú vào mục đích lớn của việc ta làm. Nghịch lý là khi ta làm vậy, ta lại càng được chú ý. Nhưng khi ta làm vậy để được chú ý, thì ta lại mất đi sự chuyên chú. Vì vậy những nhà hiền triết hiểu rõ điều đó, và từ bỏ danh vọng, thật sự từ bỏ, nhưng đối với chúng ta, họ để lại ấn tượng sâu đậm. Đó chính là “Cái tuyệt đối” mà con người luôn khao khát đạt được
Phương Tây bắt đầu mọi việc bằng một câu hỏi, và kết thúc với nhiều câu hỏi phát sinh, đó là một vòng lặp vô tận.Triết học phương Tây và phương Đông khác nhau, khi phương Đông cho rằng vũ trụ là cái toàn thể. Khi khoa học phương Tây ráng phân tách cái toàn thể đó thành nhiều khía cạnh, và cố gắng tìm hiểu nó, thì họ làm biến chất cái toàn thể đó, và sẽ không thể giải thích được Cái toàn thể như nó vốn là.
Điều đó mang ta tới nền tảng triết học Kinh Dịch phương Đông. Nó cho rằng mọi sự trong đời đều hàm chứa tính tự mâu thuẫn, nên khi con người cố gắng phát triển một khía cạnh đến chỗ chí cực, thì Cái toàn thể sẽ không còn là Cái toàn thể nữa.
Có thể xét đến ví dụ Masanobu Fukuoka với phương pháp nông nghiệp “Thuận tự nhiên”. Ông cho rằng nền nông nghiệp hiện đại cố gắng phân tách Tự nhiên (Cái toàn thể) thành những khía cạnh nhỏ hơn (Như chất lượng đất, các phương pháp canh tác hiện đại, phương pháp tưới,…) để cố gắng hiểu nó, và cố gắng chinh phục tự nhiên, để phục vụ cho nhu cầu ngày càng vô độ của con người. thay vì “Mùa nào thức nấy”, chúng ta thèm trái cây trái mùa ở một nơi xa. Những nhà nông vất vả chăm sóc những loại cây trái mùa, áp dụng những loại thuốc tăng trưởng, và thuốc kháng sinh mà không sử dụng những yếu tố tự nhiên như vi sinh vật, thiên địch,… Trái cây trái mùa phải được vận chuyển rất xa, cộng với lượng chất dinh dưỡng thiếu hụt do trái với tự nhiên, mà theo Fukuoka, nguyên nhân chỉ xuất phát từ nhu cầu vô độ của con người. Ông chứng minh tư tưởng đó bằng cách áp dụng nông nghiệp “Thuận tự nhiên”, và đem lại hiệu quả về sản lượng tương đương những phương pháp hiện đại nhất.
"Chúng ta không hiểu được sự phức tạp của hệ sinh thái toàn cầu nên những thay đổi chúng ta tạo ra đã vô tình làm gián đoạn hệ sinh thái, và giờ đây ta đang đối mặt với một cuộc sụp đổ sinh thái".
Masanobu Fukuoka - Nông nghiệp thuận tự nhiên.
Masanobu Fukuoka - Nông nghiệp thuận tự nhiên.
Ý nghĩa của câu "Vật cực tất phản" là vậy. Không có vị lợi tuyệt đối, cũng không có tự do cá nhân tuyệt đối. Có thể xét qua những quốc gia cũ Liên bang Xô Viết, hoặc Đế quốc La mã thần thánh, đặc trưng cho khát khao vĩ đại của con người: Hợp nhất nhân loại thành một khối, nhưng chuyện đó là không thể, ít nhất là trong thời đại của chúng ta.Hợp chủng quốc hoa kỳ, thật ra là tập hợp của năm mươi nhóm (Bang), lấy chung một danh nghĩa khi bước ra nước ngoài đàm phán.
Hoặc xét đến việc phân biệt vùng miền ở Việt Nam: Theo tình hình hiện tại, thật khó có thể nghĩ đến một khối Đại đoàn kết dân tộc, vì văn hóa quá khác biệt, và những vết thương lịch sử.
Chúng ta vẫn chỉ là những nhóm nhỏ khao khát hòa nhập được vào một cộng đồng toàn cầu. Một Xã hội, một Quốc gia, một Chế độ, vẫn chỉ là khao khát.
Nhưng chính cả việc tạo lập một Cái tuyệt đối, bản thân nó cũng có rủi ro. Nhìn vào nhà nước Trung Quốc hiện tại. Liệu chúng ta có muốn hi sinh tự do cá nhân để hòa vào một quốc gia toàn trị? Hay nhìn vào viễn cảnh công nghệ phát triển vượt trội đến mức nó muốn hòa nhập con người vào một môi trường, khi ta có Trí tuệ nhân tạo, có Dữ liệu lớn, có Thế giới ảo, liệu ta còn tìm thấy ý nghĩa cá nhân ta trong đó?
Trung Quốc - Nhà nước toàn trị.
Trung Quốc - Nhà nước toàn trị.
Đó là những dẫn chứng cho thấy chọn lọc nhóm vẫn đang trên con đường tiến hóa. Và trong thời đại chúng ta, ý nghĩa cuộc sống chính là để phát triển nhóm của chúng ta trở nên thịnh vượng nhất. Còn tương lai? Người viết không chắc chắn, vì việc tiến hóa và chọn lọc nhóm vẫn đang diễn ra. Công nghệ thông tin và Trí tuệ nhân tạo vẫn tiếp tục phát triển. Có lẽ, tương lai chúng ta sẽ thành một khối thống nhất dựa vào Công nghệ chăng? Liệu có thành công? Nếu thành công, liệu chúng ta có muốn như vậy? 
Cái tuyệt đối - Ma trận.
Cái tuyệt đối - Ma trận.
Mặt khác, việc duy trì những “Nhóm cục bộ”, những “Hạnh phúc tương đối”, những quốc gia độc lập, những nền văn hóa khác nhau cũng làm ta tranh cãi không ngừng, vì chúng ta khao khát hợp nhất Thế giới, chúng ta tìm một "Cái tuyệt đối", "Cái đúng khách quan".
Có Cái tuyệt đối và Cái đúng khách quan hay không? Có thể hiểu việc này thông qua những tranh luận về Tôn giáo. Chủ nghĩa hữu thần và Chủ nghĩa vô thần tranh luận gay gắt với nhau về vấn đề này.
Những người Hữu thần thì viện dẫn "một cuộc đời hạnh phúc về sau": sống là để "Yêu Chúa" (Augustine), cả những Phật tử cũng sống một cuộc sống vô lo để đạt được đến Niết bàn, và cho rằng đó là “Cái tuyệt đối” có thể hợp nhất con người với nhau.
Những người Vô thần thì viện dẫn đến Chủ nghĩa hiện sinh, lấy con người làm trung tâm, và bắt các vị Chúa phải câm miệng. Chủ nghĩa hiện sinh cho rằng chúng ta tự tạo nên ý nghĩa cuộc đời cho chính mình. Đó là “Cái tuyệt đối”, và những nhà “Vô thần mới” cho rằng Tôn giáo là một dạng ký sinh của xã hội, vì nó mê hoặc con người đến với những Ảo vọng không thật, làm xa rời bản chất con người là: Tính hư vô. Đây được xem là tư tưởng phương Tây triệt để, tôn trọng tự do cá nhân của con người, nên chẳng có một vị Chúa, hay một tập thể nào có thể kiểm soát con người.
Hiện tại, những nhà nghiên cứu tâm lý xã hội cũng phải đồng ý về lợi ích của Tôn giáo (không bàn đến tính hiện hữu khách quan: “Có Chúa hay không?”), vì nó thật sự có lợi cho lợi ích nhóm. Tôn giáo có khả năng liên kết nhóm, khiến một nhóm trở nên đoàn kết và mạnh mẽ hơn, giúp nhóm đó cạnh tranh tốt hơn, và tiến hóa.
Vậy, giải quyết vấn đề Tôn giáo như thế nào? Có thể dựa vào “Canh bạc của Pascal”: Giả như chúng ta tin vào “Chúa”:
-        Nếu Chúa có thật, thì ta sẽ có một cuộc đời viên mãn về sau.
-        Nếu Chúa không có thật, thì ta cũng không mất gì.
Có thể áp dụng tư tưởng này của Pascal với một dạng “Đạo đức khách quan”, đang gây tranh cãi giữa Chủ nghĩa hữu thần và Chủ nghĩa vô thần:
-        Nếu Chúa tồn tại, thì đạo đức khách quan có tồn tại.
-        Nếu Chúa không tồn tại, thì đạo đức khách quan không tồn tại. Con người không có đạo đức khách quan. Và nếu không có đạo đức khách quan, cũng không có nghĩa vụ đạo đức. Theo những nhà Vô thần, Đạo đức chỉ là một sản phẩm ảo tưởng của loài Homo Sapiens, không khác gì việc phân biệt giống loài.
Gạt bỏ hết những tranh luận “Có tồn tại Chúa hay không”, Tôn giáo cần thiết cho chúng ta, vì nó thúc đẩy nhóm, tạo ra những ràng buộc đạo đức, khiến chúng ta gắn bó với những thành viên trong nhóm. Chúng ta đồng thời sống trong nhiều nhóm khác nhau,nên chúng ta đồng thời có trách nhiệm với nhiều nhóm.
Chúng ta có trách nhiệm với thành bang (Xã hội chúng ta sống). Bằng cách lao động tạo ra giá trị, trong khả năng của chúng ta.
Chúng ta có trách nhiệm với nhân loại kiểu phổ quát: giữ gìn môi trường, tôn trọng sự sống, tôn trọng Nhân loại, một sự tôn trọng kiểu triết học.
Khi ở trong cộng đồng, ta sẽ phải giao tiếp, và nảy sinh mâu thuẫn đạo đức. Đó là điều đương nhiên phải đến.
Ý nghĩa cuộc đời của ta gắn liền với những cộng đồng mà ta ở trong đó. Không ai tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời một mình.

4.    Một đạo đức trung dung – Kết luận.

Vậy, ta có thể hình dung có những nhóm khác nhau, với những văn hóa và đạo đức tương đối, cùng hiện diện song song với nhau. Đâu mới là cách cư xử đúng đắn? Liệu suy nghĩ của ta đã đúng tuyệt đối? Câu chuyện của Khuất Nguyên có thể gợi cho ta cách giải quyết:
“Khuất Nguyên làm quan đại phu cho đời Hoài Vương nước Sở, bị kẻ sàm báng mà phải bãi chức. Mặt mũi tiều tuỵ, hình dong khô héo, Khuất Nguyên vừa đi, vừa hát trên bờ đầm.Có ông lão đánh cá trông thấy, hỏi rằng: - Ông có phải là Tam Lư Đại Phu không? Sao mà đến nỗi khốn khổ như vậy? Khuất Nguyên nói: “Cả đời đục cả, một mình ta trong; mọi người say cả, một mình ta tỉnh; bởi vậy nên ta phải bị bãi chức”. Ông lão đánh cá nói: “Thánh nhân không câu nệ việc gì, lại hay tuỳ thời. Có phải cả đời đục cả, sao không khuấy thêm bùn, vỗ thêm sóng cho đục một thể; loài người say cả, sao ông không ăn cả men, húp cả bã cho say một thể? Việc gì mà phải lo xa, nghĩ sâu, để cho đến nỗi phải phóng khí?”. Khuất Nguyên nói: “Tôi nghe: Mới gội đầu tất phải chải mũ, mới tắm ra tất phải thay áo; có đâu lại chịu đem cái thân trong sạch mà để cho vật dơ bẩn dính vào mình được? Chẳng thà nhảy xuống sông Tương, vùi xác vào bụng cá, chớ sao đang trắng lôm lốp, lại chịu để vấy phải bụi dơ”. Ông lão đánh cá nghe nói tủm tỉm cười, quay bơi chèo đi, rồi hát rằng: “Sông Tương nước chảy trong veo. Thì ta đem giặt cái lèo mũ ta. Sông Tương nước đục phù sa Thì ta lội xuống để mà rửa chân”. Hát xong, đi thẳng không nói gì.”
Người ta không thật sự hiểu bản thân mình, nên sống một cuộc đời buồn tẻ. Người ta tự cho mình là đúng, thì đồng thời ta lại cho tất cả mọi người là sai. Vì thế, ta có một nghĩa vụ cao cả là phải cứu đời, bắt những người không đồng với ta về phe của ta. Ta không hiểu, “Vật cực tất phản”, làm gì ở đời có sự đúng tuyệt đối? Cái sự “Ham cứu đời” của ta đem đến cho xã hội biết bao nhiêu là đau khổ: Ta phát triển công nghệ và văn minh đến mức làm cạn kiệt tài nguyên của Trái đất, trong khi vấn đề lại nằm ở chính bản thân ta quá tham vọng. Ta mong muốn cuộc sống ngày càng tiện lợi, nhưng với một xã hội công nghệ, vòng quay cuộc sống của ta ngày càng nhanh. Ta không hiểu, vấn đề không nằm ở việc ta phát triển chưa đủ, mà lại nằm ở chính bản thân ta không bằng lòng. Ta muốn được người khác chú ý, muốn được lưu danh.
“Đồng với ta, cho ta là phải. Không đồng với ta, cho ta là trái”. Phải trái, đúng sai ở đời, chỉ có vậy mà thôi.
"Liều thuốc khả dĩ nhất cho sự xuẩn ngốc đó là khiêm tốn. Các căng thẳng dân tộc, tôn giáo và văn hóa trở nên tệ hại hơn vì cảm giác phô trương cho rằng dân tộc tôi, tôn giáo tôi và văn hóa tôi là quan trọng nhất trên thế giới, do đó các lợi ích của tôi phải đứng trước lợi ích của bất kỳ ai khác hay của cả nhân loại".
Dân tộc tôi độc đáo, và ưu việt hơn dân tộc khác một cách tuyệt đối, vì vậy, tôi phải "Cứu đời", để kéo các dân tộc khác thoát khỏi lầm than, dẫu có phải bạo lực.
Dân tộc tôi độc đáo, và ưu việt hơn dân tộc khác một cách tuyệt đối, vì vậy, tôi phải "Cứu đời", để kéo các dân tộc khác thoát khỏi lầm than, dẫu có phải bạo lực.
Vậy, theo hiểu biết hạn hẹp của người viết:
-        Telos của "Cuộc đời", là mưu cầu hạnh phúc. Không thể sống một cuộc sống trọn vẹn, nếu ta không giả định việc mưu cầu hạnh phúc có tồn tại.
-        Ta đạt hạnh phúc khi ta là một phần trong nhóm của ta, và như loài ong, ta gánh một phần trách nhiệm trong sự phát triển nhóm.
-        Để phát triển nhóm, ta cân bằng giữa hai khía cạnh: Phát triển bản thân (Tinh thần tự lực) để Giúp đỡ mọi người (Chọn lọc nhóm), và ngược lại.
-        Con người khát khao đến "Cái tuyệt đối": đạo đức tuyệt đối, cộng đồng toàn cầu (tuyệt đối). Tuy nhiên, xét ở khía cạnh vĩ mô, con người mới chỉ bước đầu vươn đến cái tuyệt đối đó. Cần rất nhiều thời gian, và ở thế hệ của ta, chưa thể đạt đến và thống nhất được, nó chỉ là khao khát. Hiện tại, chỉ có thể bàn về "Cái tương đối", tức là thừa nhận những nhóm khác nhau có tiêu chuẩn, tôn giáo, phong cách sống khác nhau.
-        Những nhóm cạnh tranh với nhau. Và để cân bằng giữa tư tưởng Tự do cá nhân thuần túy và Chủ nghĩa vị lợi, cũng như né tránh những khía cạnh cực đoan khi cho rằng suy nghĩ, văn hóa của ta là cao đẹp nhất, ta phải phòng tránh “Tư tưởng Khuất Nguyên”, bởi vì những gì ta cho là đúng đắn, thật ra cũng chỉ mang tính tương đối.
Kết hợp nhiều lối sống cộng hưởng nhau cho ta một tinh thần vững vàng, tạo nên hạnh phúc khi bản thân ta tìm thấy ý nghĩa của ta trong cộng đồng ta đang sống. Chỉ có suy ngẫm về triết học, chúng ta mới có thể tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời. Có thể chúng ta không thống nhất được với người khác về những tư tưởng, nhưng ít ra Triết học giải quyết cho chúng ta một điều: Nó làm chúng ta Nhất quán hơn.

5.    Phụ lục.

Các đầu sách bổ túc cho tư tưởng trên:
Đông Phương:
Gieo mầm trên sa mạc – Masanobu Fukuoka.
Cuộc cách mạng Một cọng rơm – Masanobu Fukuoka.
Cái dũng của Thánh Nhân – Thu Giang (Nguyễn Duy Cần).
Thuật xử thế của người xưa. – Thu Giang (Nguyễn Duy Cần).
Văn minh Đông Phương và Tây Phương. – Thu Giang (Nguyễn Duy Cần).
Tây phương:
Tư Duy Đạo Đức: Vì Sao Những Người Tốt Bị Chia Rẽ Bởi Chính Trị Và Tôn Giáo – Jonathan Haidt.
Nicomachen Ethics – Aristoteles.
Phải trái đúng sai – Michael Sandel.
Tiền không mua được gì – Michael Sandel.
Phi lý trí – Dan Ariely.
Sapiens – Yuval Noah Harari.
Homo Deus – Yuval Noah Harari.
Triết học: Khái lược những tư tưởng lớn – Nhiều tác giả.