Hướng nghiệp Sông An tổng hợp và biên dịch nội dung 6 nhóm trong Lý thuyết Holland dựa trên tài liệu Holland, J. (1985). Making Vocational Choices: A Theory of Vocational Personalities and Work Environments. New Jersey: Prentice-Hall, Inc.
Bản quyền thuộc về Hướng nghiệp Sông An, mình chỉ xin đăng lại.

Nhóm Kỹ thuật

Với yếu tố di truyền và trải nghiệm đặc thù, người thuộc nhóm Kỹ thuật ưa thích các hoạt động đòi hỏi sự tương tác với đồ vật, công cụ, máy móc và động vật một cách rõ ràng, có trật tự hoặc hệ thống. Nhóm này thường không thích và tránh né các hoạt động giáo dục hoặc chữa trị. Những khuynh hướng hành vi này giúp nhóm Kỹ thuật có đủ các năng lực thủ công, cơ khí, nông nghiệp, điện và kỹ thuật, đồng thời thiếu hụt các năng lực xã hội và giáo dục. 
Khi phát triển theo hình mẫu của nhóm Kỹ thuật, một người thường thể hiện hành vi về các khía cạnh hoạt động, năng lực và sở thích như sau: 
1. Ưa thích các nghề nghiệp hoặc tình huống (ví dụ, thợ điện) mang tính Kỹ thuật nơi người đó có thể tham gia vào các hoạt động ưa thích và tránh các hoạt động mang tính Xã hội.
2. Sử dụng năng lực Kỹ thuật để giải quyết các vấn đề trong công việc và trong các hoàn cảnh khác.
3. Tự nhận xét bản thân là người có khả năng vận động thể lý và cơ khí, đồng thời thiếu khả năng tương quan với con người.
4. Xem trọng những thứ cụ thể hoặc các đặc tính cá nhân hữu hình, như tiền bạc, quyền lực và địa vị.
Từ những sở thích, năng lực, tự nhận thức và giá trị trên, nhóm Kỹ thuật thường có xu hướng tự nhiên sau:
Không thích tương quan xã hội, Tuân thủ, Thẳng thắn, Thành thật, Cứng đầu, Thực dụng, Có khiếu về tự nhiên, Bình dị, Kiên định, Thực tế, Khiêm tốn, Thiếu linh hoạt, Tiết kiệm, Thiếu nhạy cảm, Thiếu gắn kết.

Nhóm Nghiên cứu

Với yếu tố di truyền và trải nghiệm đặc thù, người thuộc nhóm Nghiên cứu ưa thích các hoạt động đòi hỏi sự khám phá các hiện tượng vật lý, sinh học và văn hóa theo phương pháp quan sát, tượng trưng, ​​có hệ thống và sáng tạo để hiểu và kiểm soát các hiện tượng đó. Nhóm này thường không thích các hoạt động mang tính thuyết phục, xã hội và nhất là lặp đi lặp lại. Những khuynh hướng hành vi này dẫn đến việc nhóm Nghiên cứu có năng lực khoa học và toán học, đồng thời lại thiếu hụt năng lực thuyết phục.
Khi phát triển theo hình mẫu của nhóm Nghiên cứu, một người thường thể hiện hành vi về các khía cạnh hoạt động, năng lực và sở thích như sau: 
1. Ưa thích các nghề nghiệp hoặc tình huống mang tính Nghiên cứu nơi người đó có thể tham gia vào các hoạt động ưa thích và tránh các hoạt động mang tính Quản lý.
2. Sử dụng năng lực Nghiên cứu để giải quyết các vấn đề trong công việc và trong các hoàn cảnh khác.
3. Tự nhận xét bản thân là học giả, trí thức, có khả năng toán học và khoa học, và thiếu khả năng lãnh đạo.
4. Coi trọng khoa học.
Từ những sở thích, năng lực, tự nhận thức và giá trị trên, nhóm Nghiên cứu có xu hướng tự nhiên sau:
Phân tích, Cẩn trọng, Phản biện, Phức tạp, Tò mò, Độc lập, Tài trí, Nội tâm, Bi quan, Chính xác, Lý trí, Riêng tư, E dè, Không thích xã giao, Ít thích sự chú ý, Ít được ưa thích.

Nhóm Nghệ thuật

Với yếu tố di truyền và trải nghiệm đặc thù, người thuộc nhóm Nghệ thuật ưa thích các hoạt động mơ hồ, tự do, thiếu tính hệ thống. Các hoạt động này đòi hỏi sự tương tác với các loại vật liệu hữu hình, ngôn ngữ, hoặc liên quan đến con người để tạo ra các hình thức hoặc sản phẩm nghệ thuật. Nhóm này có khuynh hướng không thích và tránh né các hoạt động rõ ràng, có hệ thống và theo yêu cầu. Những khuynh hướng hành vi trên giúp hình thành các năng lực nghệ thuật về ngôn ngữ, mỹ thuật, âm nhạc, kịch nghệ, văn chương, đồng thời thiếu hụt năng lực về nghiệp vụ hành chính hoặc hệ thống kinh doanh.
Khi phát triển theo hình mẫu của nhóm Nghệ thuật, một người thường thể hiện hành vi về các khía cạnh hoạt động, năng lực và sở thích như sau: 
1. Ưa thích các nghề nghiệp hoặc tình huống có màu sắc nghệ thuật cho phép người đó có thể tham gia vào các hoạt động ưa thích và tránh các hoạt động mang tính Nghiệp vụ.
2. Sử dụng năng lực Nghệ thuật để giải quyết các vấn đề trong công việc và trong các hoàn cảnh khác.
3. Tự nhận xét bản thân là người dễ biểu cảm, độc đáo, trực giác, không theo đám đông, nội tâm, độc lập, thiếu trật tự, có khả năng mỹ thuật và âm nhạc, có thể diễn xuất, viết văn và diễn thuyết.
4. Coi trọng phẩm chất thẩm mỹ.
Từ những sở thích, năng lực, nhận thức và giá trị trên, nhóm Nghệ thuật có xu hướng tự nhiên sau:
Phức tạp, Thiếu trật tự, Đa cảm, Dễ biểu cảm, Lý tưởng, Giàu trí tưởng tượng, Thiếu thực tế, Dễ bốc đồng, Độc lập, Nội tâm, Trực giác, Không theo đám đông, Độc đáo, Nhạy cảm, Cởi mở.

Nhóm Xã hội

Với yếu tố di truyền và trải nghiệm đặc thù, người thuộc nhóm Xã hội ưa thích các hoạt động đòi hỏi phải tương tác với người khác qua việc thông báo, huấn luyện, phát triển, chữa lành hoặc khai mở nhận thức. Nhóm này có khuynh hướng không thích và tránh né các hoạt động rõ ràng, có trật tự, có hệ thống liên quan đến vật liệu, công cụ hoặc máy móc. Những khuynh hướng hành vi này giúp nhóm Xã hội có khả năng làm tốt các việc liên quan đến con người như năng lực giáo dục và tương quan với người khác đồng thời thiếu hụt các năng lực thủ công và kỹ thuật.
Khi phát triển theo hình mẫu của nhóm Xã hội, một người thường thể hiện hành vi về các khía cạnh hoạt động, năng lực và sở thích như sau: 
1. Ưa thích các nghề nghiệp hoặc tình huống thuộc nhóm Xã hội nơi người đó có thể tham gia vào các hoạt động ưa thích và tránh các hoạt động mang tính Kỹ thuật.
2. Sử dụng năng lực Xã hội để giải quyết các vấn đề trong công việc và trong các hoàn cảnh khác.
3. Tự nhận xét bản thân là người thích giúp đỡ người khác, thấu hiểu người khác, có khả năng giảng dạy nhưng lại thiếu khả năng vận động thể chất và khoa học.
4. Coi trọng các vấn đề và hoạt động liên quan đến xã hội và đạo đức.
Từ những sở thích, năng lực, nhận thức và giá trị trên, nhóm Xã hội có xu hướng tự nhiên sau:
Cầu tiến, Hợp tác, Kiên nhẫn, Thân thiện, Hào phóng, Giúp đỡ, Lý tưởng, Đồng cảm, Tốt bụng, Có khả năng thuyết phục, Có trách nhiệm, Hòa đồng, Khéo léo, Hiểu biết, Ấm áp.

Nhóm Quản lý

Với yếu tố di truyền và trải nghiệm đặc thù, người thuộc nhóm Quản lý ưa thích các hoạt động đòi hỏi tương tác với người khác để đạt được các mục tiêu của tổ chức hoặc lợi ích kinh tế. Nhóm này có khuynh hướng không thích các hoạt động quan sát, tượng trưng và hệ thống. Những khuynh hướng hành vi này khiến cho nhóm Quản lý có năng lực lãnh đạo, giao tiếp với người khác và thuyết phục, nhưng thiếu hụt các năng lực tư duy khoa học.
Khi phát triển theo hình mẫu của nhóm Quản lý, một người thường thể hiện hành vi về các khía cạnh hoạt động, năng lực và sở thích như sau: 
1. Ưa thích các nghề nghiệp hoặc tình huống thuộc nhóm Quản lý nơi người đó có thể tham gia vào các hoạt động ưa thích và tránh các hoạt động mang tính Nghiên cứu.
2. Sử dụng năng lực Quản lý để giải quyết các vấn đề trong công việc và trong các hoàn cảnh khác.
3. Tự nhận xét bản thân là người xông xáo, được nhiều người biết đến, tự tin, hòa đồng, sở hữu khả năng lãnh đạo và hùng biện, nhưng thiếu khả năng khoa học.
4. Coi trọng các thành tựu chính trị và kinh tế.
Từ những sở thích, năng lực, nhận thức và giá trị trên, nhóm Quản lý có xu hướng tự nhiên sau:
Thích sở hữu, Mạo hiểm, Dễ chịu, Tham vọng, Độc đoán, Năng nổ, Thích thể hiện bản thân, Tìm kiếm hứng thú, Hướng ngoại, Cuốn hút, Lạc quan, Tự tin, Hòa đồng, Hay nói.

Nghiệp vụ

Với yếu tố di truyền và trải nghiệm đặc thù, người thuộc nhóm Nghiệp vụ ưa thích các hoạt động đòi hỏi phải xử lý dữ liệu rõ ràng, có trật tự, có hệ thống, ví dụ cụ thể là việc lưu giữ hồ sơ, lưu trữ tài liệu, sao chép tài liệu, sắp xếp dữ liệu, văn bản và dữ liệu số theo kế hoạch đã có, vận hành mô hình/quy trình kinh doanh hay xử lý dữ liệu để đạt được
các mục tiêu kinh tế hoặc mục tiêu của tổ chức. Nhóm này có khuynh hướng không thích các hoạt động mơ hồ, tự do, thăm dò hoặc thiếu hệ thống.
Khi phát triển theo hình mẫu của nhóm Nghiệp vụ, một người thường thể hiện hành vi về các khía cạnh hoạt động, năng lực và sở thích như sau: 
1. Ưa thích các nghề nghiệp hoặc tình huống thuộc nhóm Nghiệp vụ nơi người đó có thể tham gia vào các hoạt động ưa thích và tránh các hoạt động mang tính Nghệ thuật.
2. Sử dụng năng lực Nghiệp vụ để giải quyết các vấn đề trong công việc và trong các hoàn cảnh khác.
3. Tự nhận xét bản thân là người tuân thủ, có trật tự và có khả năng xử lý hiệu quả công việc văn thư và số liệu.
4. Coi trọng các thành tựu kinh doanh và kinh tế.
Từ những sở thích, năng lực, nhận thức và giá trị trên, nhóm Nghiệp vụ có xu hướng tự nhiên sau:
Cẩn thận, Tuân thủ, Chu đáo, Phòng thủ, Hiệu quả, Thiếu linh hoạt, Rụt rè, Ngăn nắp, Vâng lời, Trật tự, Kiên trì, Thực tế, Thận trọng, Tiết kiệm, Thiếu sáng tạo.

Kết luận của bạn

Từ những đặc điểm trên, mỗi một người có thể thấy bản thân nằm trong một hoặc một vài nhóm Holland nhất định. Và trong thực tế, một người có thể có đặc điểm của một, hai hoặc nhiều nhóm kể trên. Ví dụ: Nghệ thuật – Xã hội.
Với Lý thuyết Holland này, bạn sẽ liệt kê được rõ hơn sở thích và khả năng làm việc của bản thân, từ đó có thể chọn lựa được công việc phù hợp, hoặc đơn giản là tìm môi trường để có thể tập trung vào những điều bạn yêu thích. Nhờ vậy mà bạn có thể phát triển bản thân theo cách thức phù hợp, có nhiều sự thỏa mãn trong công việc hơn.
Bây giờ, sau khi đã hiểu lý thuyết hướng nghiệp Holland, đến lượt bạn, bạn thấy mình có thiên hướng của các nhóm Holland nào?
Nếu vẫn chưa chắc chắn, bạn cũng có thể thử kiểm tra bằng trắc nghiệm do Hướng nghiệp Sông An chuẩn hóa này nhé! Xem thêm Link.