Cuộc đời và sự nghiệp

Lưu Quang Vũ (1948 - 1988) được biết đến với vai trò là một nhà thơ, nhà văn và nhà soạn kịch tài ba, người bạn đời của nữ sĩ Xuân Quỳnh và cũng là một trong những cây bút tiên phong cho nền văn học đổi mới. Ở mỗi lĩnh vực, Lưu Quang Vũ luôn có cho mình một chỗ đứng riêng và trở thành một hiện tượng nghệ thuật vô cùng đặc sắc. Trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình, Lưu Quang Vũ đã miệt mài lao động, sáng tạo và để lại cho đời một di sản nghệ thuật quý báu, đồ sộ bao gồm thơ, truyện ngắn, kịch và phê bình văn học. Những năm tháng tuổi trẻ của Lưu Quang Vũ cũng gắn liền với bước đi của đất nước, dân tộc. Đó là những năm tháng chiến tranh khốn khó chống Mỹ và khi hòa bình lập lại, Lưu Quang Vũ trải qua hoàn cảnh đất nước thời hậu chiến, kinh tế bao cấp với chồng chất khó khăn, cơ cực. Đi qua bao thăng, Lưu Quang Vũ đã từ một con người đã sớm bộc lộ năng khiếu nghệ thuật đã dần được tôi rèn, trưởng thành hơn trong cuộc đời nghệ thuật khi tích lũy cho mình nhiều vốn sống.
Tác phẩm ông nổi bật lên từ những năm sau chiến tranh, đặc biệt là những năm 80 thế kỉ XX. Các truyện được Lưu Quang Vũ sáng tác có thể nhắc đến như Mùa hè đang đến (1983), Người kép đóng hổ (1884) mang đậm tính hiện thực và nhân văn. Với kịch, Lưu Quang Vũ được xem là một hiện tượng hiếm có của nền sân khấu kịch Việt Nam với hơn 50 kịch bản có giá trị nghệ thuật cao, đến nay vẫn ngự trị sân khấu cả nước và quốc tế như Hồn Trương Ba da hàng thịt, Tôi và chúng ta, Bệnh sĩ, Lời thề thứ chín,... với cảm hứng chủ đạo trong kịch là hướng về con người, cái đẹp, cái thiện và những giá trị nhân đạo, mang tính thời sự và khám phá cao. 
Tuy nhiên đặc biệt hơn cả với Lưu Quang Vũ là cuộc đời thơ, nơi tác giả ký thác và có nhiều điểm nhấn nổi bật. Từ 1965, vào khoảng thời gian nhà thơ nhập ngũ, hồn thơ của Lưu Quang Vũ dần nở rộ và có cho mình hơn hai mươi năm sáng tác thơ với các tập thơ tiêu biểu như Mây trắng của đời tôi (1989), Bầy ong trong đêm sâu (1993), Gửi tới các anh (1998), Di cảo (2008), Những bông hoa không chết (2008),... Thơ ca là lĩnh vực được Lưu Quang Vũ dấn thân vào sớm nhất, khi vừa 20 tuổi, tác giả đã cùng với nhà thơ Bằng Việt xuất bản tập thơ đầu tay, đó là tập Hương cây - Bếp lửa năm 1968.. Thơ Lưu Quang Vũ thể hiện được diện mạo, tâm hồn và cảm xúc của nhà thơ đối với tình yêu, đất nước và cuộc sống con người.
nguồn: internet
nguồn: internet

Và anh tồn tại - tình yêu đôi lứa gắn chặt với triết lí sống cao đẹp

Độc giả đọc và biết nhiều đến thơ tình của Lưu Quang Vũ. Tình yêu là một trong những nguồn cảm hứng lớn lao và cũng là đề tài mang đến sự thành công cho nhà thơ. Thơ viết về tình yêu có rất nhiều, nhưng tình yêu đôi lứa trong thơ của Lưu Quang Vũ vô cùng mãnh liệt, bay bổng và nhân văn. Đó là tình yêu lứa đôi gắn với những triết lí, bài học sống cao đẹp và tích cực. Một trong những bài thơ của Lưu Quang Vũ về tình yêu khiến tôi cảm thấy xuyên xao, cảm động là Và anh tồn tại.
Tình yêu mà Lưu Quang Vũ hướng đến trong Và anh tồn tại không chỉ đơn thuần là những tình yêu nam nữ thuần túy mà còn gắn với những giá trị sống tốt đẹp. Tác giả đã nâng tầm giá trị tình yêu đôi lứa thành những bài học, lẽ sống: tình yêu là niềm tin, chia sẻ, gắn bó và hy vọng. Bài thơ như sự giãi bày về một tình yêu lớn lao, ân tình dành cho “em”, người đã cho tác giả một điểm tựa, một lẽ sống. Tình yêu đích thực là sự gửi trao, chờ đợi và hỗ trợ chân thành: “Khi tàu đông anh lỡ chuyến đi dài/ Chỉ một người ở lại với anh thôi/ Lúc anh vắng người ấy thường thức đợi/ Khi anh khổ chỉ riêng người ấy tới/ Anh yên lòng bên lửa ấm yêu thương (Và anh tồn tại) Như vậy, có thể thấy rằng tình yêu là nơi bình yên nhất để Lưu Quang Vũ tìm đến khi đối mặt với những bôn ba vất vả cũng như những tổn thương trong cuộc sống. Khi “anh” “lỡ chuyến đi dài”, khi “anh vắng”, khi “anh khổ” đều có “em” bên cạnh, chờ trông. Sự hiện diện của chủ thể “em” mọi lúc trong từng khoảnh khắc cuộc đời “anh” như một minh chứng cho tình yêu bất diệt, một bến đỗ tinh thần. Những công việc quen thuộc như “Bàn tay luôn đỏ lên vì giặt giũ mỗi ngày”, “Người nhóm bếp mỗi chiều, người thức dậy lúc tinh sương” hiện lên trong câu thơ trở nên thật thiêng liêng, quý giá. Và trên hành trình yêu, Lưu Quang Vũ không chỉ nhận thức được giá trị của “em” mà còn nhận thức sâu sắc giá trị của tình yêu cá nhân: “Anh lạc bước, em đưa anh trở lại/ Khi cằn cỗi thấy tháng ngày mệt mỏi/ Em là sớm mai là tuổi trẻ của anh/ Khi những điều giả dối vây quanh/ Bàn tay ấy chở che và gìn giữ” (Và anh tồn tại) Chủ thể “em” đối với nhà thơ hàm chứa rất nhiều ẩn nghĩa, được nhà thơ liên tưởng đến những điều đẹp đẽ. Đó là “bông cúc nhỏ hoa vàng”, “là sớm mai là tuổi trẻ của anh”, “em của anh”,... “Em” là hiện thân của triết lý tình yêu: tình yêu đích thực đưa con người đi đúng hướng, là sức mạnh tuổi trẻ, là sự chở che, nâng niu và gìn giữ cho nhau.
Nhà thơ còn gắn liền tình yêu với lẽ sống đời mình, là suối nguồn dung dưỡng con người sống có ích hơn với đời: “Anh thành người có ích cũng nhờ em/ Anh biết sống vững vàng không sợ hãi/ Như những nhà vườn, như người dệt vải/ Ngày của đời thường thành ngày-ở-bên-em” (Và anh tồn tại) Những dòng thơ trong Và anh tồn tại giúp ta hiểu được tình yêu đúng nghĩa còn mang sức mạnh xoa dịu nỗi đau và tái sinh những tình cảm như đã ngủ. Nhờ có tình yêu mà nhà thơ tìm thấy niềm tin với cuộc đời. Tình yêu vừa là gia đình, tổ ấm, vừa biến những điều tưởng chừng xa vời hóa đời thường. Như vậy, tình yêu mà Lưu Quang Vũ gửi gắm trong bài thơ không đơn thuần chỉ là tình yêu mà đó còn là sự vượt ngưỡng, nâng tầm lên thành sự biết ơn, là sự tin tưởng và là lẽ sống. Điều này thể hiện rõ ở câu thơ: “Anh yêu em và anh tồn tại” (Và anh tồn tại)
“Anh yêu em và anh tồn tại”, hai mệnh đề tưởng chừng như chẳng liên quan đã kết nối lại trong câu thơ. Như vậy, tình yêu đồng nghĩa với sự sống, sự hiện diện có ích của con người trên đời và là sự hy vọng, gắn kết. Nhờ vậy anh trân trọng từng phút giây được hiện hữu hơn.“Giữa thế giới mong manh và biến đổi” ấy là tình yêu ở lại, giúp ta nhận ra đã từng có những khoảnh khắc ta yêu và được yêu.
Trong Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi, tình yêu của Lưu Quang Vũ dành cho “em” cũng hòa quyện trong tình yêu dành cho quê hương, đất nước con người khi “em” là hiện thân cho vẻ đẹp của đất nước, đồng thời cũng là những chông gai, khó khăn mà đất nước đi qua: “Khi em về tóc ngợp gió đê cao/ Mây cuồn cuộn, cỏ rập rờn nổi sóng/ Trong gió chuyển, đất trời dường náo động/ Nằm bên em, nghe gió suốt đêm dài.
Như vậy, nét đặc sắc trong các hình ảnh tình yêu gắn với triết lí sống cao đẹp như là cách tác giả truyền tải đi thông điệp về tình yêu đến độc giả.