Ngưòi Quảng Đông là nhóm ngưòi phức tạp nhất Trung Quốc, thân thể nói chung nhỏ, lùn, trán rô, mắt nhỏ mà sâu, mũi hơi rộng, môi dày. Có 3 ngôn ngữ chính: tiếng phổ thông, tiếng Triều Châu, tiếng Khách Gia. Trong lịch sử Quảng Đông là một vùng pha tạp của Bách Việt, vùng ven biển còn có ngưòi Đông Nam Á đến ở, gọi là ngưòi Quảng Phủ, gồn cả ngưòi Hồng Công, Ma Cao; ngưòi vùng Triều, Sán cũng có ngôn ngữ và phong tục độc đáo. Hai loại ngưòi này thuộc ngưòi ở đất Quảng Đông. Xem xét từ mặt sinh vật thấy nguồn gốc dân tộc không giống ngưòi phưong bắc. Sau “ngũ Hồ loạn Hoa” ngưòi Hán vùng trung nguyên(chủ yếu là ở Hà Nam) di cư một lưọng lớn về phía nam, tập trung sinh sống tại vùng Mai Châu, Hà Nguyên, và một phần vùng Kiết Dưong, Sán Vỹ, nói tiếng Khách Gia. Bộ phận ngưòi Hán này phải được coi là ngưòi Hán “thuần chủng” về huyết thống nhất(ngưòi phưong bắc luôn luôn ở vào vị thế dân tộc hoà nhập). có khoảng hơn 10 triệu nguời. Tôn Trung Sơn, Lý Gia Thành cũng đều là ngưòi Khách Gia. Quảng Đông là tỉnh có ngưòi Hoa ra nuớc ngoài sớm nhất để kiếm sống, có hơn 20 triệu Hoa Kiều, ngưòi Triều Sán và Ôn Châu nổi tiếng ở nuớc ngoài vì kinh doanh, buôn bán Quảng Đông là nơi bắt nguồn cách mạng dân chủ cận đại, là giao điểm của văn minh đông, tây là lô cốt đầu cầu và ngưòi lính đứng đầu của cải cách mở cửa. Ngưòi Quảng Đông là nhóm người hải dương, tràn đấy khí huyết và sức sống, đầu óc linh hoạt, giầu tính mạo hiểm, tính sáng tạo, dám đi trước thiên hạ. Ngưòi Quảng Đông không thích thú lý luận rỗng tuếch, và cũng chẳng để ý bàn bạc triết lý, con ngưòi, và cũng không hứng thú với chính trị.. Người người đều vào ra bận rộn vì tiền, suốt ngày hết đông lại tây. Ngưòi phương bắc suy nghĩ trước, hành động sau, còn người Quảng Đông lại hành động truớc rồi mới suy nghĩ sau, coi trọng hiệu quả và giá trị, không coi trọng hình thức và thể hiện bề ngoài. Hiện nay Quảng Đông đã trở thành vùng kinh tế phát triển nhất Trung Quốc,. Phụ nữ Quảng Đông rất hiền hậu, giỏi việc bếp núc. Thế nhưng hình tưọng nhân văn của Quảng Đông lại là hộ phất điển hình. Mấy đánh giá thưòng thấy là:
-Lạnh nhạt, bài ngoại, tự đại. Quảng Châu là thế giói phồn hoa, là thành phố lãnh đạm nhất thế giới, nếu như chỉ hỏi đường với một ngưòi Quảng Đông mà lại nói tiếng tỉnh ngoài thì rất ít khi được trả lời. Láng giềng với nhau mà cũng cửa đóng then cài, chẳng ai để ý tới ai, thêm một việc chẳng bằng bớt đi một việc. Ở Quảng Châu muốn tìm một ngưòi sẵn sàng làm việc nghĩa còn khó hơn lên trời. Ngưòi Quảng Đông bài ngoại từ lâu, đã từng gọi những ngưòi ngoài Quảng Đông là “thằng vơ vét” gọi phụ nữ là “em gái xứ bắc”, gọi ngưòi phưong tây là “quỉ”.. thậm chí ngay ngưòi Triều Sán ngay trong tỉnh cũng bị gọi là “thằng lạnh nhạt”. Nhiều ngưòi Quảng đông tri thức địa lý nghèo nàn, thưòng tự cho mình là trung tâm, ngoài Quảng Đông ra đều là phưong bắc cả.
-Ngưòi Quảng Đông không có văn hoá. Có văn hoá trà, văn hoá rượu, văn hoá ăn thịt rắn, văn hoá uống canh, nhưng không tiếp nhận quốc tuý, chỉ sung bái văn hoá Hồng Công, Đài Loan. Ngưòi Quảng Đông về cơ bản không xem TV trung ương, giữa kinh tế và văn hoá không bao giờ có sự cùng tiến, hầu như là sa mạc văn hoá. 500 doanh nghiệp lớn nhất nước, 500 doanh nghiệp lớn nhất thế giới chẳng có mấy đơn vị chịu đặt tổng bộ tại Quảng Đông
-Người Quảng Đông không có tố chất. Mặc dù chưa ăn xong là họ đã sách túi chạy đi, rất vụ thực. Chẳng mềm tay trước mọi thứ của ngưòi khác. Tiêu thụ đũa ăn, hộp cơm dùng một lần nhất toàn quốc. Bất kể là nam hay nữ, ban ngày đều mặc quần áo ngủ đi dạo phố, vào siêu thị như chỗ không ngưòi.
-Ngưòi Quảng Đông không quan tâm việc lớn quốc gia, không quan tâm tới sự phát triển của thế giới. Vinh nhục của đất nước chẳng hề bận lòng chỉ theo lối sống nhỏ bé của mình, chỉ quan tâm tới giá nhà ở và cổ phiếu của mình.
-Nghiện đánh bạc thành tính, nổi tiếng thế giới.Loại sổ xố nào cũng chơi, hễ phát hành là bán hết.
-Ngưòi Quảng Đông rát mê tín, thích đi lễ tại đền chùa, mỗi năm mấy lần. Bàn thớ trong nhà ngày lễ ngày tết không bao giờ để tắt khói hưong. Bản số ô tô, số nhà, số điện thoại, ngày kết hôn, ngày mở cửa hàng đều chọn số 6 và số 8. Còn đến mức mổ bụng mẹ để sinh con đứng ngày đã chọn. Ngày quốc sỉ 19/8 hàng năm(ngày Nhật xâm lược 3 tỉnh đông bắc) lại là ngày lành tháng tốt của ngườì Quảng Đông.( vì đối với họ số 9 và số 8 đều là số đẹp) Có ngưòi xây mộ cha ông còn hào hoa hơn nhà ở của mình( không hoàn toàn là vì hiếu kính)
-Đàn ông Quảng Đông rất vô sỉ, đàn bà thì chẳng ra làm sao. Đi trên phố thi thoảng gặp mỹ nữ thì đều là ngưòi Tứ Xuyên, Hồ Nam. Học sinh yêu sớm nổi tiếng cả nước, tiểu học đã bắt đầu biết tay nắm tay nhau, lên trung học là dám mạnh dạn hôn nhau. Liệu có ngưòi đàn ông Quảng Đông nào không chơi gái không? Liệu có anh Quảng Đông sẵn tiền nào không bao “vợ hai” không? Phụ nữ Quảng Đông nếu không có đàn ông là không tự tin vào cuộc sống, không biết dựa vào luật pháp để bảo vệ mình.
-Ngườì Quảng Đông cái gì cũng dám ăn. Rắn, chuột, , mèo, ấu trùng, xuyên sơn giáp… cho đến cả thai nhi cũng như tất cả các loại động vật dã sinh được bảo hộ đều ăn tuốt. Năm 1949 giải phóng quân Trung Quốc đánh xuống miền nam, tham dự chiến dịch Lưỡng Quảng đều là ngưòi Đông Bắc khi nghe kể về những thói ăn kỳ lại ở đây, có nhiều binh lính đã không muốn ra trận nữa.
-Ngưòi Quảng Đông rất kiêu ngạo trong buôn bán. Làm ăn, qua lại với ngưòi Quảng Đông sẽ thấy họ, một là tinh nhưng không tín, hai là ngạo mạn.Thưòng nhìn ngưòi khác bằng con mắt: ngưòi có ta cũng có, ngưòi không có ta có, muốn là làm không muốn là bỏ đi. Nhưng khi cần anh thì lại giả tạo đến mức chịu không nổi.
-Sách giả, thuốc lá giả, đĩa giả, tiền giả.. .do ngưòi Quảng Đông chế tạo lan tràn khắp nước. Cho thêm nước vào bình gaz, cho thêm thuốc nhuộm mầu độc hại vào thực phẩm, biến cồn công nghiệp thành rượu nổi tiếng, lại còn thuốc giả, máy móc nhái thương hiệu nuớc ngoài. Quảng Châu, Đông Quán, Thâm Quyến là những thành phố không có cảm giác an toàn nhất, Thành phố Đông Quán vừa bẩn vừa loạn, cũng có sông đào nhưng mùi thối thấu trời. Đáng sợ nhất là ban ngày mà trộm cướp vần hoành hành. Quảng Đông là tỉnh lớn nhát về “vợ hai”, tại Thâm Quyến, Đông Quán có rất nhiều “thôn vợ hai” rất tráng lệ
5. Người Quảng TâyỞ Quảng Tây chủ yếu có hai loại tiếng địa phưong là tiếng Quế, Liễu(tiếng Quế Lâm và Liễu Châu rất gần tiếng Hồ Nam) và tiếng Nam Ninh(loại biến chủng của tiếng phổ thông Quảng Đông, rất khó nghe). Khí hậu Quảng Tây viêm nhiệt. Ngưòi Quảng Tây bị coi là có tính cách nhu nhược nhấtửTung Quốc, thưòng đựoc coi là đại biểu cho sự mềm yếu có thể coi thưòng, từ thời xưa đã thiếu vắng dũng sĩ cũng như những bậc kiêu hùng, nếu tính cách người Trung Quốc đều như ngưòi Quảng Tây, thì đất lớn Trung Hoa đã bị các cưòng quốc chia cắt hết từ chiến trnh thuốc phiện. Người Quảng Tây phổ biến gầy ốm, nước da xấu , tỷ lệ nam thanh nữ tú thấp nhất trong cả nước.
Ô tô công cộng, thậm chí cả xe ngựa ở Nam Ninh cũng rất lùn nhỏ. Đường phố Nam Ninh nhỏ hẹp, siêu thị thô sơ(siêu thị lớn là từ ngoại tỉnh đến), xe máy đứng đầu cả nuớc, chôc này cũng thấy cửa hàng bán cây thuốc Ngưòi Nam Ninh ăn không khỏe và rát tiết kiệm
Quan chức hủ bại, bất học vô thuật(bỏ tiền mua quan). Kinh tế tuy lạc hậu, nhưng quan niệm về tính rất cởi mở, đã có câu “đại học Quảng Tây không còn gái trinh”. Có 1000 NDT(khoảng 3 triệu VNĐ) là có thể bao được nữ sinh viên Học viện Nghệ thuật Quảng Tây . Quảng Tây có rất nhiều nơi du ngoạn đẹp, nhưng không biết kinh doanh. Ngành nhà đất, may mặc bị ngưòi Ôn Châu(tỉnh Phúc Kiến) nắm hết. Lưỡng Quảng(Quảng Đông, Quảng Tây) mặc dù cùng nguồn cội, nhưng lại “tính tương cận, tập tương viễn”. Tính cách chung của cả hai tỉnh này là cái gì cũng dám ăn.
Đàn ông Quảng Tây tiểu khí, tự tư, nhát gan, nhưng một khi đến Quảng Đông thì đã có biến đổi lớn về tính cách. “Đảng ô tô” chủ yếu là ngưòi Quảng Tây. Người nông thôn Quảng Tây tương đối thiện lưong(kể cả ngưòi Choang ở vùng xa xôi hẻo lánh mà về cơ bản đã bị tộc Hán đồng hoá) thành thực, trung hậu, không có tính công kích, chỉ cần ngưòi ta thương hại là được. Nghiện đánh bạc, chơi các loại sổ xố khiến nhiều ngưòi tan cửa nát nhà, rất nhiều ngưòi chưa từng ngồi xe lửa.
6. Người Hải Nam
Là nơi tổ tiên ngưòi Lê dời đến sớm nhất, là một quận thời Tây Hán, đến Ngũ đại là nơi di dân trung nguyên đến nhiều nhất, trong đó thời Tống,Minh Thanh qui mô di dân lớn nhất mà chủ yếu là từ Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây. Tỉnh Hải Nam là tỉnh thành lập sau cùng của Trung Quốc, trứoc đó là vùng xa và lạc hậu của tỉnh Quảng Đông, tiéng nói chủ yếu là tiếng phỏ thông Quảng Đông mang đặc sắc Hải Nam
Dân Hải Nam gốc rất bảo thủ, tầm nhìn hẹp, tự cho mình là giỏi, nhưng ngay khi nói cũng để lộ sự yếu đuối. Nước da đen là một đặc trưng điển hình, thân ngưòi lùn nhỏ, rất ít trai tài gái sắc.
Ngưòi Hải Nam chịu được nghèo nhưng không chịu được khổ. Do có nhiều di dân, thưong nhân Hải Nam đã lộ rõ đặc sắc ưa thích đầu cơ, nhưng tư duy với tầm nhìn ngắn hẹp.
Hải Nam cũng là quê hưong Hoa Kiều, nhưng nhiều ngưòi trong bọn họ vẫn thuộc loại nghèo không thành đạt như ngưòi Triều Sán và ngưòi Khách Gia ở nước ngoài. Đây là nơi buôn lậu khá phổ biến. Kinh tế Hải Nam còn rất yếu. Có câu: đến Bắc kinh mới thấy quan mình nhỏ, đến Đông bắc mới thấy gan mình bé, đến Quảng Đông mới thấy tiền mình ít, đến Hải Nam mới thấy sức khoẻ mình rất khônng tốt!
__________________________________________________
Đọc những dòng màu đó thì thấy người dân Lưỡng Quảng có vẻ không được dân ở nơi khác thích , và người Lưỡng Quảng không quan tâm đến vận mệnh Quốc gia của Trung Quốc chỉ lo làm ăn buôn bán , không xem TV Trung Ương , ngoài ra coi những người không phải là người Lưỡng Quảng ở TQ là người Phương Bắc
Người Lưỡng Quảng thời Triệu Đà có cùng đất nước với dân Việt bây giờ , qua hàng ngàn năm bị chia cắt họ vẫn không thích người Phương Bắc Trung Quốc , vì sao?