Lược sử Kiến trúc Phật Giáo P1: Hình dung bối cảnh lịch sử & kiến trúc thời kỳ Đức Phật
Bối cảnh xã hội và cơ sở kiến trúc thời kỳ Phật hiện tiền.
Qua quãng thời kì nghiên cứu lịch sử sôi nổi, giữa một bên là các nhà sử gia và khảo cổ học phương Tây, một bên là các vị giảng sư Phật học phương Đông, hai bên tuy có những cách nghiên cứu khác biệt nhưng đều đưa đến thống nhất khá tương đồng về lai lịch Đức Phật, một con người vĩ đại đã tồn tại trong lịch sử. Đức Phật Thích Ca, Siddhārtha Gautama, là một vị tu sĩ nổi tiếng đương thời, người đã giảng truyền những giáo pháp của mình trong hơn 40 năm khắp các miền Bắc Ấn.
Bằng việc so sánh các tư liệu kinh sách, bia ký, sử ký, người ta xác định được Đức Phật sinh ra vào khoảng năm 568 đến 544 TCN, tại một thành quốc cổ đại có tên Kapilavastu (thành Ca-tì-la-vệ), trong gia đình vương tộc của nước Sakya (Thích-ca). Xét trong bối cảnh lịch sử bấy giờ, Ấn Độ đang ở giai đoạn bước vào thời đô thị hoá lần thứ 2 (600-200 TCN), thời kỳ Mahajanapadas, có thể tạm gọi là thời kỳ mười sáu vương quốc. Tạm gọi như vậy vì trên thực tế số lượng vương quốc thay đổi liên tục và biên giới giữa các nước này tương đối linh động. Lúc này thịnh vượng nhất là nước Magadha (Ma-Kiệt-Đà) mới nổi lên phía Đông Bắc Ấn, dọc vùng đồng bằng sông Hằng cho đến vùng duyên hải ven biển là những tiểu quốc khác cũng rất thịnh vượng đông đúc như Kuru, Panchala, Kosala, Kashi, Vatsa…Nước Sakya của Đức Phật nằm phía Bắc vùng đồng bằng sông Hằng và gần chân núi Himalaya, trung tâm là thành quốc Kapilavastu.

Các học giả nhận định Kapilavastu là một trong những thành quốc có thể chế cộng hoà và là chư hầu của Kosala, tiếc là thành quốc này chỉ tồn tại đến hết thời của Đức Phật do sự tận diệt của Vidudabha (vua Tỳ-Lưu-Ly) vua nước Kosala với mục đích trả tư thù của mình với dòng họ Sakya. Vị trí của Kapilavastu được nghiên cứu tìm tòi rất nhiều. Ngày nay, có tới 2 địa điểm là Piprahwa (Ấn Độ) và Tilaurakot (Nepal) đang tranh chấp định danh Kapilavastu. 2 địa điểm cách nhau khoảng 16km, đều có những căn cứ rất thuyết phục về ghi chép văn tự, dấu tích khảo cổ. Ngài Pháp Hiển trong hành trình đi khắp các thánh tích Ấn Độ, ghi lại việc đã ghé qua Kapilavastu mà vị trí nay đó là Piprahwa. Khảo cổ tại Piprahwa phát hiện một bảo tháp lớn, nằm bên trên một tháp cổ có niên đại thứ 5 TCN, dữ liệu bên trong cho biết là bảo tháp tôn thờ xá lợi của tộc Sakya. Người ta còn đào được di chỉ tinh xá có tấm bia ghi các nội dung “ngôi tinh xá ở Kapilavatthu” hoặc “Ðại Kapilavatthu”. Còn vị trí Kapilavastu mà nay là Tilaurakot (Nepal) thì lại được ghi chép trong chuyến đi của ngài Huyền Trang. Khảo cổ Tilaurakot phát hiện được những căn cứ thuyết phục hơn, đây là một khu vực có dấu tích định cư từ thế kỷ thứ 9 đến thế kỉ thứ 3 TCN, xung quanh khu vực có dấu tích của tường thành được thi công bằng gạch bùn, vây bên ngoài bằng hào sâu. Bên trong cũng có di chỉ một nền tịnh xá, thậm chí còn có 2 ngôi tháp thờ cha mẹ Đức Phật. Vị trí Tilaurakot nằm bên bờ một dòng sông cổ, điều này cũng trùng khớp với mô tả Kapilavastu trong kinh sách Phật giáo.
Ấn Độ thời đô thị hoá lần thứ 2 (600-200 TCN), như đã nói ở trên với sự phát triển của các tiểu quốc dọc đồng bằng sông Hằng, được ghi chép với nhiều thành phố lớn. Kinh sách Phật giáo hay nhắc đến Sravasti (thành Xá-Vệ) kinh đô Kosala, Rajagaha (thành Vương-xá) kinh đô Magadha, Vesali (thành Tì-xá-ly) kinh đô Vajji (Licchavi), Benares (thành Ba-na-lại) kinh đô Kashi, Kosambi (thành Câu-thâm) kinh đô Vatsa.. Đây là các thành phố lớn xuất hiện rất nhiều trong lịch sử và hầu như đều còn lại các dấu tích khảo cổ. Ở Kosambi có di chỉ nền móng cung điện cổ có niên đại từ thế kỷ 8 TCN, được xây bằng đá và gạch với nhiều phòng, tháp canh và các cây cầu dài. Điểm đáng chú ý ở di chỉ này là kiến trúc cầu có mái vòm gạch và cách thi công xây dựng bằng vật liệu đá mài. Ở Rajagaha, di chỉ tường thành cổ có niên đại thứ 6 TCN được xây bằng gạch có kích thước khá lớn, khẳng định việc các phù điêu Sanchi (tk 1 TCN) mô tả lại kiến trúc thành phố với tường thành bao quanh có các lầu gác là khá chính xác.
Tóm tắt : thời kỳ Đức Phật tại Ấn Độ đã có những kiến trúc định cư xây bằng gạch, đá, gỗ và đất, có những thành phố ven sông với tường thành bao bọc có tháp canh, khu vực đô thị với các khu nhà nằm gần nhau. Khảo cổ cũng cho thấy yếu tố như phù điêu và điêu khắc trang trí kiến trúc chưa xuất hiện nhiều như thời Mauryan về sau.
Ảnh:
Bản đồ Ấn Độ thế kỉ 6 -5 TCN, mô tả vị trí các tiểu quốc và các thành phố tiêu biểu. Tư liệu tham khảo tổng hợp các từ nhiều bản đồ lịch sử Ấn Độ.
1. Cổng phía đông của di tích thành cổ Tilaurakot, được cho là nơi Thái tử Siddhartha chia tay người hầu Channa và con ngựa Kanthaka để bắt đầu cuộc sống tu sĩ khổ hạnh. Nguồn ảnh: Michael Turtle, trang visitworldheritage.
2. Di chỉ khảo cổ cung điện Kausambi có niên đại sớm nhất từ tk 8 TCN. Nguồn ảnh: ‘’Indian archaeology: a review. 1961–62”
3. Tường thành cổ Rajagaha có niên đại từ tk 6 TCN. Nguồn ảnh: Anandajoti Bhikkhu, trang photodharma.
4. Phù điêu mô tả kiến trúc thành Kushinagar (Câu-thi-na) cổng Nam Sanchi Stupa 1, niên đại tk 1TCN. Nguồn ảnh Asitjain, Wikipedia.
#BuddhistArchitectureHistory #HuyềnTinhTácĐấu #佛教建築略史 #vietnamarchitecture #httd

Lịch sử
/lich-su
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất