Tài liệu: Cannibals with Cannons: The Sino-Portuguese Clashes of 1521–1522 and the Early Chinese Adoption of Western Guns.
Tác giả: Tonio Andrade
Khái lược (TL; DR): Bài nghiên cứu phân tích những cuộc giao tranh giữa nhà Minh Trung Quốc và hạm đội Bồ Đào Nha trong những năm 1521–1522, từ đó đặt lại những vấn đề về giả thuyết ưu thế quân sự châu Âu thời cận đại.

Bối cảnh lịch sử và mục tiêu nghiên cứu

Nghiên cứu đặt trong bối cảnh các cuộc đụng độ vũ trang đầu tiên giữa Trung Quốc và phương Tây tại vùng cận hải Quảng Châu vào đầu thế kỷ XVI. Trong quá trình giao lưu hàng hải, người Bồ Đào Nha – đại diện của châu Âu – đã chạm trán với quân đội Minh triều tại đông nam Trung Hoa. Những trận đánh này thường được xem như bằng chứng cho sự vượt trội của pháo binh châu Âu. Nghiên cứu này nhằm tái kiểm ý nghĩa của cuộc xung đột này trong việc kiểm chứng lý thuyết military revolution, vốn cho rằng súng, chiến thuật, kỹ thuật xây dựng pháo đài, và tàu chiến đã mang lại lợi thế quân sự vượt trội cho châu Âu trong thời cận đại sơ kỳ (1500-1800).
Chiến thuyền quân Minh. Ảnh: Google.
Chiến thuyền quân Minh. Ảnh: Google.

Phương pháp nghiên cứu

Bài viết dựa trên việc phân tích Minh sử, Minh thực lục, ghi chép của các nhân vật Bồ Đào Nha đương thời, kết hợp với các tài liệu thứ cấp về kỹ thuật quân sự thế kỷ XVI. Tác giả so sánh dữ kiện từ hai phía để tái dựng tiến trình cuộc chiến cũng như sự chuyển giao-tiếp nhận công nghệ phương Tây ở Trung Quốc.

Luận điểm của tác giả

Giao tranh Trung–Bồ được phân thành hai giai đoạn: trận giao tranh trên biển năm 1521 và trận giao tranh năm 1522. Năm 1521, pháo binh Bồ Đào Nha – với các loại pháo Frankish (tiếng Trung là Phật lăng cơ佛朗機) – đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho quân Minh, thể hiện rõ rệt ưu thế về công nghệ và chiến thuật. Tuy nhiên, chỉ một năm sau, trong trận năm 1522, quân đội nhà Minh đã cải tiến pháo súng của tự quân, đánh chìm nhiều tàu chiến Bồ Đào Nha, buộc đối phương phải triệt thoái. Pháo binh nhà Minh khi đó đã trang bị các loại súng ống phương Tây mà họ nhanh chóng học hỏi và sao chép, cụ thể là các loại pháo Phật lăng cơ.
Andrade nhấn mạnh khả năng tiếp nhận công nghệ cực kỳ nhanh chóng của Trung Quốc. Nhà Minh không chỉ sao chép kỹ thuật mà còn cải tiến và triển khai trang bị pháo phương Tây dọc những tuyến phòng thủ như tại Vạn Lý Trường Thành từ những năm 1550, nhờ sự đề xuất của những quan lại như Uông Hoành 汪鋐. Tác giả bác bỏ quan điểm cho rằng phương Tây sở hữu ưu thế quân sự tuyệt đối thời kỳ này. Thay vào đó, ông lập luận rằng sự “cách mạng quân sự” (military revolution) là một hiện tượng mang tính toàn cầu, trong đó các cường quốc ngoài châu Âu, như Trung Quốc, không chỉ tiếp nhận mà còn nội địa hóa công nghệ súng ống nhanh chóng.

Diễn biến của hai cuộc giao tranh

1521

Bồ Đào Nha, trong quá trình mở rộng ảnh hưởng hàng hải tại Đông Nam Á, đã gửi một phái đoàn ngoại giao đến Quảng Châu vào năm 1517 nhằm thiết lập quan hệ với triều đình Minh. Tuy nhiên, những hành vi của người Bồ Đào Nha, bao gồm các cáo buộc về cản trở thương mại nước khác, xây dựng công sự, và tin đồn ăn thịt trẻ em (có thể xuất phát từ việc mua nô lệ), đã khiến quan lại địa phương phải cảnh giác và phòng bị. Năm 1521, khi một hạm đội Bồ Đào Nha tiến vào Quảng Châu để giao thương bất chấp lệnh trục xuất, xung đột đã nổ ra. Uông Hoành, một vị quan với kinh nghiệm phòng chống Oa khấu (vốn hoành hành duyên hải Trung Quốc lúc bấy giờ), được giao nhiệm vụ giải quyết xung đột này, dẫn đến giao tranh trực tiếp. Wang Hong, nhận thấy sức mạnh của pháo Bồ Đào Nha, đã chuyển sang chiến thuật phong tỏa và sử dụng thuyền lửa (fireboats) để đối phó. Cuộc giao tranh kết thúc khi Bồ Đào Nha tận dụng một cơn bão bất ngờ để thoát khỏi vòng vây, đánh dấu một chiến thắng tạm thời nhưng không quyết định.

Bối cảnh

Giống như nhiều cuộc xung đột giữa Trung Quốc và châu Âu trong các thế kỷ tiếp theo, cuộc xung đột đầu tiên giữa Trung Quốc và châu Âu đã diễn ra ở miền nam Trung Quốc, gần phố cảng Quảng Châu sầm uất. Một phái đoàn ngoại giao Bồ Đào Nha đã đến thành phố này vào năm 1517, với hy vọng gặp được hoàng đế và thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức. Việc này ắt không dễ dàng đối với một quốc gia mà chưa người Trung Quốc nào từng nghe tên; nhưng phái đoàn đã được chấp thuận để phỏng bái triều đình, và đến năm 1520 thì đã có mặt tại Nam Kinh, nơi triều đình tạm thời đóng đô.
Tuy vậy, mọi chuyện không hề suôn sẻ. Một số quan lại nhà Minh đã phàn nàn rằng các đại sứ hành xử không đúng mực, và một quan chức thậm chí còn đánh một thành viên của phái đoàn vì không quỳ gối trước mặt y; nhưng các đại sứ đã tìm cách kết bạn với những người có ảnh hưởng, có lẽ bằng cách hối lộ. Những người Bồ có thể đã chiếm được cảm tình của hoàng đế, người mà một số nguồn tin cho rằng còn thích thú khi học ngôn ngữ của các đại sứ (Minh sử, quyển 325, phần liên quan tới Phật lang cơ – tg.).
Không may thay, trong khi các đại sứ đang tạo dựng quan hệ, nhà Minh lại nhận được tin rằng đồng bào của họ ở Quảng Châu đang ăn thịt trẻ em. Dưới đây là một đoạn văn mô tả cách nấu chín trẻ em – theo cách của người Bồ Đào Nha:
“Họ dùng một cái vạc khổng lồ để đun nước cho sôi, sau đó đặt một cái lồng sắt với một đứa trẻ nhỏ vào trong, và đứa trẻ được hấp cho đến khi toát mồ hôi. Khi mồ hôi đã ra hết, [đứa trẻ] được lấy ra, và người ta dùng bàn chải sắt để loại bỏ phần thịt đắng. Lúc này đứa trẻ vẫn còn sống. Sau đó, họ giết nó, lấy bỏ dạ dày, ruột ra và hấp chín để đem ăn." (Nghiêm Tòng Giản 嚴從簡, Thù vực chu tư lục 殊域周咨錄 – tg.)
Các cáo buộc về việc người Bồ Đào Nha ăn thịt người xuất hiện trong nhiều nguồn tin nhà Minh, ngay cả trong Minh sử (1); nhưng những câu chuyện này có lẽ bắt nguồn từ việc người Bồ Đào Nha đã bắt trẻ em làm nô lệ và thị hầu.
Nhưng hơn thế, theo phía Minh triều, người Bồ còn có nhiều hành vi sai trái khác nữa. Các báo cáo buộc tội người Bồ Đào Nha chặn việc giao thương của những quốc gia khác ở Quảng Châu, giật mũ của các quan chức nhà Minh, bắn pháo khiến "âm thanh của đại bác của họ lan khắp vùng đất." Những thông tin đáng lo ngại hơn nữa là họ đang "xây nhà và dựng các chốt chặn, dựa vào súng pháo của họ để tự vệ." Khi hoàng đế đột ngột qua đời, người Bồ Đào Nha đã mất đi sự ưu ái trước đây, vì người bảo trợ chính của họ trong triều đình đã bị xử tử. Các đại sứ đã được gửi trở lại Quảng Châu. Khi họ về đến nơi, mọi chuyện đã trở nên khá tệ.

Diễn biến

Vào mùa xuân năm 1521, một hạm đội tàu Bồ Đào Nha đã đi thuyền lên sông Châu Giang để giao thương tại Quảng Châu. Các quan chức thành phố yêu cầu họ rời đi. Người Bồ Đào Nha từ chối. Khi một số người Bồ Đào Nha lên bờ để giao thương, họ đã bị bắt giữ ngay lập tức, và những người còn lại trên tàu kiên quyết từ chối rời đi cho đến khi bạn bè thân thích của họ được thả.
Đáp lại, một hạm đội Trung Quốc đã được tập hợp. Chỉ huy hạm đội là Uông Hoằng (汪鋐), người mà đã làm nên sự nghiệp của mình nhờ chiến thắng trước người Bồ. Sinh năm 1466, Uông Hoằng nhận bằng Tiến sĩ năm 1502. Bắt đầu từ năm 1514, ông tham gia vào công tác phòng thủ hàng hải Quảng Đông, với tư cách là Án sát sứ 按察使 và Hải đạo phó sứ 海道副使. Công việc chính của ông là phòng bị khu vực này khỏi cướp biển, điều mà ông đã đạt được với một số chiến công tiêu biểu.
Chúng ta không có nhiều chi tiết rõ ràng về cuộc giao tranh đầu tiên. Có vẻ như Uông Hoằng ban đầu tấn công theo kiểu truyền thống, từ tàu này sang tàu kia. Theo các nguồn tin của Bồ Đào Nha,
Chúa đã định liệu để đối phó với bọn họ [người Trung Quốc] theo phương pháp như vậy, khiến họ, sau cuộc chạm trán này, đã phải rút lui với tổn thất nặng nề bởi hỏa pháo của chúng ta, với nhiều người phe họ bị giết chết.
Các nguồn tin Trung Quốc cũng xác nhận điều này. Theo một ghi chép trong Quảng Đông thông chí 廣東通志thời Minh, người Bồ Đào Nha "đã bắn pháo liên tục và đánh bại quân đội của chúng ta." Uông Hoằng thấy rằng không thể đánh bại người Bồ trong một trận đấu súng thông thường hoặc bằng cách tiếp cận, bởi vì mỗi lần ông cố làm thế, người Bồ lại khai hỏa để đối ứng. Theo một số nguồn Trung Quốc, ông thậm chí còn cố gắng tuyển dụng thợ lặn để làm thủng thân tàu địch (2). Các nguồn tin của Bồ Đào Nha không đề cập gì đến kế hoạch này; vậy có lẽ phương thức đó đã không hiệu quả.
Có vẻ như Uông Hoằng sau đó đã thay đổi chiến thuật và cố gắng phong tỏa các tàu Bồ Đào Nha, nhằm ngăn chúng rời đi hoặc đổ bộ nơi khác để thu thập thêm nhu yếu phẩm. Theo như sử ký của Bồ Đào Nha, người Trung Quốc, sau khi thất bại trong cuộc tiến công, "chỉ cố gắng bao vây các tàu của chúng ta, nhưng bởi nơi đó quá hẹp nên năm tàu của chúng ta có nhiều lợi thế hơn hẳn so với tàu thuyền phe họ, chủ yếu là do pháo binh tốt hơn của chúng ta." Tất cả những điều này ủng hộ lập luận về lợi thế quân sự, và quả thực, giống như nhiều người Trung Quốc thời bấy giờ, Uông Hoằng cũng thừa nhận sự ưu thắng của pháo binh Bồ Đào Nha. Ông viết sau này: " (3)
"Tôi dám nói rằng, sự hung hãn của người Bồ Đào Nha phụ thuộc vào những khẩu súng này... Kể từ thời cổ đại, không có vũ khí nào vượt qua được những vũ khí mạnh mẽ và bạo lực này.
Tuy nhiên, bằng cách bao vây người Bồ Đào Nha, Uông Hoằng đã chiếm được ưu thế. Người Bồ không thể bổ sung nhu yếu phẩm và phải cam chịu cái đói và bệnh tật. Uông Hoằng có thể đã buộc họ đầu hàng nếu quân phong tỏa của ông không mắc sai lầm: vì quá tập trung vào việc giữ chân kẻ địch bên trong, họ đã không lường được kẻ địch bên ngoài. Một số tàu Bồ Đào Nha đã vượt qua vòng vây và trở lại với quân tiếp viện. Chiếc mạnh nhất do Duarte Coelho quả cảm, một người đàn ông "đậm chất Công giáo" chỉ huy. Các thuyền trưởng của hạm đội Bồ Đào Nha, giờ đã được cường hóa, quyết định phá vỡ vòng vây.
Họ quyết định tấn công ngay trước bình minh ngày 8 tháng 9 năm 1521, nhưng Uông Hoằng đã chuẩn bị để ứng phó. Theo một nguồn Trung Quốc, ông đã vạch ra một kế hoạch chu đáo:
"Tất cả đều đã được dự toán kỹ càng. Các tàu của người nước ngoài đều cực lớn và khá khó để điều động; và khi muốn hành động, chúng phải dựa vào gió và buồm. Vào thời điểm này, gió nam thổi rất mạnh. Tướng quân của chúng ta đã tập hợp một số thuyền cướp biển tồi tàn, chất đầy chúng với mọi loại củi khô và vật liệu dễ cháy, và đổ đầy mỡ và mỡ vào chúng." (4)
Nhân được gió thuận, các thuyền lửa đã phát huy tác dụng. Các nguồn sử phe Bồ Đào Nha ghi rằng "trận đánh này chẳng khác gì địa ngục, với lửa khói mù mịt tứ phía, bởi vì phía chúng ta không hề muốn va chạm trực diện; họ chỉ mong tìm được một con đường thông thoáng cho hành trình của mình [caminho despejado pera sua viagem], thế nhưng họ cũng không dám tiến lên, vì đã bị thiêu đốt dữ dội trong đợt tấn công ấy."
Ở đây, các nguồn tin Trung Quốc và Bồ Đào Nha có sự khác biệt. Nguồn Trung Quốc được trích dẫn ở trên ghi tiếp rằng Uông Hoằng "đã ra lệnh cho nhiều [binh lính] lên tàu, theo tiếng trống và tiếng hò reo, và đó là một chiến thắng hiển hách, mà không có ai còn sống sót.” Các nguồn tin của Bồ Đào Nha, tuy nhiên, lại tuyên bố một kết quả khác. Ngày diễn ra trận chiến, ngày 8 tháng 9, là ngày lễ sinh nhật của Đức Trinh Nữ Maria. Duarte Coelho, vốn sùng đạo, đã lệnh cho mọi người cầu nguyện. Biên niên sử nổi tiếng nhất của Bồ Đào Nha, của João de Barros, mô tả những gì xảy ra tiếp theo:
"Đức Trinh Nữ Maria, người sẽ giúp đỡ những kẻ nguyện tên Người trong những thời khắc khốn nạn như nay, đã đáp lời họ bằng cách khiển phái một cơn bão, mà đối với chúng ta là cơn gió xuôi chiều, nhưng lại khiến một số thuyền địch bị lật ngửa và tiêu vong."
Người Bồ Đào Nha đã cố gắng trốn thoát về Malacca, nơi họ sau này đã thành lập một "ngôi nhà trên đồi" để tôn vinh Người.
Các nguồn tin Trung Quốc chi tiết về cuộc tấn công bằng lửa và tuyên bố không có người sống sót không phải là nguồn tin trực tiếp. Một trong số đó, ví dụ, được khắc trên một ngôi đền được dựng lên để vinh danh Uông Hoằng. Giống như các nguồn tin liên quan, nó dường như đã gộp trận chiến năm 1521, trong đó Coelho trốn thoát sau một cơn bão kỳ diệu, với trận chiến năm 1522, vốn có kết quả tệ hơn nhiều đối với người Bồ Đào Nha.

1522

Cuộc xung đột Trung-Bồ năm 1522 diễn ra tại khu vực cửa sông Châu Giang gần Quảng Châu. Trong bối cảnh triều Minh tăng cường chính sách hải cấm 海禁để kiểm soát thương mại và phòng nạn cướp biển, người Bồ Đào Nha, dưới sự chỉ huy của Martim Afonso de Mello, tìm cách khôi phục quan hệ thương mại sau thất bại trước đó. Hạm đội Bồ Đào Nha tiến vào Quảng Châu với ý định hòa giải, nhưng lại phải đối mặt với lực lượng hùng hậu do Kha Vinh 柯榮và Vương Ứng Ân 王應恩lãnh đạo, với hơn 300 tàu, trong đó 80 tàu lớn (junks) được trang bị hỏa pháo loại nhỏ (small artillery), thể hiện sự cải tiến đáng kể về hỏa lực của quân Minh. Ban đầu, quân Minh chỉ bắn cảnh cáo nhằm phô bày sức mạnh; nhưng khi người Bồ cố gắng cập bờ để lấy nước uống, họ bị pháo kích dữ dội, buộc phải rút lui và bỏ lại thùng nước. Trong trận đánh quyết định, hỏa lực Trung Quốc gây thiệt hại nghiêm trọng cho phe Bồ Đào Nha, tàu của Diogo de Mello bị phá hủy do nổ bột thuốc, Pedro Homen cùng nhiều thủy thủ thiệt mạng sau khi bị Phan Đinh Cẩu 潘丁苟dẫn quân trực chiến. Phe Bồ Đào Nha phải cắt dây neo, bỏ chạy ra vùng nước sâu và đốt một tàu để tránh bị bắt. Cuộc chiến này khẳng định chiến thắng của quân Minh nhờ số lượng vượt trội và hỏa lực cải tiến, đồng thời minh chứng sự thích nghi nhanh chóng của triều đình Trung Quốc với công nghệ pháo Frankish, đánh dấu bước tiến quan trọng trong năng lực quân sự và sự bản địa hóa công nghệ phương Tây.

Diễn biến

Năm 1522, một hạm đội Bồ Đào Nha mới cập bến duyên hải Trung Quốc. Dẫn đầu hạm đội là Đô đốc Martim Affonso de Mello, người có nhiệm vụ tái lập quan hệ với triều Minh. Ông lệnh cho hạm đội đi dọc sông Châu Giang về phía Quảng Châu, nhưng sớm thấy đường đi của mình bị chặn bởi một lực lượng hùng hậu. Trong khi hạm đội Minh triều năm 1521 được tập hợp chóng vội, thì hạm đội lần này lại được trang bị chu toàn. De Mello đã mô tả trong một báo cáo gửi cho vua Bồ Đào Nha:
"...hạm đội Trung Quốc... tổng cộng có khoảng hơn ba trăm cánh buồm, nhiều loại lớn nhỏ, và tám mươi trong số đó là những chiếc thuyền buồm lớn hai cột buồm, được trang bị tốt với pháo nhỏ và nhiều loại vũ khí khác."
Kha Vinh và Ứng Ân không tấn công ngay từ đầu, theo phía Bồ Đào Nha. "Họ chỉ muốn," Mello viết, "thể hiện sức mạnh của họ... không làm gì khác ngoài dàn quân trước mắt chúng tôi và bắn vài phát súng, [tạo ra tiếng động] bằng trống và chiêng [sinos de fiesta], đặt chúng trước cảng mà tôi định tiếp cận." Mello nhắm tới hòa bình, vì vậy ông đã kiềm chế, mặc dù ông viết, "Tôi đau lòng khi không thể bắn họ."
Ông đã cố tiến đủ gần để chuẩn bị thuyền và giao thương trên bờ của một số hòn đảo, nhưng mỗi ngày, vào thuở bình minh, quân Minh lại tấn công, chèo thuyền chiến có vũ trang qua lại và bắn súng. Khi ông dẫn một nhóm lên bờ để lấy nước, ông và những người của ông đã bị pháo binh chặn lại trong một tiếng và phải bỏ lại thùng nước, chạy trốn về tàu của họ, "trở về với máu nhưng không có nước."
Các thuyền chiến tiếp tục tấn công, và hỏa lực của Trung Quốc có hiệu quả đến mức de Mello đã phải thực hiện các biện pháp cực đoan. Ông ra lệnh cắt dây neo, bỏ lại những chiếc neo đắt tiền và cho tàu chạy trốn ra vùng nước sâu hơn. Anh trai của ông, Diogo de Mello, dẫn đầu với hai chiếc thuyền có mớn nước nông – tức có thể qua lại trong vùng nước nông, cố gắng dò tìm một lối đi qua vùng nước đó. Hạm đội Trung Quốc tiếp cận các thuyền dò đường và khai hỏa.
Lần này Đức Trinh Nữ Maria đã không giúp đỡ. Như João de Barros viết, "dấu hiệu đầu tiên cho thấy chiến thắng sẽ thuộc về kẻ thù đến dưới dạng một tia lửa rơi vào thuốc súng mà Diogo de Mello mang theo, làm nổ tung các sàn tàu của chiếc thuyền của ông, và ông cùng với thân tàu chìm xuống đáy." Vị đô đốc đã vô cùng đau khổ: "Tôi đã thấy một trong những chiếc thuyền bốc cháy và chìm xuống đáy, chẳng thấy được bất kỳ sinh vật đang sống hay đã chết nào, đó là thuyền của anh trai tôi Diogo de Mello, và anh đã chìm cùng với mười lăm hoặc hai mươi thành viên [cria- dos] của gia đình cha tôi, và của tôi, những người đã đi cùng ông.
Thuyền trưởng của một chiếc thuyền dò đường khác, một người tên là Pedro Homen, đã nhìn thấy những người sống sót nổi trên mặt nước và cử một chiếc xuồng đến giải cứu. Người Trung Quốc tấn công, trước hết bằng pháo và sau đó bằng cách cử các toán lính lên tàu. Pedro là một người đàn ông mạnh mẽ, "về tầm vóc, là một trong những người đàn ông vĩ đại nhất của Bồ Đào Nha, và tinh thần dũng cảm và sức mạnh thể chất của ông khác biệt với người đàn ông bình thường," nhưng người Trung Quốc cũng có một người hùng của riêng mình. "Phan Đinh Cẩu... là người đầu tiên lên tàu, những binh lính khác theo sau." Trận chiến diễn ra khốc liệt. Phe của Phan chiếm ưu thế hơn phe Pedro, tuy nhiên các nguồn từ phía Bồ Đào Nha cho rằng những cuộc tấn công tàn khốc nhất không đến từ cận chiến mà từ súng pháo của quân Minh: "Cuộc chiến của [Pedro Homen] là như vậy, nếu không có những phát súng của pháo binh [Trung Quốc], ông ta sẽ không bao giờ chết, những người Trung Quốc đã sợ hãi biết nhường nào khi phải tiếp cận ông ta."
De Mello vội vã đến giải cứu, nhưng khi ông đến chiếc thuyền của Pedro Homen thì đã quá muộn. Chỉ còn một thủy thủ và một cậu bé đi biển, những người đã trốn trong tổ quạ [gavea – chòi canh, bệ nhỏ trên đỉnh tàu để quan sát tứ phía – bt.]. Sử ký của Bồ Đào Nha nói rằng quân Minh đã tàn sát mọi người trên tàu, "bởi vì họ chẳng thương xót ai." Các nguồn tin Trung Quốc cũng xác nhận vụ thảm sát: "Pedro [別都盧]... và các lãnh đạo khác đã bị bắt sống, và ba mươi lăm đầu lâu chiến lợi phẩm đã bị bắt, cùng với mười tù nhân [sống] khác đã bị bắt, cả nam và nữ." Pedro và các tù nhân khác đã chết không lâu sau đó, bị xử tử theo lệnh hoàng đế. Đô đốc de Mello đã trốn thoát sau khi đốt chiếc thuyền của Pedro Homen để người Trung Quốc không thể chiếm được nó.
Do đó, trong cuộc giao tranh thứ hai này, người Bồ Đào Nha đã đối mặt với một hạm đội mạnh mẽ hơn nhiều, và họ dường như đã mất đi lợi thế về hỏa lực. Trong khi vào năm 1521, người Bồ Đào Nha có thể bù đắp cho ưu thế về số lượng của Trung Quốc bằng súng của họ, thì vào năm 1522, họ không thể làm được điều đó. Điều này cho thấy rằng người Trung Quốc đã học được nhanh chóng để đối trọng lại hỏa lực của Bồ Đào Nha bằng hỏa lực của riêng họ.

Kết luận

Tóm lại, hai cuộc giao tranh Trung-Bồ năm 1521-22 cung cấp bằng chứng để đánh giá mô hình cách mạng quân sự cho sự trỗi dậy của phương Tây. Ban đầu, người Bồ Đào Nha thực sự có lợi thế trong việc sử dụng súng của họ, và, như bài báo của Roderick Ptak cho thấy, có lẽ cả trong việc sử dụng tàu chiến. Nhưng điểm quan trọng hơn là sự tiêu tan nhanh chóng của lợi thế này. Nếu nó rõ ràng trong loạt trận đầu tiên vào năm 1521, thì nó hoàn toàn vắng mặt trong loạt trận thứ hai vào năm 1522, khi, ngược lại, sức mạnh của pháo binh Trung Quốc lại được nhắc đến thường xuyên hơn.
Như Geoffrey Parker và các nhà ủng hộ khác của mô hình cách mạng quân sự chỉ ra, các cuộc xung đột quân sự có xu hướng thúc đẩy sự đổi mới theo động lực "thách thức-phản ứng." Động lực này có thể đặc biệt rõ ràng ở châu Âu đầu hiện đại, nhưng nó cũng xảy ra ở những nơi khác, và càng tìm hiểu nhiều về lịch sử quân sự châu Á, chúng ta càng có cái nhìn toàn diện hơn về cuộc cách mạng quân sự; đó không phải là một quá trình chỉ xảy ra ở châu Âu và mang lại lợi thế cho người châu Âu ở nước ngoài. Thay vào đó, đó là một quá trình trên toàn thế giới của sự pha trộn và thích ứng. Các cuộc xung đột Trung-Bồ Đào Nha năm 1521-22 là một tập phim quan trọng, thúc đẩy các quan chức nhà Minh đẩy nhanh việc áp dụng súng phương Tây của họ. Quá trình áp dụng này tiếp tục trong nhiều thập kỷ sau đó, khi nhà Minh thiết kế lại súng và điều chỉnh chúng theo nhu cầu của riêng họ, cho đến khi thứ duy nhất mang tính phương Tây về chúng là tên gọi của chúng: Phật lang cơ folangji.
Chúng ta cũng cần đào sâu thêm các quan điểm lịch đại của mình về đổi mới và thích ứng quân sự. Nhà Minh đã chứng tỏ sự khéo léo trong việc áp dụng súng phương Tây vì súng được ghi vào các thể chế của nó. Nó có các cấu trúc hành chính chuyên biệt không chỉ giám sát việc sản xuất súng mà còn phối hợp huấn luyện và diễn tập. Như nhà sử học Kenneth Swope đã lập luận, khi súng phương Tây đến Trung Quốc, chúng được coi là các biến thể của một chủ đề, dễ dàng tích hợp. Thật vậy, có một trường hợp tốt để xem xét Nhà Minh là "Đế quốc Thuốc súng" đầu tiên của thế giới, một danh hiệu được đề xuất bởi nhà sử học Sun Laichen. Vào cuối những năm 1300, nhà Minh có khoảng 150.000 quân bộ binh chuyên dụng, hoặc 10% tổng số bộ binh, một tỷ lệ tăng lên 30% vào cuối những năm 1400, và một cấp độ sẽ không đạt được bởi bộ binh châu Âu cho đến giữa những năm 1500.
Thật vậy, Sun đã lập luận rằng nhà Minh "đã khởi xướng 'cuộc cách mạng quân sự' không chỉ trong lịch sử Trung Quốc mà còn cả lịch sử thế giới trong thời kỳ đầu hiện đại." Có lẽ chúng ta có thể tinh chỉnh niên đại của Sun - súng đã đến châu Âu vào những năm 1320 và trải qua quá trình phát triển song song của riêng nó ở đó - nhưng không có gì phải nghi ngờ về tầm quan trọng của Đông Á trong quá trình thích ứng quân sự toàn cầu trong thời kỳ đầu hiện đại. Chúng ta phải xem xét sự phát triển của châu Âu trong một khuôn khổ toàn cầu, và góc nhìn từ châu Á có thể khiến chúng ta đặt câu hỏi về những hiểu biết lịch sử thông thường về sự phát triển quân sự của châu Âu.
Chắc chắn, những năm 1500 và 1600 là một thời kỳ đổi mới quân sự to lớn ở Đông Á, vốn cũng bị chia cắt bởi chiến tranh như châu Âu, đặc biệt là từ năm 1550 đến giữa những năm 1680. Trong những năm 1540, các quan lại và lãnh đạo quân sự Trung Quốc, vốn đã áp dụng súng Frankish, đã nhiệt tình giới thiệu pháo nạp đạn lớn và súng hỏa mai kiểu châu Âu. Thật vậy, có vẻ như người Trung Quốc đã ngay lập tức bắt đầu triển khai súng hỏa mai theo cách tinh vi hơn so với cách chúng được sử dụng ở châu Âu. Kỹ thuật bắn loạt súng hỏa mai nổi tiếng, trong đó binh lính giữ lửa liên tục bằng cách bắn luân phiên, được ghi nhận trong các hồ sơ Trung Quốc muộn nhất là năm 1560, gần bốn mươi năm trước ngày bắt nguồn phổ biến nhất của kỹ thuật này ở châu Âu. Thế kỷ tiếp theo, những năm 1600, cũng được đánh dấu bằng sự đổi mới quân sự nhanh chóng ở Đông Á, khi người Trung Quốc áp dụng pháo nạp đạn lớn tiên tiến và cải tiến các mẫu phương Tây đã truyền cảm hứng cho họ.

Ghi chú

1521

1. Minh sử, quyển 325 卷325, phần Phật Lang Cơ佛郎機, có ghi rằng người Phật Lang Cơ (tức người Bồ Đào Nha) “bắt cóc trẻ nhỏ để ăn thịt” 掠小兒為食. Các ghi chép về hành vi ăn thịt người cũng xuất hiện trong Quảng Châu phủ chí《廣州府志》, quyển 107, mục Hoạn tích宦績; Trương Hải Bằng張海鵬, Trung Bồ quan hệ sử tư liệu tập《中葡關係史資料集》, NXB Thành Đô成都, 1999, trang 206; và Nguyệt Sơn tùng đàm《月山叢談》 của Lý Văn Phượng李文鳳, trích dẫn trong sách của Cố Nghiên Vũ 顧炎武, Thiên hạ《天下》, trang 3830-3832; cũng thấy trong bài ký Đô hiến Uông công di ái từ ký都憲汪公遺愛祠記, chép trong Tân An huyện chí《新安縣志》, quyển 23, mục Nghệ văn nhị 藝文二, trích trong sách Trung Bồ《中葡》, trang 206-207. Các ghi chép khác cũng xuất hiện trong Minh Sơn Tàng《名山藏》; xem thêm Fukuda Kazunori福田一德, bài “The Relations between China and Portugal in the Early Sixteenth Century: Some Observations on the Yue Shan Cong Tan”, đăng trên Revista de Cultura, quyển 1 (2002), trang 100-105, tại trang 102. (tg.)
2. Xem Lý Văn Phượng, Nguyệt sơn tùng đàm月山叢談, trong sách Thiên hạ (tg.).
3. Dịch từ tiếng Anh – btv. Xem Uông Hoằng, Tấu trần ngu kiến dĩ chỉ biên hoạn sự奏陳愚見以弭邊患事