Những vệt chấm trên dưới xuất hiện trên nắp chai, con đường, tờ giấy,... không khác nào là niềm hy vọng của người mù, không thể chạm tới ánh sáng, đó là chữ nổi. Hay với cái tên quen thuộc hơn là chữ Braille đã giúp cho từ hàng trăm nghìn người Pháp như tìm thấy được hy vọng trong bóng tối đến hàng triệu người khiếm khuyết trên khắp thế giới, được mô phỏng lại phù hợp với từng quốc gia. Và bảng chữ cái ấy được xuất phát từ nỗi đồng cảm của một cậu sinh viên mù mang tên Louis Braille.
Chân dung của Louis Braille
Chân dung của Louis Braille

1. Tài năng trong nghịch cảnh

Louis Braille sinh năm 1809 trong một gia đình tại Coupvray, Pháp. Cậu được trải qua một tuổi thơ êm đềm cùng gia đình có bố làm nghề đóng yên ngựa, mẹ và ba anh chị em ở khu đất rộng 3 hecta và những vườn nho tại quê nhà. Từ nhỏ, Louis đã bộc lộ sự yêu thích của mình với các dụng cụ trong xưởng của cha cậu. Ngay vừa khi biết đi, cậu bé Louis đã được đi vào xưởng thỏa thích chỉ để thõa mãn đam mê dụng cụ của mình. Chính sở thích đó vừa mang đến nỗi bất hạnh cho cậu mà còn mang đến một trong những ý kiến vĩ đại, là tia sáng trong cuộc đời đen tối của người mù.
Trong một lần khi Louis đang tìm cách đục lỗ vào một miếng da to và quá cỡ vào năm cậu bé 3 tuổi, chiếc dùi đã bị gãy cũng như văng vào mắt trái của cậu. Dù cho cha mẹ có tìm bằng mọi cách để chạy chữa, con mắt trái của Louis cũng không thể nào cứu chữa. Mắt còn lại cũng mất thị lực do biến chứng gọi là sympathetic ophthalmia – khi mắt còn lại bị viêm vì mắt kia bị tổn thương nặng, khiến cho Louis Braille hoàn toàn mù lòa, chính thức đi vào không gian tăm tối không được nhìn thấy ánh sáng mặt trời.
Ngôi nhà nơi Louis Braille được sinh ra tại Coupvray
Ngôi nhà nơi Louis Braille được sinh ra tại Coupvray
Ngay cả khi mù lòa, bố mẹ Louis đều mong muốn cho cậu được ăn học đầy đủ vì hai ông bà đều là người biết đọc biết viết và hiểu rõ tầm quan trọng của giáo dục ảnh hưởng đến cậu con trai bé bỏng của họ như thế nào. Vì vậy ông Simon-René (bố của Louis) đã nhiều lần viết thư cầu khẩn đến ông thị trưởng Hầu tước của Pháp, khi đó là Orvilliers Peer để con ông được đi học.
Không phụ sự kỳ vọng của ông, cậu bé Louis Braille được chấp nhận cho vào Học viện Hoàng gia dành cho Thanh niên mù do Valentin Haüy thành lập tại Paris vào năm 1819. Đây là nơi cho các thanh thiếu niên mù được học tập và trò chuyện với nhau, đa số giáo trình hay sách truyện ở đây được nhà thiện nguyện Valentin Haüy sử dụng một loại giấy dày để in những ký tự Latin cho học sinh học tập. Khi đọc, người đó sẽ lướt tay qua các mặt chữ nổi để hiểu nội dung và ý nghĩa của chúng.
Tuy nhiên, độ lâu dài của thủ thuật này là quá ngắn, khiến cho lượng kiến thức có thể giữ lại là khá ít và bởi độ dày của từng trang giấy nên cuốn nào cũng mang trong mình trọng lượng quá khổ khiến học sinh khó khăn trong việc mang theo. Bên cạnh đó, giấy sử dụng để làm giáo trình được thực hiện trong quá trình phức tạp làm cho một số học sinh không thể có được loại giấy này, và "mất hy vọng" về việc gửi thư cho gia đình. Không để cho những khó khăn vùi lấp ý chí, Louis Braile đã cùng các bạn tìm hiểu hết tường tận và hiểu rõ nội dung của từng cuốn sách trong giáo trình của Valentin dù nội dung không thể trình bày đầy đủ
Ngoài ra khi học ở trường, Louis đã dần bộc lộ được tố chất khi ông là học sinh gương mẫu, nhận được học bổng từ trường năm 10 tuổi, khả năng chơi đàn Organ chuyên nghiệp và đi kèm gia sư cho các bạn khác khi chỉ vừa tròn tuổi 15. Louis Braille cũng có cho mình những người bạn thân thiết tại Học viện như nghệ sĩ Organ Gabriel Gauthier, Hippolyte Coltat, và Jean-Pierre Binet.

2. Ý tưởng trong ý tưởng

Vào những năm 1819, phát minh Night writing của nhà phát minh Charles Barbier de La Serre đã tạo nên nguồn cảm hứng cho Louis Braille. Night Writing bao gồm 12 ô chia thành 2 cột, các dấu chấm được viết trên một loại giấy dày và có thể được đọc bằng cách lướt tay. Tuy nhiên vì số lượng là 12 ô khiến cho cấu trúc bảng chữ cái Night Writing rất rườm rà, khó đọc và gây cản trở trong việc học cũng như giao tiếp giữa người mù và người bình thường. Vì vậy, học sinh Louis Braille khi ấy đang học trong Học viện đã quyết định tự tạo cho mình một hệ thống khác, nhỏ gọn và theo ông, giúp việc được đọc, viết tưởng chừng xa vời lại có thể được thu nhỏ với những người mù.
Chữ A và Z qua các thời kỳ chuyển đổi chữ nổi của
Chữ A và Z qua các thời kỳ chuyển đổi chữ nổi của
Phiên bản đầu tiên mà Louis phát minh gồm cả nốt chấm và kẻ ngang nhưng ông cho rằng kẻ ngang quá khó viết nên khi phiên bản năm 1829 được công bố, ông đã loại bỏ đi kẻ ngang cũng như chỉ còn dấu chấm. Bộ chữ nổi của Louis Braille chỉ gồm 6 ô chia thành 2 cột, kích thước nhỏ, dễ đọc mà có thể dễ dàng nhận diện thông qua việc lướt tay. Tận dụng bảng viết và bút nhọn mà Charles Barbier phát minh để người mù có thể "in" chữ lên giấy, Louis còn tạo thêm một khoảng trống cố định giúp cho các dòng chữ trở nên thẳng và dễ đọc hơn. Từ những phát minh nhỏ, cải tiến tưởng chừng "khiêm tốn", Louis Braille đã tạo nên một hệ thống ngôn ngữ vững chắc giúp cho người mù được biết đọc, biết viết như người bình thường, trở thành dầu hỏa cho ngọn đèn thêm phần rực cháy trong bóng tối tưởng chừng không có ánh sáng cho những người như ông.
Vẫn còn một vấn đề đó chính là vấn đề giao tiếp giữa người mù và người sáng, mặc cho việc bảng chữ nổi Braille dễ học hơn, nhưng việc dạy chữ nổi ở trường cho người bình thường là điều không cần thiết. Đây là vấn đề nan giải mà Louis Braille luôn tìm cách giải quyết và tài năng của ông đã giúp đỡ khi ông hiểu rõ được nguyên lý của đèn LED. Phương pháp hỗ trợ này được tiết lộ trong một cuốn sách in bằng mực đen của Louis xuất bản. Đại loại dựa trên vị trí và cách sắp xếp các dấu chấm với số lượng phù hợp theo tọa độ, cho phép nhận biết hình ảnh của chữ cái, con số và các ký hiệu khác của người sáng mắt, để người mù có thể sờ mà nhận biết được.

3. Phát triển trên mọi lĩnh vực

Hệ thống chữ nổi của Louis Braille lần đầu được phiên ra sử dụng cho người Pháp sau đó còn được cải biên cho nhiều ngôn ngữ như tiếng Anh, tiếng Việt, tiếng Trung, ... và xuất hiện trên vỏ chai, bàn phím,... Bên cạnh đó, sau này con người còn tạo ra bàn phím riêng sử dụng hệ thống chữ cái Braille để người mù có thể đánh máy. Dần dà, những bảng chữ nổi của Louis trở thành hệ thống phổ thông cho người mù được giao tiếp, viết và sử dụng trong các hoạt động thường ngày ở mọi quốc gia trên thế giới.
Cải tiến của Braille được đề xuất áp dụng vào chương trình giáo dục và sử dụng tại chính nơi ông được theo học, Học viện Hoàng gia dành cho Thanh niên mù nhờ tiến sĩ, hiệu trưởng Alexandre-René Pignier. Sau khi bị buộc rời khỏi chức vụ để nhường ghế cho một giáo viên khác, Pierre-Armand Dufau, bảng chữ cái Braille không được sử dụng vì sự phản đối của ông từ năm 1840. May mắn thay, một giáo viên khác tên là Joseph Guadet đã ủng hộ Braille, và hệ thống chữ Braille được đưa trở lại giảng dạy vào năm 1844, trùng với dịp khánh thành tòa nhà trường mới trên đại lộ Boulevard des Invalides.
Nhờ sự phát triển của bảng chữ cái Braille, Louis còn cho xuất bản những cuốn sách như Method of Writing Words, Music, and Plainsong (1829 và được tái bản năm 1837),... sử dụng bảng chữ nổi ở những lĩnh vực như nghệ thuật, toán học để người mù có thể tiếp thu kiến thức giống với chương trình giảng dạy bình thường cũng như sử dụng chính hệ thống của ông ở các lĩnh vực đó một cách hiệu quả.

4. Qua đời và tưởng niệm

Từ nhỏ, cơ thể ông đã suy nhược, yếu kém, dần dà khiến cho ông ngày càng tệ đi khi trưởng. Mặc cho sự kém phát triển của y học thời đó, Louis Braille vẫn cố gắng sống cùng căn bệnh lao phổi ấy hơn 16 năm trước khi qua đời vào năm 1852, ở tuổi 43 tại bệnh xá của Viện Hoàng gia.
Nhờ những cải tiến và đóng góp của Louis dành cho người mù, ngày 4/1 trở thành ngày World Braille Day, được tổ chức để kỷ niệm ngày sinh của ông từ năm 2019. Năm 2009, nhân dịp 200 năm ngày sinh của ông, một buổi triễn lãm được tổ chức trên toàn cầu mô phỏng lại cuộc đời và những thành tựu mà Louis Braille đã đóng góp trong suốt cuộc đời của ông. Ngoài ra Google Doodle xuất hiện với chủ đề về bảng chữ nổi Braille đã phiên lại chữ "Google" theo hệ thống chữ của Louis Braille trên trang chủ của Google nhân dịp 197 năm sinh nhật của ông vào năm 2006.
Cuộc đời của Louis Braille gắn liền với người mù, với bảng chữ nổi và gắn liền với tài năng, đồng cảm cho những người như ông mong muốn được học tập trong môi trường giáo dục. Hệ thống bảng chữ cái nổi hay chữ Braille là minh chứng cho quyền bình đẳng giữa con người và con người, khi ai sinh ra cũng được học, được viết. Những di sản mà Louis để lại sẽ là hành trang, là ngọn đèn cho rất nhiều người để họ được viết tiếp ước mơ trong không gian tăm tối.