Mở đầu

Sau bài viết về bạo lực, tôi dự định chỉ đăng một bài nữa về tâm lý. Tuy nhiên, tôi cảm thấy bài viết về tâm lý quá ngộp cho người đọc, nên đã quyết định tách thành hai bài, sửa lại cho dễ hiểu hơn và khiến nó trở thành một Trilogy gồm Bạo lực - Lòng tốt - Bản sắc. Nếu bạn từng thắc mắc về tính cách, hoặc nguồn gốc của những gì tôi viết trên Spiderum, ba bài viết này có thể tóm gọn toàn bộ nền tảng đó. Hi vọng rằng bạn có thể tìm thấy những ý tưởng, những niềm vui, và bất cứ thứ gì có ích ở Trilogy đặc biệt này.
Đây là bài viết về “lòng tốt”, một trong những trụ cột duy trì xã hội con người, và những khía cạnh đặc biệt của nó mà bạn không thường thấy chúng được phân tích trên truyền thông chính thống. Tôi tin rằng, nó không chỉ khiến bạn suy nghĩ lại về những gì bạn từng cho là đúng, mà còn giúp bạn kiến giải tốt hơn về xã hội, để cuối cùng, bạn có thể xây dựng nên một phiên bản “lòng tốt” thực sự tốt hơn cho chính bản thân mình và cho cộng đồng.

Lòng tốt quái thai

Đây là một trải nghiệm của cá nhân tôi và nó sẽ theo bạn trong hầu như toàn bộ bài viết.
Một buổi sáng khoảng 2 năm trước, khi tôi ngồi chờ bạn mình tại một chuỗi cà phê nằm bên dưới một khu căn hộ, thì bên tay phải, sát tôi chỉ khoảng hai gang tay, có một cái ghế trống. Đột nhiên có một cô gái tiến đến và ngồi luôn xuống đó mà không buồn kéo ghế ra xa. Cô ta ngồi nghiêng, hơi quay mặt về phía tôi và không nói gì cả. Nhìn chúng tôi giống như một cặp nên tôi hơi khó chịu và quay sang nhìn cô ta. Nhưng cô ta không nhìn tôi, mà nhìn mông lung qua tấm kính, ra cảnh vật bên ngoài, mắt cô ta ướt…
… và bắt đầu trở nên mất bình tĩnh.
Cô gái khoảng 30. Mặc đầm ngủ, khoác áo len, mang dép lê, chỉ cầm theo điện thoại, chìa khoá, chưa trang điểm, còn tóc thì giống như búi vội lên. Có lẽ vừa vội vã đi xuống từ căn hộ nào đó phía trên. Điện thoại reo lên vài lần nhưng cô ta liên tục bấm từ chối, tay run, thở rất dốc và lẩm bẩm chửi rủa. Rõ ràng là đang mâu thuẫn. Một lúc sau cô ta bấm số gọi cho ai đó, rồi nói chuyện qua một chiếc tai nghe wireless bên tai phải, phía tai tôi không nhìn thấy. Lúc này tôi trở nên thông cảm vì chúng ta là con người, luôn có những lúc như vậy, và thực ra cô ta không tương tác, nên cũng không ảnh hưởng gì nhiều đến tôi.
Khi bạn tôi đến, tôi ra hiệu không quen cô ta, và quán cũng đã hết bàn rồi, nên chúng tôi cứ như vậy nói chuyện riêng. Tôi gửi một tin nhắn bí mật cho bạn mình rằng, cô này gặp chuyện gì đó, cứ thông cảm và để cô ấy ngồi đó cho bình tĩnh. Một lúc sau, tôi đi vào nhà vệ sinh và khi quay lại bàn, cái tôi thấy đã xác nhận mọi điều tôi nghĩ là đúng:
Không có cái tai nghe nào bên phải cả.
Cô ta tự nói chuyện suốt một giờ đồng hồ. Thực ra tôi nghi ngờ từ đầu, vì mãi sau 15 phút cô ta mới phản hồi một lần. Không hội thoại nào có cái tần suất trao đổi quái dị như vậy cả. Tuy nhiên cô ấy đã thực sự bình tĩnh hơn. Đó là quá trình tự nhiên khi con người có không gian và thời gian để các vùng não lý trí dần lấy lại kiểm soát sau khi giận dữ.
Sau một tiếng rưỡi thì bạn tôi rời khỏi đó.
Lúc này cô ta ngả lưng ra sau, đặt hai chân lên ghế đối diện, hít thở sâu và bất chợt đặt tay lên bụng. Nếu bạn no hoặc đau bụng, bạn sẽ vô thức đặt tay lên rốn, giữa bụng, một cách khá thô kệch. Nhưng cô ấy đặt tay nhẹ ở vùng dưới rốn và bên hông. Tôi đoán đó là hành vi của mang thai, vì thai thời kỳ đầu thường khó thấy nếu chỉ quan sát bụng. Khi mang thai, tử cung to ra khiến các cơ quan bị chèn ép, còn cơ xương thì phải chịu tải nhiều hơn, nên tư thế ngồi đó khiến người phụ nữ thăng bằng và thư giãn, chứ không phải một kiểu ngồi vô ý thức. Thai kỳ là một quá trình rất nhạy cảm, còn tỷ lệ trầm cảm và tự sát trong cộng đồng đang ở mức đáng chú ý do vấn đề tâm lý chưa được quan tâm đúng cách, nên tôi muốn chắc chắn là cô ta ổn trước khi rời đi.
Tôi bắt chuyện bằng cách hỏi có phải cô sống ở căn hộ phía trên không. Bạn nên hiểu là vì cô ta chủ động tới ngồi ngay kế bên tôi, nên nó lịch sự hơn nhiều so với trường hợp bạn tự đi từ đằng xa đến và hỏi như vậy. Cô ấy đúng là ở trên đó và đang có em bé thật. Tôi nói mình cũng có con, rồi nói dối bâng quơ rằng, thi thoảng khi mệt mỏi với nó, tôi cũng ra đây một mình và hít thở sâu để thư giãn. Rồi nói đùa rằng, có lẽ vợ chồng tôi đã đùa giỡn quá nhiều khi mang thai nên nó sinh ra rất ít khóc và thích đùa với bạn bè. Tôi nghĩ chắc nhiều bạn trưởng thành sẽ hiểu, đó là một cách động viên ngầm trong giao tiếp: “Cô đã làm đúng, cứ tiếp tục ngồi thư giãn và hít thở sâu như vậy” “Cố gắng đừng phiền muộn quá thường xuyên, như vậy sẽ tốt hơn cho em bé” mà không cần đụng đến chuyện riêng tư, khiến người ta phải bối rối. Khi thấy cô ta bắt đầu mỉm cười, trò chuyện những câu dài, có logic phức tạp, và chậm rãi hơn, đó là dấu hiệu tạm ổn, nên tôi cũng rời đi để tránh người thân cô ta hiểu lầm. Thật sự thì tôi cũng chưa thấy ổn lắm, nhưng đó là tất cả những gì một người qua đường có thể làm.
Cô gái không phải trường hợp duy nhất khiến tôi nán lại. Bất cứ khi nào tôi thấy một đứa trẻ đang đứng một mình ở nơi vắng người, tôi đều để mắt cho đến khi người thân của chúng đến, và không có tương tác gì bất thường xảy ra.
Nếu bạn nghĩ rằng tôi tử tế vì tôi cảm nhận được nỗi đau của cô gái, hay nỗi đau của cha mẹ, nếu đứa trẻ gặp chuyện bất trắc, vì vậy tôi đã dành chút thời gian của mình để quan tâm đến họ, thì có lẽ bạn đã nhầm. Tôi chẳng cảm thấy nỗi đau nào cả, và cũng không có nhu cầu tìm hiểu về nỗi đau đó. Tôi chỉ hiểu rằng họ đang có vấn đề, có lẽ tôi biết vấn đề đó đến từ đâu, và trong khả năng của mình thì tôi nên làm gì. Nói thật, lúc ở quán cà phê, tôi nghĩ “Phụ nữ có thai? Chưa bao giờ xử lý cái gì liên quan đến phụ nữ có thai, có lẽ nếu cô ta hoảng loạn, mình sẽ chắn trước mặt, giữ nhẹ hai vai để cô ta ngồi yên trên ghế, rồi trấn an, như vậy sẽ an toàn cho hai mẹ con?”. Nếu một người cảm ơn tôi, thậm chí tôi còn nghĩ, “Được rồi, mình nên nhận lời cảm ơn đó, thậm chí nhận một món quà nhỏ ít giá trị, để họ giải tỏa được sự hàm ơn. Có lẽ mình nên cười lại để họ thấy được sự trân trọng, còn lại, mình chẳng biết dùng lời cảm ơn đó vào việc gì cả, hi vọng họ ổn để mình không phải gặp lại họ nữa.”

À, thì ra nó không quái thai lắm…

Trong suốt một thời gian dài, tôi luôn thắc mắc liệu tôi có mắc một chứng bệnh nào đó? Tại sao tôi không thường xuyên cảm nhận được cái gọi là “tình cảm”, “sự thấu hiểu”, “đồng cảm” mà truyền thông, TV, sách báo đều ca ngợi? Tại sao trong những tình huống mà người ta đổ vật ra khóc lóc, tôi vẫn có thể trơ ra phân tích nguyên nhân a, nguyên nhân b…? Có phải tôi bị khuyết tật hoặc dị dạng một vùng nào đó trong bộ não hay không? Nếu tôi không cảm nhận được, vậy tại sao tôi vẫn có thể giúp đỡ được người khác? Liệu tôi có cần thiết phải đi tìm cái cảm giác “thấu hiểu”, “đồng cảm” đó không? Hay là nên tiếp tục phát triển thứ tính cách dị biệt này?
Một trong những điều tôi đặc biệt biết ơn ở chính bản thân đó là: ngay từ rất sớm, tôi đã có hứng thú tìm hiểu về chính mình và tìm hiểu về thế giới này thông qua chính mình, hơn là về thế giới của người khác. Tính cách đó khiến tôi tự đặt những câu hỏi về hành vi và suy nghĩ của chính mình, và mọi tài liệu mà tôi đọc, tôi đều liên hệ với chính mình trước. Có thể nói, trong thế giới của tôi, tôi là chuyên gia về chính mình. Về sau, tôi tìm được lý do để giải thích cho “sự khiếm khuyết” này.
Đặc điểm tâm lý đó, rất phổ biến ở những công việc liên quan đến: Phẫu thuật / Trị liệu tâm lý / Cứu hộ / Điều tra / Tư pháp và xuất hiện ở những… psychopaths (người biến thái nhân cách, rối loạn nhân cách chống đối xã hội)! Tại sao lại như vậy? Điều gì đã xảy ra bên trong? Tôi sẽ viết theo một cách dễ hiểu.
Có lẽ ta sẽ bắt đầu với cái gọi là “Sự đồng cảm”.
Sự đồng cảm (empathy) được xã hội hiểu là, hiểu được cái mà người khác đang cảm thấy, hiểu cảm giác của người đó khi đặt mình vào vị trí của họ (tiếng Anh gọi là putting yourself in someone else’s shoes). Người bạn của tôi ở buổi cà phê lúc nãy, chính là vừa mất việc và chúng tôi gặp nhau để chia sẻ. Empathy là khi tôi nhìn vào nỗi buồn đó, và tôi nhớ về lúc mình cũng từng mất việc, hoặc tưởng tượng rằng tôi cũng mất việc, nó sinh ra cảm nhận về nỗi đau khổ khi không có tiền tiêu, giờ phải đi tìm việc mới, và tôi nỗ lực để tái tạo lại cái nỗi đau đó chung với bạn mình trên bàn cà phê.
Còn sự thông cảm (sympathy) là, bày tỏ rằng bạn cảm thấy rất tiếc về nỗi buồn của người khác. Trong ví dụ trên, là khi tôi nói “Xui quá, thấy mày nhắn tao cũng buồn!”. Hoặc đặc trưng nhất là khi bạn đến đám tang và nói “Xin chia buồn với bạn, anh chị, cô chú, ông bà...”. Một hành động lịch sự rằng, bạn biết người kia đang đau khổ và bạn bày tỏ rằng, không sao cả, cứ tự nhiên, tôi biết bạn đang không ổn.
Bây giờ, mới là thứ thực sự diễn ra trong đầu tôi trong buổi cà phê hôm đó: Tôi biết rằng bạn mình đang phải trả góp căn hộ, và sự kiện này sẽ gây ra một thảm họa tài chính nếu bạn tôi không sớm tìm được công việc thay thế, và thậm chí công việc mới còn buộc phải có mức thu nhập không được quá thấp. Dựa trên sự hiểu biết đó, tôi biết bạn đang rất căng thẳng, nên tôi chọn cách nghiêm túc lắng nghe câu chuyện và chọn thể hiện rằng mình cũng rất buồn khi biết tin. Đó là cái mà một số nhà nghiên cứu gọi là sự đồng cảm nhận thức (cognitive empathy), nó sử dụng lý trí để đạt đến trạng thái hiểu được suy nghĩ, quan điểm của người khác mà không cần phải chia vui / chia buồn cảm xúc của họ. Và giờ đây để dễ phân biệt, họ gọi sự đồng cảm ban đầu mà xã hội thường hiểu, là sự đồng cảm cảm xúc (emotional empathy).
Tuy phân chia như vậy, nhưng đối với người bình thường, sự đồng cảm không đến từ một loại nhất định, mà thường là một hỗn hợp mỗi thứ một ít với tỷ lệ khác nhau tùy theo bộ não từng người, và các loại đồng cảm đều có khả năng dẫn đến một trạng thái gọi là lòng trắc ẩn (compassion), muốn giúp đỡ để đối phương vơi đi nỗi đau.
Trong những nghề nghiệp tôi đã nói ở trên, họ sử dụng một hỗn hợp đồng cảm với lượng đồng cảm nhận thức lớn hơn nhiều so với đồng cảm cảm xúc, để sinh ra lòng trắc ẩn và hoàn thành nhiệm vụ.
Bác sĩ, cứu hộ dùng nó để bình tĩnh xử lý tình huống khi nạn nhân đổ máu, kêu gào, rơi vào tình trạng nguy kịch, thậm chí bất chấp nạn nhân có thể là người xấu. Người trị liệu tâm lý dùng nó để trò chuyện, theo dõi và trị liệu một lúc cho 3 bệnh nhân trầm cảm, rối loạn tâm lý mà không biến mình thành bệnh nhân thứ 4. Cảnh sát điều tra dùng nó để phân tích hiện trường, máu, xác chết, phát hiện ra lời nói dối ngụy trang khi thẩm vấn, đem lại công lý cho sự việc. Tư pháp dùng nó để xử lý những bản án, tình tiết đau lòng hoặc mất hết nhân tính mà vẫn phải đảm bảo công bằng về luật pháp. Và người rối loạn nhân cách psychopath dùng nó để phân tích tâm lý nạn nhân nhằm trục lợi từ họ. Còn tôi khi nghe bạn mình chia sẻ câu chuyện, tôi dùng nó để sinh ra một phương án giúp đỡ, bằng cách hỏi thăm về tình hình hiện tại của bạn, của gia đình bạn, nghĩ về các mối quan hệ tôi có, tìm cách kết nối chúng lại với nhau, nhận định với lợi thế sáng suốt của người ngoài cuộc, và không quên dặn bạn mình nên nghỉ ngơi một vài ngày lấy lại bình tĩnh để ra quyết định tốt hơn. Sự đồng cảm nhận thức này không cần quá nhiều cảm xúc, và nó hoàn toàn là một lợi thế nếu người ta dùng nó để sinh ra lòng trắc ẩn, thay vì để lợi dụng nạn nhân như psychopath.
(Cần lưu ý rằng, những khái niệm này không phải do “một vùng”, “một cục”, “một cơ quan” nào đó riêng biệt tạo ra, mà nó là những khái niệm trừu tượng, được các nhà nghiên cứu phân chia theo quan điểm của họ, dựa trên một tổ hợp các phản ứng tại các vùng não khác nhau, mỗi thứ một ít. Hai khái niệm emotional/cognitive empathy không bắt nguồn từ một công trình cố định, mà nó xuất hiện dần dần trong các nghiên cứu tâm lý học, và trở nên phổ biến nhờ các nghiên cứu của Simon Baron-Cohen những năm 90s về emotional/cognitive empathy trên người tự kỷ và psychopath.)
Như vậy, nó trả lời được thắc mắc của tôi rằng, người ta hoàn toàn có thể làm việc tốt dựa vào nhận thức, mà không cần quá nhiều cảm xúc, và nó rất bình thường.
Batman và Joker (của Heath Ledger, không phải Joaquin Phoenix) có lẽ là ví dụ điện ảnh trực quan nhất nằm trong cùng một bộ phim. Batman thể hiện đặc trưng rõ ràng của đồng cảm nhận thức, hành động giống như một lực lượng hành pháp, một người điều tra, không giết người, cứu mạng cả kẻ xấu lẫn tình địch, chuyên nghiệp và lạnh lùng. Joker, cũng phát triển đồng cảm nhận thức ở mức độ rất cao, anh ta phân tích được nỗi sợ, lòng tham, nỗi đau của người khác, nhưng ngược với Batman, anh ta dùng nó để trục lợi, để điều khiển đàn em. Bạn có thể xem phân cảnh Joker tổ chức cướp ngân hàng để thấy đạo diễn Christopher Nolan khắc họa đặc điểm “full cognitive empathy” (đồng cảm đến nỗi hiểu rõ lòng tham của đàn em) nhưng “zero emotional empathy” (giết toàn bộ). Thường thì người ta gán cho Joker là một kẻ psychopath, nhưng các nhà tâm lý thì không có kiểu khẳng định có/không như vậy đối với một nhân vật tưởng tượng, họ chỉ nói rằng, đặc điểm đó, rất tương đồng với một psychopath.

Mặt trái của sự đồng cảm cảm xúc

Bây giờ, chúng ta xét tới đồng cảm cảm xúc.
Có một nghiên cứu hết sức thú vị, sốc và gây nhiều tranh cãi vào thời điểm nó ra mắt hơn 10 năm trước. Tôi ngạc nhiên là qua từng đó năm thì kết quả google search vẫn cho thấy cộng đồng chúng ta chưa tiếp cận được nó. Sách vở đại chúng đều chưa dịch ra tiếng Việt. Vì vậy tôi bưng về đây cho mọi người cùng tìm hiểu và nhìn nhận.
Đồng cảm cảm xúc, chính là cái mà xã hội hiểu khi nhắc về "đồng cảm". Nó luôn được cho là điều tốt, điều đúng đắn, thúc đẩy con người xóa nhòa khoảng cách và nảy sinh lòng trắc ẩn trong cộng đồng. Hầu hết đều cho rằng, nó tốt đến nỗi, không cần phải chất vấn! The more, the better - càng nhiều thì càng tốt!
Không hổ danh là con người, chúng ta có những nhà nghiên cứu chỉ trích lại điều đó.
Paul Bloom, giáo sư danh dự Tâm lý học và Khoa học Nhận thức tại Đại học Yale, và hiện đang là giáo sư Tâm lý học tại Đại học Toronto, hơn 10 năm trước, đã gây tranh cãi với quan điểm và quyển sách táo bạo của mình: Against Empathy (chống lại đồng cảm).
“Nếu bạn muốn làm những điều tốt, thì đồng cảm cảm xúc là một người dẫn đường tồi.” - Paul Bloom
Hãy xem, bạn đồng cảm, nhưng có phải bạn đồng cảm nhiều hơn với những người có ngoại hình đẹp, những người giống bạn, cùng màu da màu tóc như bạn, cùng quê hương quốc tịch với bạn không? Bạn đồng cảm, nhưng có phải bạn đồng cảm với một cá nhân cụ thể nào đó, hơn là một đám đông chung chung không? Hãy xem nữa, bạn đồng cảm, nhưng có phải bạn đồng cảm với một người có hình có tướng rõ ràng, hơn là những con số và những bảng phân tích thống kê về những người của cả một thành phố hay thậm chí cả một quốc gia không? Điều gì xảy ra, nếu người ta đem cái đồng cảm đó, vào những quyết định công? Ưu tiên lợi ích thêm một chút cho những người mình đồng cảm?
Trong mối quan hệ bạn bè và tình cảm, đồng cảm cảm xúc cũng có yếu điểm. Nếu một người đồng cảm cảm xúc quá mức trong một mối quan hệ, nó dẫn đến một mốt quan hệ bất cân xứng, nơi mà một người liên tục tái tạo lại cảm xúc của người kia trong đầu mình, bắt mình liên tục đau khổ để cảm nhận đau khổ của người khác, đến nỗi quên mất chăm sóc cho bản thân, cuối cùng nó phá hủy chính họ, dẫn đến trạng thái mệt mỏi và kiệt sức (burnout).
Giáo sư Bloom dẫn chứng về một thí nghiệm rất thú vị của Tania Singer, một nhà tâm lý học và thần kinh học người Đức. Bà sử dụng fMRI (đại khái, đó là cộng hưởng từ chức năng, được triển khai từ MRI, cộng hưởng từ, nhưng phức tạp hơn và tập trung vào não) để khảo sát não bộ của một tu sĩ Phật giáo, Matthieu Ricard, khi ông đi vào trạng thái thiền định, hướng lòng bi của mình vào chúng sinh đang chịu đau khổ.
Bloom viết rằng: Ricard được yêu cầu “to engage in various types of compassion meditation” (đi vào nhiều cấp độ thiền định từ bi khác nhau). Theo tôi, ý họ muốn nói đến phép Quán Từ Bi, một khái niệm quen thuộc với bạn nào có kiến thức Phật giáo. Một cách đại khái, tu sĩ sẽ tư duy về toàn bộ chúng sinh nhằm nuôi dưỡng và phát triển lòng từ bi. Và nó có nhiều cấp độ “quán”, từ căn bản (hiểu đơn giản về quan hệ giữa ta và chúng sinh từ đó nảy sinh từ bi) cho đến cao cấp hơn (hiểu một cách bao trùm đến nỗi, lòng từ bi không cần bất cứ điều kiện nào nữa, nó vượt qua cả hình tướng chúng sinh, không gian và thời gian).
Bà Singer đưa ra kết quả rằng, khi ông ấy đi vào những trạng thái thiền định (meditative states), nó nảy sinh lòng trắc ẩn, muốn giúp đỡ, nhưng lại không làm kích hoạt những vùng não, mà một người bình thường bị kích hoạt, khi họ nghĩ về nỗi đau của người khác. Sau đó ông được yêu cầu tự đưa mình vào trạng thái đồng cảm cảm xúc (empathetic state) và quét não lại, thì lúc này những vùng não làm nảy sinh sự đau khổ cảm xúc đó được kích hoạt lên, và Ricard nói rằng ông sẽ nhanh chóng bị kiệt sức về mặt cảm xúc nếu cứ duy trì ở trạng thái đó (empathetic state).
Tôi khuyên bạn nên tự tìm hiểu, và nên có quan điểm của riêng mình về những thí nghiệm kiểu này vì bản thân tôi cũng… hoài nghi về nó. Tôi đặt nó ở đây vì nó có cách tiếp cận thú vị và gợi mở, nó cho thấy người ta thí nghiệm không từ một thứ gì (^^) và vì nó nằm trong quan điểm của Bloom. Còn phần tôi, những luận điểm của ông về thiên kiến của sự đồng cảm thuyết phục tôi hơn.
Bloom tranh luận tiếp, “đồng cảm cảm xúc” rất tương đồng với “sự phẫn nộ”: chúng hình thành rất sớm khi ta còn nhỏ, chúng có mặt ở cả các loài linh trưởng khác không chỉ riêng con người, chúng mang tính xã hội, nghĩa là đều liên quan, đều nhằm vào một người nào đó, không phải cảm xúc nội tại riêng lẻ, và chúng đều liên quan đến ý niệm của con người về thiện ác. Nếu sự phẫn nộ có thể vừa là xúc tác cho những anh hùng chống lại những điều bất công sai trái, vừa là xúc tác cho kẻ hung hăng gây rối cộng đồng, thì sự đồng cảm cảm xúc cũng có thể vừa là xúc tác dẫn đến hành vi tốt, nhưng cũng vừa là xúc tác dẫn đến hành vi gây hại nếu nó trở nên quá phi lý trí. Vì vậy, thật kỳ lạ khi người ta cẩn thận với sự phẫn nộ, nhưng lại không bao giờ cẩn thận với đồng cảm cảm xúc.
Thậm chí, nếu nhìn vào những bảng đánh giá để dự đoán được một người có khuynh hướng bạo lực hoặc một psychopath, những người mà xưa nay xã hội cho rằng họ có đặc điểm “thiếu vắng đồng cảm”, thì nếu bỏ hết các mục liên quan đến “đồng cảm” đó ra, ta vẫn có thể dự đoán chính xác họ dựa vào các mục còn lại! Nghĩa là, đồng cảm cảm xúc chỉ góp một phần nhỏ chứ nó không phải yếu tố quá lớn quyết định nên một người tốt hay xấu. Vì vậy, việc một người có mức độ cao về đồng cảm cảm xúc không có nghĩa người đó tốt, và nếu có thấp thì cũng không đồng nghĩa anh ta là người xấu. Hành vi tốt nằm ở sự sáng suốt và khả năng kiểm soát bản thân, trong khi hành vi xấu nằm ở việc mất khả năng kiểm soát được ham muốn.
Một trong những hành vi quen thuộc nhất với cộng đồng của chúng ta, thể hiện mặt trái của đồng cảm cảm xúc, là nếu bạn có con và thấy ông bà thường cho đứa trẻ ăn rất lung tung, ăn kẹo bánh trong khi đang ăn bữa chính, cho ăn mọi thứ ông bà thích, bất chấp việc nó không tốt cho đứa trẻ. Hành vi này, theo tôi có thể giải thích là, nó tương đồng như bạn nuôi thú, hoặc vào sở thú và thích được cho thú ăn, thậm chí phải… mua đồ ăn từ người nuôi chúng, để cho chúng ăn. Ông bà tự nghĩ rằng, “có thể chúng thích, nhìn ăn rất là ngon miệng” nên đã chìm trong sự hạnh phúc khi làm như vậy và ít nghĩ đến hậu quả. Một hành vi khác, là nuông chiều vật chất, tinh thần đứa trẻ quá mức, vì người lớn tự nghĩ rằng, “đời mình quá khổ giờ phải bù đắp vô điều kiện cho chúng”, mà ít nghĩ đến việc nó sẽ làm hại cho tính cách đứa trẻ. Và tất cả hai hành vi trên, dù gây hại, nhưng đều được xã hội “thông cảm” vì nó xuất phát từ “tình yêu thương”, từ “đồng cảm”. Việc này lại nảy ra một khía cạnh rất thực tế và hài hước của “đồng cảm cảm xúc” đó là, cái nỗi đau bạn nghĩ, thật ra chưa chắc nó đúng là cái nỗi đau mà người kia nghĩ. Hoặc một ví dụ thực tế khác, là khi bạn đến bệnh viện, bạn cảm thấy yên tâm hơn hẳn khi được chăm sóc bởi một bác sĩ chuyên nghiệp, thực hiện thao tác và nói chuyện với bạn tuy hơi "ít cảm xúc" nhưng biết rõ phải làm gì với tình trạng của bạn, hay một bác sĩ thường xuyên ngồi đó và "đau khổ" cùng bạn? Hoặc trong những tình huống gia đình, khi cảm xúc khiến bạn mất kiểm soát, bạn chọn một người thân có tâm lý cũng giống y như bạn, hay một người bình tĩnh, lý trí hơn để làm chỗ dựa?
Bên dưới là quyển “Lòng tốt chết người” của Barbara Oakley, một giáo sư người Mỹ tại Đại học Oakland. Bà dùng kiến thức về tâm lý, thần kinh học, xã hội học để phân tích về vụ án của Carole Alden, một phụ nữ tại Utah, người có vẻ như rất vị tha, rất yêu động vật, và là nạn nhân của bạo lực gia đình, nhưng lại bắn chết chồng mình vào năm 2016 và kéo thi thể anh ra sân sau bằng xe tải, qua đó khám phá về sự phức tạp và những động cơ tiềm ẩn đằng cái gọi là “lòng tốt”. Bà chỉ ra cách mà xã hội có thể dễ bị nhầm lẫn như thế nào dưới danh nghĩa “lòng tốt”, những lỗ hổng của phương pháp luận, hệ thống pháp lý khi đối mặt với những trường hợp phức tạp như Carole Alden.

Sự bối rối của những người hùng

Giờ ta sẽ phân tích đến tâm lý của những người hùng.
Chúng ta ai cũng từng nghe nói về những “người hùng qua đường” giải cứu nạn nhân trong các thảm hoạ. Họ là những con người hết sức bình thường, nhưng tách mình khỏi đám đông do dự, và quyết định hành động.
Chẳng hạn như, một căn nhà đang cháy và chẳng may còn một đứa bé kẹt bên trong. Một cô công nhân tan ca nào đó đi ngang biết chuyện đã quyết định lao vào đưa đứa bé ra ngoài, bàn giao cho mọi người xong thì nhanh chóng rời khỏi hiện trường, vì còn quá nhiều thứ phải lo toan ở nhà. Đến tối thì những đoạn video về cô đã viral khắp nơi và người ta gọi cô là người hùng. Theo sau đó là những buổi phỏng vấn đầy cảm xúc trên truyền hình: “Tại sao chị lại quyết định làm như vậy?”, “Chị có cảm nghĩ gì?”, “Đây là đứa bé hôm đó chị đã cứu, chị thấy sao?”
Và không ít lần, chúng ta thấy những “người hùng” bối rối, không biết phải nói gì. Và khi họ càng bối rối, họ càng “Tôi cũng không biết nữa”, “Tôi thấy bình thường thôi” thì người ta lại càng: "Vâng thưa quý vị, chị rất khiêm tốn, có lẽ hành động đẹp này xuất phát từ trái tim, từ tình thương giữa người với người…”
Nếu tinh ý, bạn sẽ thấy rằng, họ bối rối trước những câu hỏi trừu tượng, cảm xúc, nhưng lại trả lời rất lưu loát những câu hỏi về diễn biến: “Lúc vào chị thấy gì bên trong? Tình trạng đứa bé ra sao? Còn tỉnh táo hay đã ngất?”
Vì sao họ lại bối rối? Trong khi mọi người gán cho họ những danh từ hoa mỹ nhất, liên tục suy diễn về những lý tưởng cao đẹp nhất đã khiến họ hành động, thì cái gì thực sự đã xảy ra bên trong đầu những “người hùng”? Làm thế nào mà một người lại quyết định hành động, trong khi những người khác cũng ở đó, lại không? Và quan trọng là, tại sao tôi lại đề cập đến vấn đề này?
Trước khi tôi 10 tuổi, tôi được cho học bơi. Tôi học khá nhanh và thường hoàn thành đường bơi trước các bạn. Tôi thích sự tĩnh mịch từ rất sớm. Khoảng thời gian chờ đó khiến tôi thích lặn xuống đáy hồ và quan sát các bạn phía trên. Vì người thấy khi đó thấy bàn tay và bàn chân tôi khá lớn, một lợi thế của bơi lội, nên từng ngỏ ý với ông bà già tôi để tập riêng xem có vào đội dự bị của tuyển được hay không. Ông bà già tôi không đồng ý, còn tôi cũng không có hứng thú lắm, nhưng được cái, từ sự kiện đó trở đi, tôi được phép đến các hồ bơi một mình.
Năm 13 tuổi, tôi đến một hồ bơi khá sâu và bơi ở vùng sâu nhất, có lẽ khoảng 2m5. Hồ lúc đó khá đông. Tôi sớm làm quen được với hai cậu trai khác lớn tuổi hơn trong hồ. Trẻ con rất dễ quen nhau. Trong lúc lặn theo sở thích, tôi phát hiện dưới đáy hồ có một cậu trai trạc tuổi tôi, đang ở trong tư thế ngồi, lưng sát vào thành hồ. Ban đầu tôi nghĩ cậu ta cũng lặn giống mình, nhưng nhìn kỹ thì ở mũi và miệng cậu ta có một mảng bọt trắng, giống như kem đánh răng trôi lờ lờ trong nước. Tôi chưa lặn sâu nên đã quay trở lên, và chỉ cho hai cậu kia úp mặt xuống để nhìn thấy. Có lẽ do khúc xạ và ở vị trí khó, nên nếu nhìn từ trên mặt nước gần như sẽ không thấy cậu ta, nhưng vừa úp mặt xuống sẽ lập tức nhìn thấy. Hơn nữa, vì hồ khá đông, không ai để ý đến cậu ta đã ở đó bao lâu, có thể ai cũng nghĩ cậu ta đang lặn. Hai cậu kia bắt đầu lo lắng và tranh luận xem cậu ta đang bị cái gì. Bạn nên hiểu khi đó chúng tôi đều là những đứa trẻ, và đều lần đầu thấy sự việc như vậy. Tôi nhờ hai bạn gọi cho cứu hộ đến xem thử, còn mình lập tức lặn xuống chỗ cậu kia. Tôi nhớ khi đó đã vội thở ra rất nhiều để có thể chìm nhanh nhất xuống đáy, nên xuống đến nơi thì tôi hơi khó chịu vừa vì hết hơi, vừa vì sức ép của nước. May mắn là khi tôi vừa đẩy cậu ta đến mặt nước thì hai người cứu hộ đã lao đến vớt cậu ta, rồi đặt nằm ngửa trên cạnh hồ. Có lẽ hai người bạn kia đã gọi cứu hộ bằng cách la hét nên mọi người xung quanh biết chuyện và đến rất đông, có cả một người đàn ông có vẻ là cha. Trong khi người cứu hộ, mặc một chiếc áo màu vàng, đang thực hiện các thao tác hô hấp thì tôi nhớ cha cậu ta hết sức hoảng loạn và liên tục hỏi dồn dập liệu cậu ta đã thở chưa, cậu ta thế nào rồi. Đến đó thì tôi ra về, vì đầu một đứa trẻ lúc đó cũng hơi quá tải với những sự kiện vừa xảy ra. Về sau tôi không quay lại hồ, và gia đình tôi cũng không còn ở khu vực đó nữa.
Cho đến bây giờ dù đã nhiều năm, tôi chưa bao giờ tự hào hay cảm thấy ổn khi nghĩ về sự kiện đó. Đặc biệt sau khi lập gia đình, hình ảnh người cha hoảng loạn còn làm tôi ám ảnh hơn nữa. Khi nghĩ về việc đó, tất cả trong đầu tôi luôn là hình ảnh một cậu trai trạc tuổi, tóc đen, hơi dài, da ngăm, mặc chiếc quần bơi màu đen, nằm ngửa giữa rất đông người, và câu hỏi: “Cậu ta giờ có còn sống không?” Sau này khi đã lớn, tôi biết rằng, người đuối nước trong những phút đầu, họ bị nước tràn vào phổi, nó tạo ra một hỗn hợp gồm nước + không khí + dịch phổi chảy ra ngoài, nên mới tạo thành đám bọt nhuyễn như bọt kem đánh răng. Nếu bọt vẫn còn rõ và chưa tan đi, thì người đó chỉ mới chìm, khả năng vẫn còn sống. Đó là niềm an ủi duy nhất của tôi.
Theo quan điểm của tôi, như tôi đã phân tích từ đầu, một số người ra tay cứu nạn, họ bối rối khi truyền thông “lãng mạn hoá” họ, không phải vì khiêm tốn, mà bởi vì, những cảm xúc đó chưa bao giờ nằm trong suy nghĩ và tính cách của họ. Những ý tưởng emotional đó rất xa lạ đối với tính cách cognitive. Đôi khi họ có thể lờ mờ thấy được “nghĩa vụ” trong lời hàm ơn từ người khác, và họ bị áp lực. Đặc biệt, họ sẽ càng lộ rõ sự bối rối nếu càng thuộc giới bình dân, vì họ không thể fake nó được giỏi như những người quen tiếp xúc đám đông, giới showbiz, người mẫu, chính trị gia. Tôi đề cập đến việc này, không phải để hạ thấp giá trị của những người hùng. Thực ra, việc lan tỏa hành động đẹp, và “lãng mạn hóa” nó một chút (romanticize) để truyền cảm hứng, nhằm củng cố đạo đức trong cộng đồng, là điều mà mọi quốc gia trên thế giới đều đã, đang và nên làm.
Tôi đề cập đến việc này, là để bảo vệ cho họ, và là để chúng ta đừng quên cái mục đích chính của việc đem họ lên TV.
Lịch sử truyền thông cho thấy, nếu đám đông có thể tâng bốc, lãng mạn hóa một nhân vật lên tới trời, thì khi nhân vật đó, một người trần mắt thịt, mắc sai lầm trong cuộc sống, cũng chính đám đông đó sẽ bắt đầu bới móc, so sánh với cái bóng thần thánh năm xưa do chính họ tạo ra để kéo nhân vật đó xuống hố. Việc thấu hiểu một con người ngay cả khi xã hội cho rằng, “chỉ cần tôn vinh thôi chứ còn gì nữa mà cần thấu hiểu”, sẽ giúp chúng ta không chỉ tôn trọng họ, tôn trọng đời sống riêng tư của họ, mà còn tránh cho ta nghĩ về họ như một trò giải trí, một trend nhất thời, để rồi khi sự việc của họ lắng xuống, ta lại chuyển sang một trend khác, mà quên đi rằng, cái mục đích cuối cùng của những chương trình như vậy, là muốn bạn thực sự nghĩ về bản thân mình, nâng cấp bản thân mình, chứ không phải để giải trí bằng những ngôn từ đạo đức!
Nếu bạn hỏi tôi điều mong muốn nhất hiện giờ, thì tôi ước cậu trai kia còn sống, sống lương thiện, và nếu có thể, cậu ta cũng tiếp tục giúp đỡ một người nữa trong khả năng của mình, và người kia lại tiếp tục giúp một người nữa. Điều đó tạo thành một chuỗi, cứ thế dài ra, và nó không hữu ích hơn, không đẹp hơn, không ý nghĩa hơn nhiều cái việc cậu ta cứ mãi hàm ơn tôi hay sao? Giờ thì có lẽ bạn sẽ không khó hiểu nữa khi tôi nói rằng, tôi chỉ muốn biết tình trạng cậu ta, chứ không muốn gặp lại nữa. Bạn có thể tưởng tượng ra một cuộc gặp gỡ xúc động, nhưng đối với tôi, thực sự, nó chỉ mang đến một cảm giác khó chịu mà thôi.

4 con đường của một anh hùng

Như đã nói, tôi thích hiểu về bản thân mình, hơn là tìm niềm vui trong những cảm xúc hoa mỹ của xã hội. Tôi muốn biết cái gì khiến tôi chọn lặn xuống mà không do dự như hai người bạn.
Giáo sư khoa học chính trị Ari Kohen tại Đại học Nebraska–Lincoln, trong một nghiên cứu của mình khoảng năm 2017, đã đưa ra luận điểm nhằm lý giải nguồn gốc tạo ra hành động anh hùng của một cá nhân. Ông cho rằng nó xuất phát từ 4 con đường:
Một là, người đó phát triển một thứ “đồng cảm mở rộng”, tức là họ đồng cảm cả với những người xa lạ
Hai là, người đó từng tưởng tượng về những tình huống mà họ hành động một cách anh hùng (Ví dụ như trẻ em nó luôn nghĩ nó sẽ đánh bại kẻ xấu để cứu ai đó)
Ba là, người đó có kinh nghiệm chuyên môn, từng là cứu hộ, quân nhân, vận động viên…nghĩa là họ có trải nghiệm nào đó
Bốn là, người đó có thói quen giúp đỡ người khác hằng ngày
“Cái người có thể nhảy xuống cứu đứa trẻ đang chìm, hoặc là có kinh nghiệm cứu hộ, hoặc ít nhất, là một người bơi giỏi.” Ari Kohen nói.
Có lẽ, việc quen với môi trường nước là nguồn gốc chính cho hành động của tôi ngày hôm đó. Giả sử đó là một tai nạn giao thông, chưa chắc tôi đã nhảy vào, vì tôi không có kinh nghiệm. Còn với những anh hùng đời thường trên TV, có lẽ là do thường ngày, họ đã quen với việc giúp đỡ người khác dù là những việc vặt. Vậy là nhờ tìm hiểu một cách lý trí về nó thay vì sống trong những cảm xúc lãng mạn, giờ tôi biết được hai điều quan trọng:
Một là, có đến 3/4 con đường không cần đồng cảm quá nhiều để ra quyết định
Hai là, 3/4 con đường đó, là luyện tập được mà không cần điều kiện bẩm sinh
Bây giờ, thay vì tôn vinh sáo rỗng một người hùng, để rồi quên mất họ là ai vào ngày hôm sau, ta hoàn toàn có thể trở thành chính họ, hoặc đào tạo con cái mình cũng có sự quyết đoán như vậy, bằng cách tái tạo lại 3 con đường:
Học những lớp kỹ năng sơ cứu, cứu nạn đơn giản. Nếu bạn bơi tốt, hãy tập thêm lặn hoặc thử một lần tập kéo một người bạn đóng giả làm người bị nạn tại hồ (bơi một mình, kéo người đã đuối, và kéo người chưa đuối còn đang giãy là 3 chuyện rất khác nhau mà bạn nên thử qua) ⇒ Đó là con đường chuyên môn.
Thi thoảng ở những không gian lạ, hãy tưởng tượng trước một số tình huống có thể xảy ra, ví dụ thực tế nhất là khi bạn dắt gia đình bước vào một tòa nhà, khách sạn, trung tâm thương mại lớn và lạ, bạn nên hình dung được sơ cái cấu trúc của nó nhất là các lối ra và lối thoát hiểm, biết được cái phòng bạn đang ở, nó giáp với những gì xung quanh. Khi toàn bộ điện bị cúp, mặc dù đèn khẩn cấp vẫn sáng, nhưng nếu bạn vừa mù đường vừa đang hoảng loạn, thì đèn khẩn cấp nhiều khi cũng không có tác dụng mấy ⇒ Đó là con đường tưởng tượng, chuẩn bị trước.
Tập phản xạ giúp đỡ mọi người trong những việc tưởng chừng vặt vãnh nhất. Có thể bạn không tin, nhưng cái thằng xông ra đầu tiên giúp một bà già khổ sở dắt xe trong một đám tiệc đông đúc, khi tất cả mọi người còn đang do dự, sau này chính nó sẽ trở thành Spiderman và cứu cả một đoàn tàu. Nó có một cái tâm lý gọi là “người ngoài cuộc”, khi mà càng có đông người thì khả năng có một người xông ra giúp người bị nạn càng thấp, vì người này nhìn người kia và đánh giá nhau! Đó là lí do khi bạn đang bận tay cứu nạn và cần ai đó trong đám đông gọi cho cảnh sát/cứu thương, hãy chỉ đích danh một “anh áo xanh này” hay “chị áo đỏ kia” và bắt họ gọi, đừng bao giờ nói chung chung “ai đó hãy gọi đi”, sẽ không có ai gọi đâu ⇒ Đó là con đường thói quen giúp đỡ.
Có lẽ chúng ta làm tất cả những điều trên, không phải để chuẩn bị trở thành Spiderman của đám đông, để ngăn chặn Venom hay Doctor Octopus, mà đơn giản để trở thành anh hùng của chính gia đình mình là đủ. Tôi nghĩ nếu mỗi gia đình đều có một người như vậy, thì thật ra một năm chúng ta có thể cứu đến vài đoàn tàu, không chỉ một như Spiderman.
Dưới đây là một số ví dụ về hành vi quyết đoán dựa trên kỹ năng được đào tạo và thói quen giúp đỡ. Cậu bé Dillon Reeves học lớp 7 ở Michigan, rất nổi tiếng vào năm 2023. Khi người tài xế lái xe đưa đón học sinh không may qua đời đột ngột, thay vì hoảng loạn như các bạn, cậu quyết định lao lên đạp đúng vị trí thắng để dừng xe và yêu cầu các bạn gọi cho 911 (Như tôi đã nói, sẽ hoàn hảo nếu cậu chỉ đích danh ai đó cầm điện thoại lên gọi, nhưng đến đây cũng là quá tuyệt vời rồi). Cú đạp thắng giúp chiếc xe tránh đâm vào một xe khác phía trước.
Hunter Olsen, khoảng 15 tuổi, ở Utah, rất quyết đoán và bình tĩnh dùng nghiệm pháp Heimlich (Heimlich maneuver) cứu bạn mình, Jackson, khỏi hóc trong bữa ăn trưa tại trường, trong khi các bạn khác đang cười vì nghĩ sự việc không nghiêm trọng. Jackson không nói được nên đã chỉ vào cổ họng, và Hunter Olsen dùng kỹ năng mình học được ở khóa cứu nạn tại trường vào năm lớp 8 để giúp bạn.
Đỗ Tuấn Tú, 12 tuổi, ở Hà Nội, dùng nghiệm pháp Heimlich tự học để cứu em mình nuốt phải đồ chơi.

Hãy luôn giữ cho mọi thứ được cân bằng

Tôi quen một người bà, đã già và lẫn rất nặng.
Mỗi khi gặp tôi, cứ khoảng 30 phút, bà lại hỏi tôi đã có bạn gái chưa, đã lập gia đình chưa. Có lẽ là bị Alzheimer, nó khiến bà mất khả năng lưu trữ những thông tin mới, thành ra bộ não cứ như luôn bị reset lại. Tôi biết tình trạng của bà là không còn cải thiện được, và tôi cũng biết bà mong đợi cái gì khi hỏi, và tôi cũng biết nên trả lời ra sao để bà không hỏi thêm nữa, nên đã dùng sự cù nhây, sự “cognitive” của mình tương tác lại. Khi thì tôi nói tôi đã có gia đình, khi thì tôi nói đầu năm sau, khi lại nói mới có bạn gái tháng trước, lúc thì vợ tôi là nhân viên văn phòng, lúc thì bạn gái tôi làm thu ngân siêu thị. Luôn luôn hiệu quả. Mỗi lần như vậy, bà đều à à ừ ừ rất tâm đắc rồi thôi, nhưng vẫn quên mất sau 30 phút.
Có một lần, tôi thấy bà ngồi một mình ở ghế đá dưới một gốc cây lớn lắm. Bà cứ ngồi nhìn ra xa rồi mỉm cười một mình. Chắc là có cái kỷ niệm gì đó vui vui từ quá khứ, nó trốn tìm rồi chợt nhảy ra trong đầu bà. Tôi tới ngồi cạnh, thì bà đặt tay lên đùi tôi, nơi chỗ rách của cái quần jeans tôi mới mua, nhìn chằm chằm và thắc mắc rất nghiêm túc:
“Cháu leo cây ở đâu để rách hết quần rồi, lấy kim chỉ ra đây bà may lại cho…”
Tôi có thể phân tích được một người đang nghĩ gì, những nguyên nhân nào dẫn đến cấu trúc ngữ pháp sứt mẻ mà người đó sử dụng, trong lúc họ đang chửi rủa tôi. Tôi có thể nhận ra sự bất an, sự thiếu tự tin trong lập luận của một người dựa vào tần suất và vị trí mà người đó dùng biểu tượng “=)))” trong phần bình luận.
Nhưng trong những khoảnh khắc như này, sự phân tích đột nhiên không xuất hiện nữa. Tôi kiểu như bị quá tải nên không biết phải nói gì, chỉ đặt tay mình lên tay bà, thở dài để giải tỏa cảm xúc, và nghĩ, có lẽ không lâu nữa mình cũng sẽ giống bà. Khi đó, hi vọng mọi người cũng sẽ thông cảm cho tôi.
Đó là emotional empathy, sự đồng cảm cảm xúc.