Đây là sự đào sâu, có thể chưa quá sâu, vào hệ tư tưởng của người Việt Nam ta. Tránh rơi vào chủ nghĩa dân tộc. Từ đó có thể một lần nữa phát cuồng lên vì hệ tư tưởng dân tộc Việt Nam number one. Qua bài viết này, ta cần tránh đi vào cái vết xe đổ mà Liên Xô hay Stalin là đại diện cho điều đó. Chúng ta ắt hẳn, dù muốn hay không, đều nhớ cái chết của Leon Trostky hay Đại Thanh Trừng của Stalin, cả hai đều thể hiện ra được sự tàn nhẫn cũng như vô nhân của Stalin và bộ máy Liên Xô.
Ở đây, tôi không dùng bộ hồi ký của Trần Đức Thảo nhé, tôi dùng 3 quyển Tuyển tập của Trần Đức Thảo, cũng như quyển Hành Trình của Trần Đức Thảo.
Hành Trình Trần Đức Thảo
Hành Trình Trần Đức Thảo
Bộ Ba Quyển Trần Đức Thảo Tuyển Tập
Bộ Ba Quyển Trần Đức Thảo Tuyển Tập
Bài viết lần này sẽ cố gắng khách quan hết sức có thể.
1. Thời kỳ trước 1954
Đây là giai đoạn mà Nguyễn Ái Quốc hay chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu có những tư tưởng chống chủ nghĩa thực dân Pháp đầu tiên của mình, chỉ nói đến chủ tịch là vì ông có nhiều công lao và đã thành công trong việc thành lập tổ chức Việt Minh, tổ chức kháng chiến chống Thực dân Pháp ở Việt Nam, thứ mà sau này sẽ đánh đuổi Pháp khỏi Việt Nam, trở thành dấu mốc lịch sử hào hùng cho Việt Nam ta, Chiến Thắng Điện Biên Phủ.
Để nói về sự hình thành tư tưởng Marx trong thời gian này, mà cụ thể ở đây là tinh thần và chủ nghĩa yêu nước của các nhân sĩ trí thức khi nhìn thấy nước nhà và người dân nghèo bị lâm vào thế cùng cực, bị chèn ép bởi bọn thực dân man rợ. Tiêu biểu có thể kể đến một số cái tên như Huỳnh Thúc Kháng, Phan Bội Châu, Đào Duy Anh, Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Phan Chu Trinh, Trần Đức Thảo,…Tuy nhiên, theo như sử liệu nhà nước ghi lại, hầu hết các phong trào yêu nước lúc ban đầu đều thiếu thống nhất về mặt tư tưởng cũng như lực lượng, tiêu biểu cho điều này có thể kể đến là phong trào của Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh, nên việc Việt Minh xuất hiện là điều tất yếu, vì đảng Ta là đảng hoạt động mạnh nhất cũng như có phong trào yêu nước mạnh nhất ở Đông Dương thời bấy giờ, đảng xuất hiện nhằm mục đích để thống nhất các đảng phái đối lập khác nhau, cũng chống thực dân xâm lược.  
Theo các văn kiện của Đảng và Nhà Nước, lúc này là lúc mà Nguyễn Ái Quốc hay chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu đi tìm đường cứu nước, có thể hiểu nôm na là tìm lấy cho dân tộc một tư tưởng phù hợp, có thể đánh đuổi và chống lại chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách thống trị của thực dân Pháp thời bấy giờ, cũng như hợp nhất các tư tưởng chủ nghĩa chống Pháp thời bấy giờ, và tư tưởng mà chủ tịch đã mang về, khi đang còn ở bên Pháp, không gì khác hơn là chủ nghĩa Marx – Lenin, thứ chủ nghĩa được hợp nhất lại từ tư tưởng của Marx và tư tưởng của Lenin, mà theo một số sử liệu khác nữa, lại là do Stalin viết và tạo nên.
Để phân tích và có cái nhìn tốt nhất về con người Stalin, thì tốt nhất không nên đọc thơ của Tố Hữu, mà ta nên đọc một số cuốn sách có liên quan đến vị lãnh tụ tối cao của Liên Xô này, tiêu biểu có thể kể đến là Stalinist Terror, biên tập bởi J.Arch Getty, ngoài ra các bạn có thể tham khảo danh sách đọc của đại học Yale cũng như của Oxford về Stalin, tôi sẽ để link ở cuối bài viết.
Đây là bài báo nói về việc chủ nghĩa mà chủ tịch Hồ Chí Minh nước ta đã mang về là chủ nghĩa Marx – Lenin.
Đây là giai đoạn mà Việt Minh được thành lập, theo như sách Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam, Đảng Cộng Sản Việt Nam được thành lập vào 3 – 2 – 1930, tại Hong Kong, dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, cùng nhiều đảng viên yêu nước khác.
Khi chủ nghĩa Marx – Lenin này được mang về Việt Nam và được truyền bá, nó đã gây ra được tiếng vang rất lớn trong giới trí thức và những người có học chống thực dân thời bấy giờ, bởi vì quan điểm của nó về bình đẳng, bác ái, và tiến bộ, cũng như cam kết  của nó về một cuộc sống tốt đẹp cho người dân của các nước thuộc địa sau khi chủ nghĩa thực dân bị lật đổ, tác phẩm nổi tiếng nhất chịu ảnh hưởng của Marx – Lenin của chủ tịch Hồ Chí Minh có thể kể đến là Đường Kách Mệnh.
Tinh thần này đã lan tỏa tới rất nhiều nhà yêu nước khác, họ đã đi theo chủ tịch Hồ Chí Minh và làm việc cùng ông, như Trần Đức Thảo, điều này có thể thấy trong bài báo chống thực dân mà ông viết cho Sartre và Ponty, ông đã ca ngợi chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài báo này, rằng Hồ Chí Minh là nhà lãnh đạo vĩ đại đến thế nào, và Trần Đức Thảo nguyện về nước cùng Hồ Chí Minh tham gia kháng chiến chống lại thực dân Pháp, có thể tìm thấy điều này trong Trần Đức Thảo, Tuyển tập 1 của ông, một số cái tên lớn khác có thể kể đến như Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Chu Đình Xương, Cao Xuân Huy, Trần Dần, Bùi Giáng, Văn Cao, Trường Chinh, Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Khắc Viện, Trần Văn Giàu, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Huy Liệu, Đào Duy Anh….
Dưới sự chỉ dẫn của chủ nghĩa Marx – Lenin, các nhân sĩ trí thức đã tập hợp lại dưới bàn tay của chủ tịch Hồ Chí Minh, và cùng nhau nghĩ ra các phương kế, kế sách để chuẩn bị cho các cuộc tiến công chống lại chủ nghĩa thực dân trong tương lai.
Các chiến thắng có thể kể đến là việc lật đổ phát xít Nhật ở Việt Nam, cũng như chiến thắng Điện Biên Phủ, dưới sự chỉ huy của tướng Võ Nguyên Giáp, vị tướng đại tài trong lịch sử quân sự Việt Nam ta.
Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của nước ta, được chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu trước toàn thể người dân vào ngày 2 – 9 – 1945 đã đánh dấu mốc cho sự độc lập đầu tiên của Việt Nam khỏi tay chủ nghĩa thực dân.
Đây là lúc mà chủ nghĩa Marx – Lenin được thể hiện hết ý nghĩa và sức mạnh của nó, từ tinh thần cho tới giai cấp, việc vận dụng Marx – Lenin trong việc vận động vũ trang, kêu gọi quần chúng và giới trí thức tham gia vào kháng chiến, khơi dậy nhận thức giai cấp và thu hút phần lớn dân số nghèo đói tham gia vào cách mạng, là điều tốt nhất và thành công nhất của chủ nghĩa Marx – Lenin (Mác Lenin) vào lúc này.
Sau giai đoạn này là giai đoạn Đảng Ta bắt đầu công cuộc cải cách xây dựng chủ nghĩa Xã Hội ở miền Bắc Việt Nam nước ta. Kể từ đây, năm 1954 bắt đầu trong lịch sử nước ta. Năm này sẽ là năm mà tôi viết hết sức khách quan. Mặc dù tôi đã khẳng định là bài viết này sẽ khách quan hết sức có thể rồi.
2) Năm 1954
Đây là năm mà chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu áp dụng hệ tư tưởng Marx – Lenin vào công cuộc xây dựng nhà nước và đất nước Việt Nam ta. Dưới sự trợ giúp của hai ông lớn trong chủ nghĩa Marx – Lenin khác là Liên Xô và Trung Quốc. Trong tập 3, bộ Tuyển Tập Trần Đức Thảo, thì Trần Đức Thảo đã chỉ ra những mặt sai lầm và hạn chế trong chủ nghĩa Marx – Lenin thời kỳ này, nghĩa là nó không còn mang dáng dấp của chủ nghĩa Marx – Lenin lúc ban đầu nữa, mà thay vào đó, nó đã biến tướng thành một hệ tư tưởng mang tính toàn trị, mà Stalin là người đã thiết kế và góp phần cho nó. Tệ nhất của nó là nạn sùng bái cá nhân, tôn sùng lãnh đạo mà như ta có thể thấy ở Liên Xô và Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông thời kỳ này. Tại sao sùng bái cá nhân lại là điều nguy hiểm, vì nó góp phần tôn sùng hình ảnh của một người lãnh đạo lên mức thần thánh, chính điều này có thể dẫn tới mất dân chủ, và chủ nghĩa Phát Xít cũng là sự tượng trưng cho nó.  
Hai sự kiện lớn của nước ta lúc này chính là việc hàng chục nghìn người Bắc di cư vào Nam vào những năm 1954, cũng như Cải Cách Ruộng Đất diễn ra ở miền Bắc.
Sự kiện thứ nhất thì phần lớn là giai cấp địa chủ, tư sản không thích ý thức hệ Marx – Lenin của chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng như họ là những người tin vào thông điệp của Mỹ về một cuộc sống dân chủ, tự do hơn ở Miền Nam, và những lời hứa đảm bảo về mặt tài sản cho họ. Theo tôi biết là vậy.
Sự kiện thứ hai, là sự kiện thê thảm nhất trong việc áp dụng những lý luận Marxist của Đảng vào việc giải phóng, lấy đất của địa chủ chia cho dân cày nghèo, tôi xin làm rõ ở đây.
Cuộc cải cách ruộng đất này chịu ảnh hưởng phần lớn từ chủ nghĩa Lý luận không có con người của Louis Althusser.
Chủ nghĩa lý luận không có con người là gì? Một là các bạn có thể đọc nó thông qua góc nhìn của Trần Đức Thảo, một người đã đọc Marx bằng tiếng Pháp dịch từ tiếng Đức, chứ không phải là tiếng Nga, trong tập 3 bộ tuyển tập của ông, thứ hai là bạn có thể đọc cuốn Reading Capital do chính tay Louis Althusser viết, nó hoàn toàn miễn phí trên trang Marxist Internet Archive.
Hiểu một cách đơn giản thôi, đó là sự lý luận không có con người trong đó, nghĩa là lý luận không nhìn thấy con người trong sự làm ra con người, trong sự làm ra lịch sử con người, và chỉ bó hẹp tất cả vào vấn đề giai cấp mà thôi, và khi giải phóng giai cấp, chỉ nhìn thấy cái giai cấp, chứ không thấy con người thuộc về giai cấp đó.
Điều này có nghĩa là gì? Khi mà ta coi tất cả những gì thuộc về tư sản hay địa chủ, đều là xấu hết?
Ở đây, Trần Đức Thảo bắt đầu trích dẫn các đoạn trong quyển Tư Bản, tập 1, của Karl Marx, tất nhiên là viết bằng tiếng Pháp, đầu tiên, đó là nói về việc Marx không tô hồng những người địa chủ hay tư sản, nhưng ở đây chỉ tính đến những nhân vị, chừng nào họ đại diện cho các phạm trù kinh tế và thuộc về một mối quan hệ giai cấp.
Điều này có nghĩa là gì?
Nghĩa là Những người địa chủ, tư sản nào là sự thể hiện ra một mặt của hệ thống tư bản, cũng như là thuộc một tập đoàn tư bản nhất định trong xã hội nơi phân chia giai cấp bóc lột và bị bóc lột đang hiện hành, thì những người này mới là những người cần được “cách mạng hóa”. Còn những người địa chủ, tư sản khác, nằm bên ngoài phạm vi này, thì không tính.
Phần lớn địa chủ, tư sản trong cách mạng đều ngả theo Việt Minh và đứng về phía nông dân nghèo, đến đây thì lại tiếp đến một câu khác của Marx bằng tiếng Pháp cũng được Trần Đức Thảo trích dẫn, trong tập 3, phần lý luận không có con người, nội dung của nó là: Không tính đến những người tư sản, địa chủ đã hòa vào làm một với giai cấp bị bóc lột, và đứng về phía họ.
Qua đó cho thấy việc cải cách ruộng đất đã sai với lý luận của Marx, và càng cho thấy rõ nữa, chủ nghĩa Marx – Lenin không đơn thuần chỉ là chủ nghĩa Marx. Đó là chủ nghĩa Stalin. Nghĩa là chủ nghĩa Marx – Lenin được phát triển bởi Stalin là chính, và đã bị bóp méo bởi Stalin, nghĩa là hệ tư tưởng của Việt Nam đã bắt đầu mang tính toàn trị từ đây.
Tất nhiên giai đoạn chiến tranh Việt Nam là giai đoạn mà Việt Nam ta nên đánh đuổi chủ nghĩa Đế Quốc của Mỹ, nhưng đồng thời ta cũng nên biết là Stalinism vẫn còn ảnh hưởng lên nước ta trong giai đoạn này. Nên cuộc chiến mà ta đã chiến đấu, nó không phải nội chiến, nó là cuộc chiến bị ảnh hưởng bởi chiến tranh Lạnh.