img_0
Đối với những người yêu công nghệ, có lẽ không còn quá xa lạ gì với cái tên thung lũng Silicon (Silicon Valley) ở Hoa Kỳ, biểu tượng của sự phát triển công nghệ cao, nơi tập hợp của các ông lớn công nghệ với 39 doanh nghiệp (Apple, Alphabet Intel...) nằm trong Fortune 1000 (danh sách 1000 doanh nghiệp lớn nhất toàn cầu ở tất cả các lĩnh vực) và hàng ngàn startup với các đột phá công nghệ đều hội tụ tại một khu vực nhỏ của bang California. Tuy nhiên nguồn gốc của tượng đài công nghệ nước Mỹ này lại có khá nhiều sự khác biệt so với nó của bây giờ, câu chuyện mang nhiều màu sắc của không chỉ công nghệ mà còn đó là chính trị và chiến tranh. Trong bài viết này, ta hãy cùng nhau lui về hơn 100 năm trước để xem vùng đất này đã thay đổi ngoạn ngục một cách chóng mặt như thế nào để trở thành một thung lũng công nghệ cao như bây giờ, tìm hiểu xem liệu sự thịnh vượng trên có phải là ngẫu nhiên hay đó là nỗ lực của một cuộc cách mạng. Không chờ đợi nữa, bây giờ mời bạn quay về cuối thế kỷ 19 để cùng tôi khám phá.

Santa Clara - Vựa trái cây của nước Mỹ

img_1
Hình ảnh các bạn thấy ở trên chính là vùng đất công nghệ cao ngày nay của nước Mỹ nhưng ở thời điểm hơn 100 năm trước, tọa lạc tại phía Nam của Vịnh San Francisco, bao bọc bởi 2 dãy núi cao trung bình dưới 1000 mét là Santa Cruz và Diablo, thung lũng Santa Clara từng là một nơi cực kỳ phù hợp với nông nghiệp và trồng trái cây với các cánh đồng bạt ngàn các loại trái cây ôn đới như táo, mơ, cherry… Có thời kỳ cao điểm vào đầu thế kỷ 20, nơi đây là vùng đất của gần 8 triệu cây ăn quả các loại, tạo ra một khung cảnh cực kỳ màu sắc, thơ mộng nên Santa Clara còn được gọi bằng một cái tên rất thân thương là “thung lũng trái tim thơ mộng” (The Valley of Heart’s Delight). Chưa kể, với sự ảnh hưởng của cơn sốt vàng tại bang California (cũng là nơi tọa lạc của thung lũng Santa Clara) năm 1848, dân số của bang California đã tăng lên từ dưới 20.000 người lên thành gần 400.000 người vào năm 1855 đưa nơi đây thành một nơi cực kỳ nhộn nhịp với sự giàu có từ vàng và các ngành nghề khác. 
Leland Stanford (1824-1893)
Leland Stanford (1824-1893)
Một trong số những doanh nhân giàu có và có sức ảnh hưởng nhất về sau trong giai đoạn này chính là Leland Stanford (1824-1893). Ông không phải đối tượng giàu nhờ phụ thuộc chủ yếu vào vàng ở California như một số đối tượng khác, thay vào đó, ông trở thành người đứng đầu và được xem như ông trùm của ngành công nghiệp đường sắt trong thời đại giữa thế kỷ 19 với tuyến đường sắt xuyên lục địa đầu tiên của Hoa Kỳ do công ty Đường sắt Trung Thái Bình Dương của ông thực hiện. Công trình này được xem như bước cách mạng của Hoa Kỳ khi nó lần đầu nối bờ Tây và bờ Đông thành tuyến đường sắt giúp thúc đẩy giao thương một cách hiệu quả và đưa quá trình di cư lên một xu hướng nhanh chóng chưa từng có. Nhờ những thứ ấy giúp Leland Stanford không chỉ có số tiền khổng lồ mà còn có sức mạnh chính trị với việc ông được trở thành Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ từ 1885 đến khi ông qua đời.
Cậu con trai duy nhất của gia đình nhà Stanford
Cậu con trai duy nhất của gia đình nhà Stanford
Tuy nhiên, với sự nghiệp lẫy lừng và đồ sộ của mình trong ngành công nghiệp và chính trị là như vậy, vợ chồng nhà Stanford đã phải trải qua một biến cố lớn khi người con trai duy nhất Leland Stanford Jr. qua đời ở tuổi 15 vì một căn bệnh sốt nghiêm trọng. Để tưởng nhớ người con cũng như tạo ra một cơ sở giáo dục cho xã hội. Leland và vợ là Jane Stanford đã cùng nhau tiến hành dự án xây dựng một ngôi trường đại học theo tên người con trai vào năm 1885 - Đại học Leland Stanford Jr hay ta còn biết đến ngày nay với một cái tên ngắn gọn hơn đó là Đại học Stanford tại Palo Alto, California cách Santa Clara mà tôi nhắc đến ở trên chưa tới 16 dặm. Chúng ta cần hết sức chú ý vào ngôi trường này vì nó là một trong những nơi khai sinh ra một nền tảng cách mạng cho ngành giáo dục đại học Hoa Kỳ cũng như là cách mạng cho nền công nghệ toàn cầu.
img_2

Đại học Stanford - Nơi tạo ra thứ hữu dụng với thế giới

Ta hãy cùng nhau đặt lên bàn cân với nhóm 8 trường đại học tư thục ở Đông Bắc Hoa Kỳ vào thời điểm đó (hay ngày nay ta còn biết chúng với cái tên rất “sang” đó là các trường IVY League). So với đại học Stanford, thì khối 8 trường trên đều có tuổi đời từ hơn 100 năm đến vài chục năm tính từ khi ngôi trường tại California được hoàn thành. Thêm vào đó, Stanford cũng chọn đi theo đường lối giáo dục riêng khi thay vì đào tạo các ngành khoa học xã hội để đáp ứng nhân lực về luật sư, chính trị gia cho nước Mỹ, ngôi trường này ưu tiên vào khoa học công nghệ, đào tạo các kỹ sư chất lượng và các đột phá công nghệ vượt trội. 
Tuy nhiên chưa được bao lâu, đến năm 1929, thảm họa kinh tế toàn cầu mang tên Cuộc Đại Khủng Hoảng (The Great Depression) bùng nổ tại nước Mỹ, tôi sẽ nói sâu về cuộc đại khủng hoảng này ở một bài viết trong tương lai, còn hiện tại tôi sẽ nói đến các tác động của nó đến với đại học Stanford. Đầu tiên, chắc chắn chính là về quỹ tài trợ cho nhà trường, việc cắt giảm hơn 40% tiền tài trợ của chính phủ từ năm 1929 đến 1932 đã khiến cho các hoạt động nghiên cứu hay thậm chí là bảo trì cơ sở vật chất cũng là rất khó khăn. Chưa kể, các gia đình cũng trở nên khó khăn trong việc tiếp tục chuyện học của con mình cũng đã xin thôi học khiến số lượng sinh viên giảm đến 15% trong đầu thập niên 1930. 
Tuy nhiên, “ống thở” dành cho đại học Stanford bắt đầu đến vào năm 1939, thời điểm ở châu Âu cách đó một đại dương đang xảy ra cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2 đầy khốc liệt. Tại đây, những sự thay đổi trong không chỉ hệ tư tưởng phát xít mà còn là các học thuyết chiến tranh đã đưa việc tạo lợi thế và kiểm soát trên không trở thành mục tiêu tranh giành của các nước tham gia chiến tranh để giành phần thắng của phe Đồng Minh (trong đó có Hoa Kỳ). Mỹ tiến hành nghiên cứu và chế tạo radar phòng không với các dự án nghiên cứu và phát triển do một giáo sư kỹ thuật điện được bổ nhiệm lãnh đạo, ông tên là Vannevar Bush, người đứng đầu của Văn phòng Nghiên cứu và Phát triển Khoa học Hoa Kỳ (OSRD) và là người chịu trách nhiệm cho các phát minh của Bộ Không Quân Hoa Kỳ. Ông cũng thành lập RRL (tên viết tắt của Phòng thí nghiệm nghiên cứu vô tuyến) tại đại học Harvard với hàng trăm cựu sinh viên tại các trường đại học khác nhau.
Sau nhiều thành công với các thiết bị định vị và Radar phòng không cung cấp cho Hoa Kỳ và quân Đồng Minh, Bush quyết định thông qua OSRD và chính phủ cho phép văn phòng nghiên cứu và phát triển khoa học hợp tác với các trường đại học để tạo ra các nghiên cứu khoa học phục vụ cho chiến tranh với nguồn tài trợ dồi dào của chính phủ.  Đây chính là chiếc ống thở mà tôi nói đến dành cho đại học Stanford, nhưng vẫn là chưa đủ vì ảnh hưởng của đại học này vẫn còn đang quá yếu ớt nếu so với các đối trọng khác như MIT và Harvard được chính phủ ưu tiên hơn đáng kể. Tuy nhiên nhờ sự kiện này mà đại học Stanford cũng phần nào được kết nối lại với nguồn tài trợ của chính phủ và duy trì hoạt động của trường đến hết chiến tranh thế giới thứ II. Bước ngoặt vẫn đang chờ một người có tầm vóc quay lại Stanford thực hiện.

Terman - Nhà cách mạng giáo dục cho những người làm khoa học

Frederick Terman (1900-1982)
Frederick Terman (1900-1982)
Sau giai đoạn chiến tranh thế giới thứ 2, một trong những người từng đầu quân cho Bush ở RRL là Frederick Terman - một cựu sinh viên của đại học Stanford về làm viện trưởng của trường kỹ thuật nơi đây. Hãy tìm hiểu một chút về lai lịch của người đàn ông này. Năm 1925, Terman gia nhập đội ngũ giảng viên của trường đại học Stanford tại khoa Kỹ thuật Điện sau khi hoàn thành tiến sĩ tại Viện công nghệ Massachusetts (MIT). Sự nổi bật trong nghiên cứu và giảng dạy của mình về lĩnh vực Radio và Viễn thông đã giúp ông lọt vào tầm ngắm của Bush và làm việc tại RRL như chúng ta đã biết ở trên vào năm 1941. Sau đó 4 năm, vào thời điểm chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, Terman quay lại trường và nhanh chóng leo lên vị trí viện trưởng Trường kỹ thuật Stanford và sau đó là Phó Hiệu trưởng nghiên cứu.
Sau thế chiến thứ II, một cuộc chiến nổi tiếng khác cũng đã diễn ra đó là Chiến tranh lạnh dựa nước Mỹ và đối trọng Liên Xô. Trong viễn cảnh lúc bấy giờ, Liên Xô đã thực hiện hóa được các phát minh trọng yếu trong nền khoa học quân sự đến từ đối trọng lớn nhất của Hoa Kỳ. Nổi tiếng là quả bom Sa Hoàng và tên lửa đạn đạo xuyên lục địa R-7 được Liên Xô thử nghiệm thành công gieo rắc sự sợ hãi và dè chừng đến từ xứ cờ Hoa. Với mục tiêu ban đầu ngay từ khi thành lập là tập trung vào khoa học công nghệ và phát triển những thứ có ích cho nước Mỹ và thế giới, Terman nhận thấy đây là cơ hội để đại học Stanford vươn lên làm đầu tàu cho các phát minh của nước Mỹ về cả khoa học quân sự và công nghệ. 
Tận dụng sự hiệu quả trước đó từ chính sách hợp tác giữa OSRD và các trường đại học, không khó để có thể Terman dẫn dắt trường kỹ thuật Stanford đàm phán và thuyết phục các chính phủ và các bên khác về việc xây dựng hàng loạt các cơ sở vật chất nghiên cứu và chế tạo mà ta sẽ biết ở phần sau. Dẫu mọi thứ đã trông có vẻ đầy đủ, mối quan hệ với chính phủ, doanh nghiệp, cơ sở vật chất, hạ tầng và cả trí óc con người không phải là tất cả; Terman cho rằng có một thứ còn quan trọng hơn để có thể đưa những gì trường đại học có thể cung cấp (đó là lý thuyết hay các sản phẩm đến từ phòng thí nghiệm) trở thành một thứ mà thế giới có thể sử dụng được. Đó chính là một cơ chế hợp tác giữa ý tưởng đổi mới sáng tạo của các trường đại học và tiềm lực kinh tế, quá trình ứng dụng của các doanh nghiệp. Điều này tạo ra một sự tối ưu về tài nguyên giữa các trường đại học, chính phủ và doanh nghiệp, khiến không một đồng tiền hay ý tưởng hay nào bị bỏ phí khỏi việc ứng dụng. Ta hãy cùng nhau đi qua một số yêu cầu và khuyến khích của Terman trong thời gian này.
Đầu tiên, ông tích cực khuyến khích các giảng viên và sinh viên tham gia vào các dự án thực tế với doanh nghiệp. Thúc đẩy việc thay vì trở thành nghiên cứu sinh hay các giáo sư phòng thí nghiệm, những đối tượng trên được Terman khuyến khích trở thành các thực tập sinh nghiên cứu các vấn đề của doanh nghiệp còn những giảng viên thì ký hợp đồng trở thành các cố vấn kỹ thuật hay khoa học cho họ.
Tiếp theo, về kinh phí, Terman chuyển đổi mục đích sử dụng và cách phân bổ từ chủ yếu vào phòng lab sang đổ vào các sáng kiến, ý tưởng kinh doanh công nghệ của các sinh viên với một sự hào phóng đáng kinh ngạc. Chưa hết, “vị viện trưởng tham vọng” còn thành công dành được quỹ đất và xây dựng nên Stanford Research Park, một công viên công nghệ chào đón tất cả các doanh nghiệp hiện đại không kể ngành nghề từ công nghệ, công nghiệp hay thậm chí là quân sự.
Bill Hewlett và Dave Packard (Stanford Class of 1938)
Bill Hewlett và Dave Packard (Stanford Class of 1938)
Với những đổi mới và sáng tạo đến từ vị viện trưởng này, trường đại học Stanford dần đều đặn có những lớp tài năng trong không chỉ giới khoa học mà còn ở giới doanh nghiệp. Nổi tiếng trong số đó có hai cậu sinh viên được Terman cố vấn và giảng dạy trước khi ông làm viện trưởng là Bill Hewlett và Dave Packard thuộc niên khóa 1934-1938. Họ đã chế tạo ra thiết bị phát tín hiệu âm thanh dùng trong kiểm tra thiết bị điện tử. Chỉ một năm sau khi ra trường, tại một garage tại Palo Alto, họ mở ra một cửa hàng điện tử mà sau này người ta vẫn đặt tên cho nơi đó là The Birthplace of Silicon Valley (Nơi khai sinh của thung lũng Silicon) - cửa hàng điện tử đó đã phát triển thành một cái tên khá quen thuộc mà ta vẫn biết ngày nay đó là công ty Hewlett-Packard hay ngắn gọn hơn đó là HP. 
Căn Garage của HP - nơi “khai sinh” thung lũng Silicon
Căn Garage của HP - nơi “khai sinh” thung lũng Silicon
Tấm biển đặt trước căn nhà của 2 nhà sáng lập HP bởi chính phủ California
Tấm biển đặt trước căn nhà của 2 nhà sáng lập HP bởi chính phủ California
Một fun fact thú vị cho các bạn đó là nếu Packard thắng trong 1 ván tung đồng xu tại căn nhà để xe tại Palo Alto đó thì có lẽ bây giờ ta sẽ phải đọc tên công ty này là PH (Packard-Hewlett) thay vì là HP rồi.
Quay trở lại với công ty này, vào những năm 1950, Terman đã đề xuất với 2 cậu học trò cũ về việc dời trụ sở công ty về khu vực Stanford Research Park với mục tiêu mở rộng quy mô nhờ những cơ sở vật chất của trường đại học cung cấp, ngoài ra còn có những doanh nghiệp khác cũng là sản phẩm của sinh viên Stanford được mời về đây với điển hình là Varian Associates của 2 anh em nhà Varian hoạt động trong lĩnh vực vi sóng và máy cộng hưởng từ xây dựng nền móng cho một thung lũng công nghệ cao tại đây.
Về sau cả hai doanh nghiệp này tận dụng mối quan hệ của Terman đều đã mở rộng hoạt động sang lĩnh vực quân sự và khoa học quốc phòng, nghiên cứu các giải pháp công nghệ gia tăng sức mạnh cho quân đội và bộ quốc phòng Hoa Kỳ, trở thành một trong các đầu tàu, bộ mặt cho sự phát triển của Hoa Kỳ trong giai đoạn chiến tranh lạnh với Liên Xô và được chính phủ tài trợ rất nhiều tiền cho các dự án trên. Nhờ đó mà HP và Varian Associates trở thành những gã khổng lồ tại thung lũng Santa Clara và giúp phần nào nâng tầm bộ mặt của đại học Stanford nói riêng và khu vực California nói chung. Kể từ đây, gần một thế kỷ kể từ cơn sốt vàng, người dân lại một lần nữa đồ về California và thung lũng Santa Clara để lập nghiệp nhưng lần này ở trong một lĩnh vực hiện đại hơn. Bấy giờ ngôi trường Stanford đã có hẳn 2 gương mặt cực kỳ sáng lạn và điển hình cho những người thành công trong lĩnh vực “khởi nghiệp khoa học”, ban lãnh đạo và đặc biệt là Frederick Terman sẽ không thể nào dừng lại để tận hưởng thành quả được, họ phải biến đây trở thành thế hệ đầu tiên, và sau đó các thế hệ thứ 2 3 và hơn thế sẽ phải được tiếp tục hình thành, và đó là lúc ta dần thấy được một tập hợp công nghệ cao sắp được bùng nổ.

Chất bán dẫn - Khi công nghệ mới cập bến California

Sau sự thành công của HP và Varian Associates, những cựu sinh viên của Stanford với niềm đam mê và tinh thần khởi nghiệp tại 2 gã khổng lồ này tiếp tục hỗ trợ trường đại học cũ của mình bằng cách hợp tác với các công ty khởi nghiệp của các sinh viên Stanford cho đến khi chúng trở nên ổn định và có tiếng nói, quá trình này được tiếp nối và kéo dài đến nhiều thế hệ công ty khởi nghiệp tiếp theo. Cụ thể, HP, Varian và các công ty khác sẽ hỗ trợ bằng các “vườn ươm” công nghệ (nổi tiếng có thể kể đến StartX) dành cho các công ty khởi nghiệp của sinh viên Stanford. Tại đây, họ có thể phát triển trong một môi trường dồi dào sự hỗ trợ về mặt tài chính, kinh doanh và kỹ thuật. 
Chính nhờ sự hợp tác và giúp đỡ của các thế hệ tiền nhiệm Stanford đã khiến mạng lưới các công ty đến từ trường đại học này “chia sẻ một DNA chung” và tạo ra nét rất riêng cho một hệ sinh thái các doanh nghiệp ở thung lũng Santa Clara với những người tiên phong là HP và Varian Associates. Không chỉ kích thích được sự phát triển của các công ty khởi nghiệp và cứ như vậy, các startup bắt đầu được sinh ra như nấm mọc sau mưa tại khu vực này. Chính sự độc đáo và tính liên kết cao đã thu hút được các công ty và nhà sáng lập nổi tiếng như General Electric và nhà vật lý William Shockey.
William Shockley - cha đẻ của công nghệ bán dẫn
William Shockley - cha đẻ của công nghệ bán dẫn
Trước khi chúng ta tiếp tục với nhà vật lý này, ta hãy cùng nhau đi tìm hiểu một thứ cực kỳ quan trọng được phát hiện đó là chất bán dẫn và transistor, một phát minh được sinh ra tại phòng thí nghiệm Bell thuộc New Jersey tại bờ Đông của nước Mỹ. Dẫu là một người tầm cỡ làm việc trong một phòng thí nghiệm cũng tầm cỡ không kém nhưng Shockley vì không chịu được phong cách làm việc của các đồng nghiệp. Các tranh cãi về đóng góp và ý kiến chuyên môn cộng thêm việc người mẹ già của ông đang ốm nặng đã khiến Shockley bỏ đi khỏi phòng thí nghiệm Bell và đi đến bang California để thực hiện kế hoạch riêng cũng như chăm sóc người thân. Thông tin về sự cập bến của nhà khoa học vĩ đại nhất nước Mỹ khi đó đã khiến vị viện trưởng Terman cảm thấy cực kỳ hứng thú với một người chất lượng như Shockley lại có mặt tại đây và có đủ khả năng làm một nhân tố quan trọng trong kế hoạch xây dựng của ông. Chỉ ngay trong năm khi ông chuyển đến tiểu bang này, Shockley đã thành lập Shockley Semiconductor tại Mountain View, cách khuôn viên cua đại học Stanford không tới 10 dặm khiến công ty của ông có rất nhiều sinh viên và cựu sinh viên Stanford đến làm việc và đóng góp. 
Nơi đây có lẽ sẽ không có gì quá đặc biệt nếu Shockley không bộc lộ tính cách quá độc đoán, độc tài trong việc quản lý các nhân sự của mình. Cụ thể hơn, theo chia sẻ của một số nhân sự tại đây, Shockley thường xuyên đặt họ vào những bài kiểm tra theo một cách quái đản, có cả kiểm tra về trí tuệ, tâm lý và thậm chí là kiểm tra nói dối, ông còn ghi âm tất cả các cuộc gọi điện thoại của nhân viên mình để tránh việc họ có khả năng trộm mất ý tưởng sáng chế của ông. Sự điên cuồng này đã khiến các nhân viên vỡ mộng trong việc đầu quân cho một nhà vật tài ba như Shockley và giọt nước tràn ly trong sự kiện này là việc 8 người rời khỏi Shockley Semiconductor vả ấp ủ các dự định thành lập công ty riêng vào năm 1957. Về sau ta được biết nhóm người này qua một tên gọi nghe rất nguyền rủa đến từ Shockley đó là 8 Kẻ Phản Bội. 
8 kẻ phản bội của Shockley: Julius Blank, Victor Grinich, Jean Hoerni, Eugene, Kleiner, Jay Last, Gordon Moore, Robert Noyce, Sheldon Roberts
8 kẻ phản bội của Shockley: Julius Blank, Victor Grinich, Jean Hoerni, Eugene, Kleiner, Jay Last, Gordon Moore, Robert Noyce, Sheldon Roberts
Nói là ly khai nhưng nhóm 8 cựu nhân viên của Shockley chỉ chọn địa điểm làm việc cách công ty của ông chủ cũ chỉ 12 dãy nhà. Họ bắt đầu hình thành một ý tưởng kinh doanh bán dẫn giống như ông chủ của mình nhưng theo một bước ngoặt khác: Thời điểm làm việc tại Shockley Semiconductor, các transistor đều được sản xuất bằng Germanium nhưng Shockley đã thành lập một nhóm nghiên cứu tại phòng nghiên cứu bán dẫn của ông là 5 trong 8 kẻ phản bội trên về việc thử nghiệm đưa Silicon và thay thế vật liệu cũ trong việc gia công bóng bán dẫn. Nhờ những năm tháng làm việc cho Shockley đã giúp họ có được những kiến thức và ý tưởng rất tốt trong việc cách mạng nền công nghệ thế giới và hình thành được ý tưởng kinh doanh. Tuy nhiên, những điểm yếu của các sinh viên khoa học chỉ vừa mới tốt nghiệp đã dần lộ rõ, họ không có sự rõ ràng trong việc làm thế nào để xây dựng một doanh nghiệp và điều quan trọng nhất đó là vốn đầu tư. Trong hoàn cảnh công nghệ bán dẫn thời đó vẫn chỉ đang được thực hiện kinh doanh bởi Shockley và còn quá mới, chẳng có bất kỳ ai sẵn sàng đầu tư cho một nhóm chỉ vừa mới ly khai và thậm chí còn chẳng biết gì về kinh doanh.
Tuy nhiên trong mớ bòng bong khó khăn đó, bước ngoặt xảy ra khi nhóm viết thư gửi đến công ty Hayden, Stone - một công ty đầu tư nhưng với mục đích ban đầu là chỉ để xin sự giúp đỡ trong việc tìm một công ty thuê họ về làm việc. Lá thư đến tay của Arthur Rock một nhà đầu tư mới tốt nghiệp MBA tại trường kinh doanh Harvard  và ông chủ của Rock là Bud Coyle đã khuyên nhóm 8 người hãy thành lập một công ty riêng thay vì đi làm thuê. Bud Coyle đã giới thiệu thành công nhóm với Sherman Fairchild (một triệu phú là chủ sở hữu của Fairchild Camera and Instrument và là cổ đông lớn nhất của IBM). Fairchild cảm thấy kế hoạch và ý tưởng của các nhà khoa học trên là phù hợp một cách hoàn hảo với dự định mở rộng hoạt động của công ty sang lĩnh vực điện tử đã giúp các bạn trẻ trên thành lập nên Fairchild Semiconductor vào tháng 9 năm 1957 tại Palo Alto California
Tuy nhiên, mọi thứ có vẻ chưa bao giờ là dễ dàng khi doanh nghiệp mới sáng lập được 1 thập kỷ, lục đục nội bộ đã diễn ra khi chính 2 trong 8 người sáng lập công ty bán dẫn Fairchild đã cảm thấy cực kỳ bất mãn với cách công ty mẹ tác động vào quá trình kinh doanh cũng như phát triển công nghệ của công ty con. Hai người đó chính là Robert Noyce và Gordon Moore người nắm giữ lần lượt vị trí tổng giám đốc và giám đốc bộ phận R&D của công ty bán dẫn, họ viết một lá thư từ chức đến Sherman Fairchild và chia sẻ lý do muốn thành lập công ty nhỏ hơn để có thể tập trung và công nghệ tiên tiến hơn là kinh doanh thuần túy. Công ty mà hai người đàn ông này thành lập giờ đây ta vẫn được biết với cái tên rất quen thuộc đó là Intel, nhà sản xuất chip bán dẫn đứng đầu thị phần thế giới trong chục năm qua. Thêm vào đó cũng có các công ty khác hoạt động trong lĩnh vực công nghệ và bán dẫn được thành lập bởi các cựu nhân viên (gọi là các công ty Spinoffs) của Fairchild và một điểm chung khác là chúng đều cực kỳ thành công như Advanced Micro Devices (AMD) hay National Semiconductor … Ước tính có hơn 20 công ty có đặc điểm như vậy được thành lập trong những năm 1960 và chúng còn được gọi là các “Fairchildren” và tất nhiên chúng đều tận dụng việc đặt trụ sở tại khu vực gần đại học Stanford để tiếp cận nhân lực chất lượng và công nghệ hiện đại ở đây. 
Danh sách các công ty Spin Off từ Fairchild Semiconductor (Fairchildren)
Danh sách các công ty Spin Off từ Fairchild Semiconductor (Fairchildren)
Kết thúc thập niên 60, nơi đây đã phát triển quá chóng mặt so với chính nó trước đây 100 năm. Đến năm 1971, để miêu tả khu vực này, nhà báo, nhà bình luận kinh tế Don Hoefler đã sử dụng cụm từ Silicon Valley để làm một phần trong tiêu đề loạt báo “Silicon Valley in the USA” trên tờ Electronic News (dẫu vậy nhưng Hoefler không phải chủ nhân của cụm từ trên mà là người bạn của ông là doanh nhân Ralph Vaerst). Chính từ lúc này, thung lũng trái cây Santa Clara mà người dân Mỹ từng biết đã không còn, thời đại của một thung lũng mới với tập hợp các công ty công nghệ cao và Silicon và chip bán dẫn là đầu tàu cho thời đại mới. 
img_3

Một số yếu tố khác

Như vậy, sự thành công của thung lũng Silicon không chỉ đến từ đơn phương sự phát triển của khoa học tại nước Mỹ, đó còn là sự đổi mới trong giáo dục khi đại học Stanford thành công trong việc đào tạo các sinh viên có đầy tư duy thực tiễn trong quá trình học và hợp tác với doanh nghiệp. Ngoài ra đó còn là sự “liều lĩnh” trong việc đặt niềm tin vào các công nghệ và ý tưởng mới của các nhà đầu tư mạo hiểm như Arthur Rock hay Sherman Fairchild, không chỉ thành công với Fairchild Semiconductor, Arthur Rock còn là người đã đầu tư cho Intel của Robert Noyce và Gordon Moore mà ta đã biết trước đó thêm vào đó là một thương vụ vào năm 1978 của 2 cậu sinh viên ra trường tại Stanford là Steve Wozniak và Steve Jobs mà ta vẫn biết đến bây giờ là công ty Apple. 
Sự mở rộng của các hoạt động đầu tư mạo hiểm (là hoạt động rót vốn cho các startup, công ty được thẩm định là mới nổi và có tiềm năng tăng trưởng cao) cũng đến từ sự khuyến khích của chính phủ Mỹ khi cuối những năm 70,. khi sự điều chỉnh ERISA (tạm dịch là đạo luật đảm bảo thu nhập cho nhân viên khi nghỉ hưu) cho phép các quỹ hưu trí tham gia vào các hoạt động đầu tư mạo hiểm. Hay đạo luật về lợi nhuận Revenue Act được thông qua nhằm giảm lãi suất phần lợi nhuận vốn từ mức trần gần 40% xuống chỉ còn 28% và đến 1981 được giảm còn chỉ 20%, một điều khoản cực kỳ có lợi dành cho các nhà đầu tư rót vốn vào các công ty có khả năng sinh nhiều lợi nhuận. Sự mở rộng của hoạt động đầu tư nói trên còn mở ra một hệ thống tài chính mới chuyên dành cho các sáng kiến và ý tưởng khởi nghiệp với sự ra đời của ngân hàng thung lũng Silicon (SVB) vào năm 1983 (nay đã sát nhập vào First Citizen Bank).
Thêm vào đó, Đạo luật Nhập cư và Quốc tịch năm 1965 đã mở đường cho những nhân tài, học vấn cao và các chuyên gia trong nhiều lĩnh vực đổ xô đến nước Mỹ. Ai cũng coi làm du học ở Mỹ, làm chuyên gia ở Mỹ là cơ hội đổi đời và từ đó, thung lũng Silicon được hưởng lợi với vị trí địa lý cực kỳ gần đại học Stanford danh giá tạo ra những nhân tài mang tính thực tiễn và có tinh thần khởi nghiệp cực kỳ cao, đóng góp những phát minh khoa học kỹ thuật mang tính nền tảng cho nước Mỹ.
Vào thế kỷ 21 hiện tại, không chỉ là cái nôi của công nghệ thuần túy mà còn như một “lò luyện” ra các công ty khởi nghiệp tỷ đô (hay ta còn gọi là các kỳ lân công nghệ). Theo báo cáo của Deloitte, hơn 1/3 trong số 141 công ty tại châu Mỹ, châu Âu và châu Á tăng trưởng lên con số 1 tỷ đô từ 2010 đến 2015 đều đến từ thung lũng Silicon, ta có thể thấy phân bổ địa lý của các kỳ lân công nghệ đã chứng minh rằng sự tập trung của các công ty tỷ đô tại đây là lớn như thế nào, riêng chỉ tính số lượng tại thung lũng Silicon thì số lượng công ty kỳ lân tại đây đã bằng số công ty của Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, phần còn lại của châu Á, châu Âu, Canada và Nam Mỹ cộng lại.
Báo cáo phân bổ các công ty tỷ đô theo vị trí địa lý
Báo cáo phân bổ các công ty tỷ đô theo vị trí địa lý
Các công ty tại thung lũng Silicon không chỉ gia nhập thị trường ngành mà còn tái định hình lại cách ngành đó vận hành, cũng trong ước tính của Deloitte, hơn 155 tỷ USD là con số doanh thu mà các công ty tại đây đã phá vỡ, thu về từ việc tạo ra sự khác biệt và hiệu quả so với cách kinh doanh truyền thống của ngành với các ví dụ tiêu biểu có thể nói đến như Netflix với hệ thống streaming film online, Airbnb và Uber với hệ thống đặt phòng khách sạn và taxi trực tuyến.
img_4
Sự thành công của khu vực công nghệ cao tại California đã biến cái tên thung lũng Silicon không còn là một tên gọi trên mặt báo nữa, nó đã trở thành một tên gọi chính thống cho biểu tượng và đầu tàu của lĩnh vực đổi mới sáng tạo tại Hoa Kỳ. Không những thế, giá trị biểu tượng của cả thế giới khi nhắc đến sáng kiến đổi mới công nghệ đến mức biến thành tiêu chuẩn của tất cả những khu phức hợp công nghệ khác trên thế giới. Không khó để bắt gặp các bài báo gọi những nơi như vậy với những cái tên như “Thung lũng Silicon 2.0” hay “Thung lũng Silicon của quốc gia X” đủ để thấy tầm vóc và sự thành công của nơi đây sau gần 1 thế kỷ xây dựng của tập thể đại học Stanford và các doanh nghiệp tại đây.
Tôi xin phép kết thúc bài viết này ở đây, bài viết này cũng là bài viết đầu tiên tôi tự tin hơn trong việc sử dụng các papers dài và chất lượng nhằm có sự chuyên sâu hơn bên cạnh đọc các nguồn tạp chí ngắn. Cũng nhờ một phần công cục NotebookLM của Google mà tôi tiết kiệm được khối thời gian trong việc rà soát thông tin và số liệu nên tôi nghĩ cũng là một cách rất tốt cho tôi sau này để đem đến những bài viết chất lượng hơn. Tôi xin đẻ một số tài liệu cho các bạn, nếu như hứng thú mọi người có thể đọc thêm vì tôi nghĩ tôi chỉ viết được không đến 1 nửa thông tin của những cuốn tài liệu này. Cảm ơn mọi người!!
U.S. Department of State. (2013). Zoom in on America: The Power of the Chip
Sturgeon, T. J. (2000). How Silicon Valley Came to Be. In M. Kenney (Ed.), Understanding Silicon Valley: The Anatomy of an Entrepreneurial Region. Board of Trustees of the Leland Stanford Jr. University.  
Berlin, L. R. (2001). Robert Noyce and Fairchild Semiconductor, 1957-1968. Business History Review, 75(1), 63–101. Harvard College. 
Schroeck, M., Srinivasan, G., & Sharan, A. (2016). Tapping into the Silicon Valley Innovation Ecosystem. Deloitte University Press.