Lịch sử Cuộc tranh luận trong Giáo hội Công giáo về "thờ cúng Tổ tiên" tại Trung Hoa
Tôi là người Công giáo, viết về lịch sử Công giáo
Vấn đề nghi lễ Trung Hoa làm sôi động lịch sử truyền giáo tại Á Đông suốt thế kỷ 17 sang nửa đầu thế 18. Cùng một vấn đề nhưng với hai luồng ý kiến trái chiều nhau đã khiến cho cuộc tranh luận này phải đưa về Tòa Thánh Vatican giải quyết. Một bên là dòng Tên, bên còn lại là dòng Đaminh và dòng Phansinh. Cuộc tranh luận đã kéo vào rất nhiều nhà thần học nổi tiếng trong Giáo hội tham gia, và làm bận tậm tới tận 10 triều đại Giáo hoàng.
Vậy kết quả của cuộc tranh luận này sẽ như thế nào? Người Công giáo tại Trung Hoa có được thực hành các nghi lễ như: thờ cúng tổ tiên, cúng tế Khổng Tử, đặt bài vị trên bàn thờ…hay không? Giờ hãy cùng nhìn lại lịch sử nào!
Ngay từ đầu, chỉ có dòng Tên đặt chân lên Trung Hoa để truyền giáo. Trong thời gian hoạt động này, các linh mục dòng Tên đã cho phép tân tòng (tân: mới; tòng: đi theo à tân tòng: người mới theo đạo) được giữ những lễ nghi mà sau này lại trở thành đề tài tranh luận sôi nổi tại Tòa Thánh Vatican. Mãi sau này, các linh mục dòng Đaminh và dòng Phansinh đặt chân lên Trung Hoa sau, nhận thấy những lễ nghi ấy “không phù hợp với giáo lý Công giáo” nên đã ngăn cấm. Để tránh cho sự hiệp nhất trong Giáo hội bị sứt mẻ, Các linh mục dòng Đaminh và Phansinh đề nghị gửi vấn đề này cho các thần học gia tại viện đại học Santo Tomás tại Manila, Philipine giải quyết. Rồi tất cả phải vâng theo. Các linh mục dòng Tên không chịu, nên hai bên cứ ngấm ngầm tranh luận với nhau từ năm 1631.
Quan điểm của dòng Tên cho rằng: người Công giáo Trung Hoa được phép giữ những nghi lễ, quen gọi là “thờ cúng tổ tiên”. Vì đó chỉ là hành động thể hiện tình hiếu thảo đối với ông bà tổ tiên, chứ không phải thuộc phạm trù tôn giáo.
Quan điểm của các linh mục dòng Đaminh và Phansinh thì ngược lại. Các ngài cho rằng: “thờ cúng tổ tiên” mang màu sắc tôn giáo và pha lẫn mê tín dị đoan (cúng cơm, đốt vàng mã, tin hồn nhập trong bài vị để tiếp tục sống cùng con cháu…) Do đó, phải ngăn cấm vì sai lạc với giáo lý của Giáo hội.
Các linh mục thuộc hai trường phái này cứ tranh cãi từ 1631 - 1640. Vào năm 1640, linh mục Morales, thuộc dòng Đaminh được cử đi Rôma để trình bày về vụ tranh cãi này, đồng thời nhờ thẩm quyền Tòa Thánh giải đáp. Sở dĩ Cha được gửi đi vì Cha được cho rằng rất thông thạo về phong tục Trung Hoa và đủ khả năng làm việc đó. Đức Giáo Hoàng Urban VIII sau khi nghe về vụ việc thì giao cho Bộ Thánh Vụ cứu xét. Tuy nhiên, chưa kịp đưa ra kết luận thì ĐGH Urban VIII đã qua đời, người kế vị ngài là ĐGH Innocente X. Một năm sau khi đăng quang, tức 1645, Đức Innocente X đã ký một sắc lệnh cấm việc thờ cúng Tổ tiên tại Trung Hoa, đồng thời vạ tuyệt thông bất kỳ ai trái lệnh. Sắc lệnh này chính thức khởi đầu một sự tổn hại to lớn cho Giáo hội mãi tới ngày nay.
Năm 1649, cha Morales trở về Trung Hoa và trao cho dòng Tên một sắc lệnh bản sao có đóng ấn. Thấy vậy, dòng Tên liền cử linh mục Martinez đi Rôma để đại diện dòng Tên trình bày quan điểm cho Tòa Thánh. Lúc này, Innocente X đã qua đời, kế vị là ĐGH Alexandro VII. Sau khi nghe vị đại diện dòng Tên trình bày quan điểm thì cũng giao cho Bộ Thánh Vụ cứu xét như lần trước. Vào 1656, ĐGH Alexandro VII đã ký một sắc lệnh ngược lại với vị tiền nhiệm của mình (nghĩa là cho phép). Tuy nhiên, kèm một điều kiện rằng: “sắc lệnh này có hiệu lực nếu những gì linh mục Martinez trình bày đúng sự thật.” Thật là cam go! Điều kiện này đã khiến cho vấn đề thêm rắc rối không tài nào gỡ nổi.

ĐGH Alexandro VII
Việc tranh cãi này cứ âm ỉ trong Giáo hội Trung Hoa và cả tại Tòa Thánh. Các triều đại Giáo hoàng cứ liên tiếp tổ chức các phiên họp đặc biệt, triệu tập rất nhiều thần học gia trứ danh và các đại diện của dòng Tên, dòng Đaminh, dòng Phansinh. Tất cả đều được tự do trình bày quan điểm, bênh vực hoặc chống đối, nhưng quyền quyết định thuộc về Tòa Thánh.
Vào 20/11/1704, tại Rôma, ĐGH Clemete XI đã ký một Tông hiến và buộc các giám mục, linh mục hay bất cứ dòng tu nào cũng phải tuân theo. Nội dung như sau: (1) Cấm dùng chữ “Thiên” để chỉ Thiên Chúa; (2) Cấm treo trong nhà thờ hai chữ “Kính Thiên”; (3) Cấm cúng tế ông Khổng Tử, ông bà cha mẹ; (4) Cấm đặt “bài vị” trong nhà. Tông hiến này được trao cho Giám mục Tournon để tới Trung Hoa mà công bố và kêu gọi vâng phục.
ĐGH cũng kêu gọi các nhà truyền giáo tại Trung Hoa sẵn sàng chấp thuận những quyết định của Tòa Thánh, tránh gây chia rẽ trong Giáo hội, nhất là đừng tố cáo hay kết tội nhau. Dòng Đaminh đừng lên án dòng Tên là “dị đoan” và “cấp tiến”. Và dòng Tên đừng chế giễu dòng Đaminh là “thủ cựu” và “lạc hậu”.
Vào ngày 8/4/1705, Giám mục Tournon đặt chân đến Macao, tỏ ra can đảm nhưng thiếu tế nhị và thiếu am tường ngôn ngữ phong tục Trung Hoa. Ngài truyền tháo gỡ tấm bảng ghi chữ “Kính Thiên” trước thánh đường Bắc Kinh. Ngặt nỗi là tấm bảng này do chính vua Khang Hy chấp bút và tặng cho thánh đường.

Vua Khang Hy
Vào 25/1/1707, tại Nam Kinh, Giám mục Tournon công bố sắc lệnh chính thức bác bỏ lễ nghi Trung Hoa, vì “không phù hợp với Giáo lý Công giáo”. Dòng Tên tiếp tục khiếu nại sang Tòa Thánh, nhưng ĐGH Clemente XI phúc đáp bằng cách phong tước Hồng Y cho Giám mục Tournon. Vấn đề căng thẳng hơn giữa Tòa Thánh và các nhà truyền giáo dòng Tên. Khiến cho ĐGH Clemente XI, năm 1710, tiếp tục ban hành một tông hiến khác yêu cầu cấm khiếu nại, cấm đặt lại vấn đề lễ nghi này.
Vấn đề vẫn chưa xong và kéo dài thêm. Phe “bênh vực lễ nghi” vẫn cố gắng tìm ra lý lẽ để khỏi phải vâng phục, khiến ĐGH Clemente XI đã ban hành tông chiếu Ex illa die vào 19/3/1715. Ngài kêu gọi mọi người phải tuân phục Tòa Thánh. Đồng thời nhắc lại quyết định bác bỏ lễ nghi Trung Hoa, kèm thêm hình phạt vạ tuyệt thông cho những ai chống đối.
Sau khi nghe tông chiếu này, dòng Tên đã cúi đầu vâng phục. Vua Khang Hy phẫn nộ, coi việc bác bỏ lễ nghi Trung Hoa là một hành động nhục mạ quốc thể. Do đó, cũng vào năm 1715, hạ lệnh trục xuất các linh mục và giám mục, triệt hạ các thánh đường Công giáo trên toàn quốc, cấm người Trung Hoa theo đạo Công giáo. Tuy nhiên, lệnh này vẫn chưa triệt để cho tới năm 1732, dưới thời vua Ung Chính, được xem là khởi đầu cuộc bách hại thảm khốc cho đạo Công giáo tại Trung Hoa.
Cuộc tranh luận kéo dài trên một thế kỷ, gây quá nhiều thiệt hại cho công cuộc truyền giáo tại Trung Hoa, đã trở thành mối bận tâm của vị đại Giáo Hoàng Benedicto XIV (đăng quang 1740). Sau khi tra xét lại mọi tài liệu về vấn đề này, mọi tường trình của bên chống đối và cả bệnh vực. Vào ngày 11/7/1742, ĐGH Benedicto XIV ban hành Tông chiếu Ex quo, truyền phải tuân theo nội dung tông chiếu Ex illa die (1715), lên án lễ nghi Trung Hoa vì “không phù hợp với giáo lý Công giáo”, phạt vạ tuyệt thông tất cả những ai chống đối; thêm điều mới hơn là vạ này chỉ có ĐGH mới có quyền tha, trừ trường hợp nguy tử. Từ đó, tất cả mọi người đều vâng theo, không ai dám khiếu nại, kể cả dòng Tên. Cuộc tranh luận chấm dứt, không kẻ thắng người thua, bởi vì các nhà truyền giáo của hai bên đều chỉ làm nhiệm vụ, là đem hết khả năng hiểu biết của mình để trình bày bối cảnh và các sự việc, sẵn sàng đón nhận phán quyết của Tòa Thánh.
Từ đó, người viết có vài nhận định như sau:
Sở dĩ Tòa Thánh thời đó có thái độ khắt khe và sau cùng là bác bỏ lễ nghi Trung Hoa như thế, là vì sau những cuộc điều tra cặn kẽ và nhất là quan sát sâu vào tâm lý của người thời đó, Tòa Thánh nhận thấy những lễ nghi “thờ cúng Tổ tiên”, ít là khi ấy, có tính tôn giáo, biểu lộ sự tùng phục và sự lệ thuộc của mình đối với thụ tạo, nên những lễ nghi ấy không thể phù hợp với đức tin Công giáo, mà Tòa Thánh có nhiệm vụ phải bảo toàn. Tòa Thánh từ xưa đến nay đều nhất quyết thi hành sứ mệnh ấy của mình, mặc cho bị chống đối hay bị bách hại. Sử sách ghi lại cho thấy trên 300.000 giáo dân, chỉ còn khoảng 10% giữ đạo trong thời bách hại của hai vua Ung Chính (1723-1736) và vua Càn Long (1736-1795), quả là một thời đau lòng cho Mẹ Giáo Hội, nhưng cũng để chứng minh rằng: khi người ta dễ dãi theo đạo hoặc theo đạo không thành thật, thì người ta cũng dễ dàng bỏ đạo. Bên cạnh đó, người viết không dám dùng quan điểm của ngày nay mà đánh giá việc làm của thời đó là đúng hay sai. Lịch sử thì để nhìn lại, chứ không để đánh giá tiền nhân. Vấn đề cần đặt ra là: Ngày nay, Giáo hội Công giáo có thay đổi cách hiểu về “thờ cúng Tổ tiên” hay không? Khi nào?
Điều này, tôi sẽ giải đáp vào chuyên mục sau. Cảm ơn các nhện đã đọc bài viết của tôi. Nếu có gì cần bình luận thì cứ viết nhé. Tôi thích đọc bình luận. =))

Lịch sử
/lich-su
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất

RAKSHASA
Vấn đề thờ cúng tổ tiên của người Công Giáo ở Việt Nam không biết nó đang diễn ra như thế nào nhỉ. Nhờ mọi người tư vấn về vấn đề này,
- Báo cáo
dreamer83
Mấy ng đó do Chúa nặn ra chứ không có tổ tiên nhé bạn.
- Báo cáo

hominum_confusione
Sự thật thì khác: Công giáo luôn tôn kính tổ tiên của mình, vì Chúa đã truyền phải giữ điều đó. Trong Mười Điều Răn, là giới luật là Thiên Chúa ban cho con người, thì 3 điều đầu tiên liên quan về Chúa, 7 điều sau liên quan về con người. Tuy nhiên, điều thứ 4: Phải thảo kính cha mẹ. Nghĩa là điều răn đầu tiên liên quan tới con người, chỉ sau 3 điều răn về Chúa, là truyền dạy tôn kính cha mẹ.
Sách Sáng thế kể về hình ảnh ông Ađam và bà Evà được nặn từ bùn đất. Nhưng đó chỉ là câu chuyện mang hình ảnh biểu tượng để truyền tải ý nghĩa khác, chứ lúc đó mới nặn 2 con người đầu tiên thì ai mà đứng đó chứng kiến để viết lại được. Việc đó chỉ được viết sau này để truyền tải ý nghĩa về thân phận thụ tạo nhỏ bé của con người trước những thực tại lớn lao. Nặn từ bụi đất mang ý nghĩa mỏng giòn yếu đuối và từ bụi đất thì khi chết cũng tan thành bụi đất
- Báo cáo

hominum_confusione
Có thờ gian, mình sẽ tiếp tục viết bài sau để nói về vấn đề này tại VN ngày nay. Vào thế kỷ 17, vấn đề này tranh cãi tại Trung Hoa. Nhưng bạn biết Châu Á là một lục địa có nhiều nền văn tóa tín ngưỡng khác nhau, nhiều thực hành niềm tin khác nhau. Cho nên, rõ ràng Tông chiếu Ex Quo (1742) do Giáo hoàng Benedicto XIV không chỉ có hiệu lực chỉ trên Trung Hoa, mà là rất nhiều quốc gia xung quanh, trong đó có cả Việt Nam.
- Báo cáo