Có những diễn viên xuất hiện để tô màu cho tấm poster. Cũng có những người khiến cả rạp nín thở từng giây. Leonardo DiCaprio thuộc về cả hai.
Nhắc đến Leo mọi người nhớ ngay đến điều gì đầu tiên? Chắc chắn là một chàng trai đứng trên mũi con tàu Titanic, hai tay giang rộng, tóc bay trong gió biển. Chỉ một cảnh quay thôi, nhưng nó biến Leonardo thành “Leo” - cái tên gắn liền với một diễn viên điển trai làm xiêu lòng biết bao trái tim trên thế giới, gương mặt đẹp như tạc tượng, phong thái diễn xuất đỉnh cao và phong độ vẫn ổn định suốt hơn ba thập kỷ tuổi nghề. Nhưng trước khi có giây phút ấy, có ai biết được anh đã trải qua hàng chục lần thử vai thất bại, những ngày ở căn hộ thuê nhỏ tí, khủng hoảng khi chưa biết liệu mình có thật sự thuộc về màn ảnh hay không, và đã có lúc căn nhắc chuyển hướng làm dancer?
Từ quảng cáo nhỏ xíu trên TV đến phim trường sáng rực ánh đèn rồi cuối cùng là vinh quang với Oscar, Leo lớn lên giữa ống kính như một mầm cây mọc giữa đường băng: gồng mình trước gió, trước scandal, trước cả ánh sáng rực rỡ của hào quang. Đằng sau ánh hào quang đó, Leo còn sống một đời khác - có lúc anh biến sân khấu thành phòng thí nghiệm cảm xúc; có lúc anh dùng tiếng tăm để kéo lĩnh vực môi trường lên bản tin.  
Để hưởng ứng bộ phim vừa ra mắt có sự góp mặt của anh - “One Battle After Another” (Tựa Việt: Trận Chiến Sau Trận Chiến) hiện đang chiếu tại nhiều rạp phim - Chúng ta sẽ cùng nhau tua lại xem một bộ phim khác, bộ phim mang tên cuộc đời Leonardo DiCaprio - từ tuổi trẻ bồng bột, qua những lần hóa thân khiến cả thế giới lặng đi, cho đến di sản là một tài năng luôn sẵn sàng đánh đổi tất cả vì nghệ thuật.
Xin Chào mình là Kraven, bạn đang đọc bài viết “Leonardo DiCaprio - Lịch Lãm & Bất Khuất“.
Dùng Phần Mục Lục Để Nhảy Đến Phần Bạn Muốn Đọc
Dùng Phần Mục Lục Để Nhảy Đến Phần Bạn Muốn Đọc

Sự Ra Đời Đẹp Như Một Tác Phẩm Nghệ Thuật

Leonardo Wilhelm DiCaprio sinh ngày 11 tháng 11 năm 1974 ở Los Angeles, là con trai duy nhất của bà Irmelin - một thư ký pháp luật - và ông George DiCaprio - là người mê truyện tranh và nghệ thuật indie. Anh thừa hưởng cả ba dòng máu: Ý-Anh-Đức. Cái tên độc đáo Leonardo được mẹ anh chọn khi bà đứng trước tranh của Leonardo da Vinci trong viện bảo tàng Uffizi - nước Ý, bà nhìn tranh thì cảm nhận đứa bé đá rất mạnh trong bụng - như muốn nói “Em đó, em là Leonardo”.
Khi Leo chỉ mới một tuổi ba mẹ anh ly hôn, anh chủ yếu được nuôi dưỡng bởi tình yêu thương của mẹ, mặc dù như thế Leo vẫn rất gần gũi với cha. Được tiếp xúc với truyện tranh do ba xuất bản khi còn bé, nên từ rất nhỏ anh đã thích tạo dựng kịch bản rồi tự làm đạo diễn, kiêm luôn diễn viên cho các bộ phim ngây thơ của mình. Anh đóng vai, thử giọng, biến mọi trò chơi thành một phân cảnh. 
“Tôi thích đùa giỡn với bố mẹ và tạo ra những nhân vật khác nhau. Tôi thích tự mình đóng những vở kịch nhỏ do chính mình làm.” anh sau này bảo với tờ Backstage. 
Trường trung học với anh không phải nơi chốn của việc nảy mầm nghề nghiệp; anh thấy trường chật chội với giấc mơ của mình. Anh rút ra khỏi lớp, bước ra trước ống kính nhiều hơn - và sau này lấy bằng tốt nghiệp phổ thông bằng con đường khác. Không phải vì anh lười học; vì anh học quá nhiều ở trường quay.
Ghi chú: đây là một số quảng cáo của anh
Được ba mẹ ủng hộ, anh bước thân vào màn ảnh vào năm 15 tuổi, với khuôn mặt điển trai, anh dễ tìm đóng các vai nhỏ: quảng cáo, vai phụ trên TV, chập chững trên những set quay bé xíu. Có lúc là cái micro trong phòng thu, có lúc là cái máy quay lắc lư trên vai một đạo diễn nghiệp dư - mọi thứ đều dạy anh theo cách này hay cách khác.
Có mẩu chuyện sau hậu trường rằng: người ta hay nhắc về một cậu bé DiCaprio vốn rất hiếu động, từng bị đuổi khỏi một chương trình thiếu nhi vì quá… phá. Còn có lần anh suýt theo breakdance sau khi thắng hạng nhì một cuộc thi; may mắn là cái đam mê ấy chuyển hoá thành kiên nhẫn trước ống kính, chứ không phải hành động xoay người trên sàn.
<i>Leo trong Poster TV series Parenthood</i>
Leo trong Poster TV series Parenthood
Những năm đầu là đoạn quay ngắn, cảnh cut, những lần phát cáu Leo khi bản thân diễn chưa đạt và những hợp đồng quảng cáo trả mẹ tiền thuê nhà. Anh xuất hiện lỏm tỏm trong The New Lassie, Roseanne, có mặt trên poster tập Parenthood - rồi mãi mới tới một vai nhỏ khiến người ta nhớ tên: Luke Brower trong Growing Pains. Vai đó khiến các nhà sản xuất bắt đầu để ý; khán giả thì nhận dạng được một cậu bé với trán nhăn và nụ cười dễ thương.
Tháng năm 1991, anh đặt chân vào điện ảnh qua một phim kinh dị chi phí thấp - Critters 3. Chả là phim kinh dị chi phí thấp, nhưng quan trọng là anh đã đứng trong ánh đèn trường quay điện ảnh lần đầu - và điều đó khác hẳn mọi quảng cáo từng làm. Vai diễn nhỏ, và đề cử nhỏ cho Giải Nghệ sĩ Trẻ - những tín hiệu ban đầu của một con đường dài.
Ở tuổi 18, Leo đã có thứ mà nhiều người trẻ khác mơ mà không có: kinh nghiệm ở hiện trường, quen mặt với ánh đèn và một vài cái tên trong nghề. Chưa đến lúc vươn lên thành tượng đài - nhưng cũng đủ sức để đi đường dài. Anh không bỏ qua cơ hội: đọc kịch bản, luyện thoại, học cách đứng sao cho khi ánh sáng rọi vào, mắt anh kể được mọi câu chuyện dù miệng còn im.
Giai đoạn đầu sự nghiệp, Leo từng bị ai đó gợi ý đổi tên sang “Lenny Williams” vì cái họ nghe… quá lạ. Anh cân nhắc. Rồi anh bỏ ý tưởng đó. Có lúc thất vọng muốn buông, có lúc thử vai mãi mà không ai gọi lại, không có vai, không tiền, cậu cũng không đi học, lúc này dự định làm diễn viên của cậu trở nên mong lung hơn bao giờ hết - nhưng cha mẹ, đặc biệt là người cha, vẫn thúc anh tiếp. Và đó là lời khích lệ đáng giá triệu đô. Hai năm sau, một cơ hội lớn gõ cửa.

Vai Diễn Lớn Đầu Đời

Có những tên tuổi như một bản nhạc nền: họ đến, họ đánh một nốt, và mọi thứ bắt đầu nghe khác, ở một đẳng cấp khác. Robert De Niro là một nốt như thế - khi được các đạo diễn săn đón, một người đầy sức hút có trọng lượng, giữ chân khán giả và kinh nghiệm lão làng. Một người làm nghề mà người ta gọi là “actor’s actor”: lặng lẽ, chăm chỉ, và nguy hiểm không kém khi nhập vai. Với 2 Oscar trong tay - De Niro bước vào trường quay là trở thành thần - ông bước vào một cảnh là cả không khí thay đổi; là thầy, là thước đo cho các diễn viên khác.
Khi kịch bản This Boy’s Life - dựa trên hồi ký của Tobias Wolff được Michael Caton-Jones cầm lái; ông đến với giai đoạn tìm diễn viên cho vai chính. Và rồi có một cậu trai trẻ tên Leonardo DiCaprio lạ hoắc từ đâu đến. Với tuổi thơ có phần giống Tobias Wolff - ba mẹ ly hôn, cậu sống cùng với mẹ, không thích học ở trường - This Boy’s Life là phân cảnh lớn đầu tiên của Leo ở màn ảnh rộng. Anh vào vai Tobias/ tự gọi mình là Jack - một đứa trẻ sống cùng mẹ đơn thân, nhưng lấm lem, khó dạy. Vai này không cần chiêu trò ưa nhìn. Nó cần sự mong manh, một cái nhìn có thể nghẹn lại giữa câu thoại. Khi De Niro nhìn thấy Leo tại buổi thử vai, ông nói với nhà sản xuất rằng: 'Cậu bé đó có điều gì đó đặc biệt,' và đó là cách mà Leo đã xuất sắc đánh bại hơn 400 ứng cử viên để được đóng cùng De Niro. Thế giới rùng mình đợi xem cái gì sẽ xảy ra khi De Niro và một gương mặt non trẻ cùng đứng chung một khung hình.
Các phê bình không im lặng. Họ khen cái cách bộ phim nắm chặt cảm xúc mà không làm ồn. Những cây bút uy tín thấy được chi tiết nhỏ: ánh mắt Leo, cái cách anh đứng lùi lại khi người lớn hét, cái cách anh bật cười gượng khi cần bảo vệ mình. Nhưng đừng hiểu lầm: Leo không bị gắn mác “diễn viên thiên tài” theo kiểu cả đời dính với một vai diễn. Người ta gọi anh là “đang học, nhưng đã rất giỏi” - một diễn viên chịu khó, biết cải thiện. Leo đọc kịch bản như người bóc tách một củ hàng: anh muốn biết trọng tâm, muốn biết nơi vai người kia bị tổn thương nhất, rồi anh xếp mọi thứ vào đó. Roger Ebert - một nhà phê bình phim có tiếng - ghi nhận chiều sâu trong diễn xuất - một giọng khen dành cho dàn diễn viên và cho sự nhạy cảm của bộ phim. Tuy phim không đạt doanh thu như kỳ vọng nhưng những lời nhận xét có cánh về khả năng diễn xuất ấy như lời mời Leo đến với Hollywood.
Ngay sau đó, anh nhận thêm những kịch bản khó nhằn. Đó là con đường dẫn tới What’s Eating Gilbert Grape  đóng cùng gã thuyền trưởng Johnny Deep, anh thủ vai Arnie - một cậu bé bị thiểu năng trí tuệ. Anh suýt đã bỏ lỡ cơ hội này vì… quá đẹp trai, nhưng đạo diễn phim lúc đó là Lasse Hallström đã thừa nhận đằng sau khuôn mặt điển trai đó là một khả năng diễn xuất đầy cảm xúc. Sau vai diễn này cậu lọt vào danh sách những diễn viên trẻ được chú ý, với cả đề cử Oscar cho vai phụ xuất sắc nhất.
Với gương mặt ưa nhìn, những năm cuối 90 anh đóng chung với Claire Danes trong bộ phim Romeo và Juliet phiên bản 1996, một phiên bản hiện đại của câu chuyện tình kinh điển. Với vai diễn Romeo anh trở thành nam thần tượng tuổi teen được săn đón bậc nhất lúc đó.
Và thế là, trước khi Titanic làm cả thế giới gọi tên anh bằng một cách khác, Leo đã có một chuỗi bước đi có chủ ý: học nghề từ những vai bé, thử thách ở This Boy’s Life, đoạt cảm tình từ giới chuyên môn với What’s Eating Gilbert Grape, rồi tiếp tục nhặt những kịch bản mà người ta nhớ lâu - Vai chính trong The Basketball Diaries - một bộ phim có nhiều yếu tố thuốc (mai tóe), cả bộ phim tâm lý, tình dục gây tranh cãi Total Eclipse, và là chàng Romeo thơ mộng trong Romeo & Juliet. Chu kỳ thành công của Leo đang đến từng bước, người ta luôn gọi giai đoạn cuối những năm 90 của Leo là đỉnh cao của sự nghiệp anh và cuối cùng điều gì đến cũng phải đến.

Titanic

Có một con tàu chìm ngay lần đầu ra khơi nhưng câu chuyện của nó được mang kể đi kể lại. Trước 1997, người ta đã làm phim về Titanic theo cách lịch sử, theo cách tài liệu - trong đó A Night to Remember (1958) là bản mẫu tiêu biểu nhất khi phim dẫu có nhân vật trung tâm là Second Officer Charles Lightoller nhưng cách kể chuyện phim lại không tập trung vào anh, mà kể câu chuyện tập thể với nhiều nhân vật và tuyến nhỏ đan xen - Minh chứng cho việc các nhà sản xuất phim lúc này muốn tạo dựng phim như một cột mốc buồn của lịch sử.
30p28s cảnh Titanic đâm phải tảng băng
Và rồi James Cameron xuất hiện với nỗi ám ảnh kỳ quái của riêng mình. Anh ta không chỉ muốn dựng lại một con tàu với kích thước 1:1 ngoài đời thật; anh ta lặn xuống tìm xác con tàu Titanic nguyên gốc. Vì đây là Cameron và Cameron có một lối nhìn khác, một lối đi khác với các bộ phim trước, ông muốn ghép lại hai thứ tưởng như đối nghịch: một thảm họa lịch sử và một chuyện tình đẹp như thơ ca. Ông ta cần một chuyện tình để kéo con người vào giữa một thảm kịch - và cần công nghệ để biến cảnh đó thành hiện thực. Với ngân sách 200 triệu đô, ta đều biết điều gì xảy ra sau đó.
Vậy vì sao James Cameron lại chấm Leo cho vai Jack Dawson? Leo vào thời điểm đó là một gương mặt đang nổi sau sự thành công của Romeo & Juliet, nhưng thực tế cái tên ban đầu được chọn để thủ vai Jack đó là Matthew McConaughey. Matthew đã diễn thử vai trước và rất được lòng James, nhưng sau khi đến lượt Leo, mọi cô gái trong tòa nhà liền đổ òa đến với phòng casting. Chưa kể Kate Winslet, đã nhận vai Rose, sau liên hoan phim Cannes cô nàng đã “đeo bám” (theo lời bà kể chính thức) theo Leo để thuyết phục anh tham gia. Lúc này Cameron đã tìm được chàng Jack hoàn hảo của Rose.
Cái khoảnh khắc “I’m the king of the world!” là một ví dụ điển hình cho thứ điện ảnh bật ra từ sự bốc đồng có giá trị. Cảnh Jack đứng trên mũi tàu, gió rít, mặt trời chiếu - theo kịch bản không có câu thoại đó. Leo, ở khoảnh khắc bất chợt, hét lên: “I’m the king of the world!” James Cameron nghe, mỉm cười, giữ nguyên nó. Nhiều năm sau nó được liệt vào một trong những câu thoại kinh điển nhất màn ảnh. Minh chứng cho sự ngẫu hứng đầy sáng tạo của Leo.
I’m the king of the world!
I’m the king of the world!
Về mặt chuyên môn, các nhà phê bình khi ấy nhìn Leo như một viên ngọc thô đang dần được mài thành hình: anh có chiều sâu cảm xúc mà vài diễn viên lớn tuổi còn phải mơ. Họ chú ý đến cách anh dùng cơ thể nhỏ bé để bù vào thiếu thốn xã hội của nhân vật; chú ý đến sự chân thành ở ánh mắt, thứ chân thành mà đôi khi Hollywood cố gắng dán nhãn là “marketable”.
Tất cả cô gái trên thế giới lúc này đều si mê với gương mặt như đẹp như tạc của anh, ai ai cũng muốn có một chàng Jack cho riêng mình - chịu hy sinh tất cả vì người mình yêu. Đây là đỉnh cao trong sự nghiệp của chàng trai 22 tuổi. Nhưng không muốn bị bó bột với cái mác “diễn viên đẹp trai”, anh lấn sang các vai diễn khác, trái với sở trường của mình. Và đó là quyết định sai lầm, một bước trượt dài trong sự nghiệp của DiCaprio.

Bóng buồn và sân khấu lặng

Đây là giai đoạn sự nghiệp của Leo như một chiếc bóng đèn hư, nó cứ chập chờn, bật rồi lại tắt.
Sau Titanic, anh không ôm khư khư một công thức an toàn. Thay vào đó, Leo xê dịch: phim thương mại, phim nghệ sĩ, thử sức với kịch bản kỳ cục, đồng ý với vai dễ thương, từ chối vài lời mời, ôm vài sai lầm nghề nghiệp. Có lúc quyết định anh ấy tự hào, có lúc quyết định khiến người khác lắc đầu.
Minh chứng hùng hồn cho việc anh muốn thay đổi
Minh chứng hùng hồn cho việc anh muốn thay đổi
Ví dụ nhìn nhanh vào những vai diễn của anh với thể loại chính kịch: The Man in the Iron Mask (1998) một bộ phim gây thất vọng - anh xuất hiện với mái tóc dài - minh chứng hùng hồn cho việc anh muốn thay đổi, mặc cả áo choàng , đầu tóc bồng bềnh, doanh thu tạm ổn nhưng giới phê bình thì chê kịch bản rỗng; Leo trông đậm chất poster hơn là biến thành nhân vật. Cùng năm anh đóng một vai phụ mà chả ai nhớ tên trong Celebrity (1998). Trong The Beach (2000) - anh tìm một vai phản diện với tuổi trẻ bất ổn, một chuyển hướng muốn làm “người lớn” ngay lập tức; báo chí cào nhè nhẹ: xuất hiện chỉ để đẹp ảnh, ít chiều sâu; khán giả chia phe. Một năm sau anh tham gia Don’s plum nhưng chỉ gây thất vọng. Đấy là kiểu thất bại hẳn là lớn,chúng kéo dài: bị chê thảm, không bật thành thứ người ta nhớ lâu. Sự nghiệp anh rơi vào bế tắc và người ta nghĩ Leo đã đánh mất chính mình sau vai Jack.
Điểm sáng duy nhất trong thời gian này là Leo rất sớm quan tâm tới môi trường: anh sáng lập DiCaprio Foundation vào 1998 để hỗ trợ các dự án bảo tồn thiên nhiên, sinh vật biển, rừng... Anh mua đảo Blackadore Caye (ở Belize) để phát triển khu nghỉ dưỡng sinh thái, ý tưởng là phục hồi môi trường vùng biển, bờ biển, chống phá rừng, khai thác bền vững. 
Tuy nhiên không phải mọi bước lùi đều là thất bại, nhớ lại thời điểm sau khi ra mắt This Boy’s Life, De Niro từng gọi cho Martin Scorsese, nói rằng:
“Tôi vừa làm bộ phim This Boy’s Life với một đứa trẻ tên Leo DiCaprio. Cậu ấy rất giỏi. Ngày nào đó anh nên làm phim với nó.”
Gần 10 năm sau điều đó trở thành hiện thực. Gangs of New York (2002) là một chiếc phao cứu lấy sự nghiệp của Leo: lần đầu gặp lão đạo diễn đến từ Little Italy - Scorsese - một cuộc hẹn giữa một đạo diễn đầy cá tính và một diễn viên trẻ muốn thử lửa - đây là cuộc gặp gỡ định mệnh, một mối quan hệ kéo dài suốt 2 thập kỷ được hình thành và sau này họ đã kết hợp với nhau tạo ra 5 bộ phim khác - The Aviator (2004) The Departed (2006) Shutter Island (2010) The Wolf of Wall Street (2013) Killers of the Flower Moon (2023). Đây là một phim lấy bối cảnh cuộc chiến giữa các băng đảng xã hội đen, phim nặng, dữ, đậm chất Scorsese và cũng có tiếng vang; vai diễn của Leo bị thử thách, bị đánh, và cũng được khen. Sự nghiệp anh được cứu vớt.
Cùng năm thì Catch Me If You Can (2002) là cú nhảy đôi của anh, Leo thủ vai Frank Abagnale - một tội phạm có thật và đã hoàn lương. Trong phim ta thấy một Leo vui tươi, duyên dáng. Anh làm việc với đạo diễn Spielberg - và khán giả trả lời bằng tiếng vỗ tay. Nhưng giữa những thắng và thua ấy, công chúng thấy một Leo khác: dần thoát khỏi cái mác khuôn mặt điển trai trên poster; anh giờ là một người sẵn sàng thay đổi để dựng lại nhân vật.
Vấn đề nằm ở chỗ: công chúng đôi khi chỉ muốn dễ đọc. Họ muốn một hình tượng an toàn. Anh thì không. Chính vì từ nhỏ đã đọc nhiều truyện tranh, đã tự tạo kịch bản và tự tạo nhân vật, tự làm diễn viên cho phim của chính mình, anh có một cái nhìn rộng về điện ảnh. Khi lớn lên anh chọn kịch bản theo trực giác, theo cái cảm nhận sẵn có của mình: vai nào có thể kéo anh vào một lớp học mới - anh lao vào. Kết quả? Có phân đoạn rực rỡ, có cảnh bị bỏ quên. Có lúc người ta khen “một diễn viên đang lớn dần”; có lúc họ bảo “sao anh lại làm phim này?” Nhưng chính những màn dao động ấy mới tạo nên Leo ổn định như ngày hôm nay: một người tin vào nghề chứ không tin vào công thức.
Rồi Scorsese mời anh vào dự án tiếp theo, làm diễn viên chính cho The Aviator (2004). Theo Wight, DiCaprio đã dành một năm để chuẩn bị cho vai chính, đọc sách và nghe các bản ghi âm của Hughes - nhân vật chính - đồng thời tiến hành nghiên cứu về chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế mãn tính.
Trước lúc máy quay chạy, Leo đã kinh qua nhiều vai diễn: cậu bé quảng cáo, chàng trai This Boy’s Life, ngôi sao Titanic, kẻ lảng tránh phong cách an toàn. The Aviator không phải là cái đích hào nhoáng; nó là thử thách kiểu cũ: một nhân vật lịch sử nhiều sa ngã, Howard Hughes - thiên tài, lập dị, bị ám ảnh. Scorsese chỉ dẫn, kịch bản dày, bối cảnh hoành tráng. Leo lao vào vật lộn với giọng nói, cử chỉ, thái độ của Hughes; anh đọc, anh học, anh bị ám ảnh. Phê bình gọi màn hóa thân là một bước ngoặt: người ta thấy một diễn viên đã đủ rộng để ôm cả một lịch sử tâm lý phức tạp. Tất cả điều này giúp anh giành được giải Quả cầu vàng đầu tiên và một lần nữa được đề cử Giải thưởng Viện hàn lâm. Với The Aviator, Leo chấm dứt giai đoạn lang thang - anh biến những vai diễn thất bại của mình thành bài học, anh hiểu thêm về khả năng diễn xuất của mình và rồi tìm lại được tiếng nói nghề nghiệp rõ ràng hơn.

Khẳng Định Chính Mình

Với Leo, đó là quãng thời gian anh bắt đầu làm cho mọi người ngước nhìn theo một cách khác - không còn là “gương mặt đẹp” nữa; là một kẻ chịu mổ xẻ tâm lý trên màn ảnh, dám xắn tay áo vào những vai người ta thường né.
Appian Way là hãng sản xuất phim + TV do Leonardo DiCaprio lập ra để kiểm soát đầu ra nghệ thuật của chính mình: Tại đây anh chọn các kịch bản phim đúng gu mình, bảo vệ dự án khỏi sự pha tạp của các bên và đẩy mạnh truyền thông các phim tài liệu về môi trường - vấn đề mà Leo đã quan tâm từ rất sớm. Việc sáng lập Appian Way là một minh chứng không thể nào rõ ràng hơn rằng anh cực kỳ nghiêm túc trong việc phấn đấu trở thành ngôi sao hạng A.
Năm 2006, Blood Diamond xuất hiện như một cú tát tỉnh táo vào mặt khán giả: phim lấy bối cảnh Sierra Leone, nơi kim cương được đào bằng nỗi đau, mồ hôi, nước mắt, bằng mạng người, bằng tàn dư của chiến tranh. Edward Zwick đạo diễn; ở giữa cái hỗn độn đó, Leo vai Danny Archer - Leo đem đến một bản mặt “không hoàn hảo” - không anh hùng, không anti-hero (nhân vật phản anh hùng). Phê bình nhìn thấy sự cố gắng: anh dấn sâu vào vai, chịu trách nhiệm cho những hành động xấu nhưng vẫn giữ được sự phức tạp nội tâm. Và một đề cử Oscar cho Leo, một lời thừa nhận từ Hollywood: diễn xuất của anh giờ có trọng lượng.
Sự thay đổi vẻ ngoài chóng mặt của Leo
Sự thay đổi vẻ ngoài chóng mặt của Leo
Cùng năm, Leo xuất hiện trong The Departed - phim gangster với lần thứ tư diễn với sự dẫn dắt của Martin Scorsese. Từ đây cái tên “Leo + Scorsese” bắt đầu in sâu vào ký ức điện ảnh. Ở đó, anh là Billy Costigan, một cảnh sát chìm, sống hai cuộc sống. DiCaprio học cách làm dày diễn xuất: một vai diễn đòi hỏi phải biến đổi cảm xúc, bình tĩnh khi cần, bùng nổ khi bị dồn.
Đáng nhớ là anh làm việc với một đạo diễn có kinh nghiệm, đã kinh qua nhiều năm điện ảnh. Scorsese không ủy mị với diễn viên; ông bắt họ trả giá bằng cảm xúc thật. Leo trả giá - và được khen. The Departed mang về Oscar đầu tiên cho Scorsese và 4 Oscar khác cho phim.
Trở lại hợp tác với Kate Winslet (nữ chính Titanic), Revolutionary Road (2008) một bộ phim căng thẳng về một cặp đôi ngoại ô những năm 1950 phải đối mặt với vô số vấn đề cá nhân. Winslet đã gợi ý DiCaprio cho vai diễn này vì cả hai vẫn giữ mối quan hệ thân thiết sau Titanic và muốn hợp tác lại với nhau, nhưng lại muốn làm việc trong một bộ phim hoàn toàn khác.
2010, Scorsese và Leo tái hợp cho Shutter Island. Leo là Teddy Daniels, đi điều tra viên hoặc một bệnh nhân tâm thần đi vào một bệnh viện nằm trên hòn đảo gió lạnh. Càng đi sâu, ta càng thấy hắn mất đường, mất trí nhớ. Điều thú vị là Shutter Island làm rõ sở trường của Leo - anh làm cái “sợ” trở nên hữu hình. Phim ra mắt vào 19 tháng 2 năm 2010 và đạt gần doanh thu gần 300 triệu đô.

Inception

Có một bộ phim là một vụ cướp tinh vi: không lấy tiền, mà lại lấy cắp ý tưởng. Và rồi có những bộ phim là mê cung, nơi đạo diễn đặt cái bẫy cho chính khán giả của mình. Inception - giấc mơ bị viết ra, ghép tầng, quay chồng lên nhau như hộp nhạc bị nhiễu.
Christopher Nolan ôm ấp ý tưởng ấy trong một thời gian dài; ông viết, bỏ, để dành, rồi lại trở lại. Mầm ấy không nảy vội vì kịch bản vốn phức tạp; Nolan đợi đủ kinh nghiệm sau thành công của The Dark Knight mới dám biến một ý tưởng phức tạp thành bom tấn. Quá trình hoàn thiện kịch bản kéo dài cả thập kỷ, biến đổi từ một phim kinh dị/ăn trộm ký ức thành một “heist” trên nền tảng giấc mơ.
Leo đứng vào trung tâm của mê cung ấy - Dom Cobb, kẻ trộm ý tưởng, người cha mất mát, người mang tội lỗi trong đầu. DiCaprio là lựa chọn đầu tiên, lần đầu kết hợp với Nolan anh được thủ ngay vai chính; vai Cobb được gởi cho anh trước hết vì người ta cần một diễn viên có thể đồng thời hút khán giả vào mạch tâm lý và làm cho nỗi ân hận trở nên “có chiều”. DiCaprio đã đồng ý giảm lương cho bộ phim sau để đổi lấy một phần trăm lợi nhuận gộp của phim, cuối cùng mang về cho anh 50 triệu đô la , mức lương cao nhất mà anh nhận được cho một vai diễn điện ảnh cho đến nay.
DiCaprio vào vai Cobb bằng thứ năng lực mà người ta hiếm thấy ở các diễn viên khác: vừa có khả năng kéo khán giả xuống vực nỗi buồn, vừa đủ điểm neo để nói chuyện tình cảm phức tạp.
Ghi chú: một số điểm thú vị trong hậu trường
2 phút 40 và 3 phút 30
3 phút 40
Hậu trường cũng có những câu chuyện thú vị riêng: diễn viên phải học cách “di chuyển ngược” trong một số cảnh, quay hai lần - thuận và nghịch - để hiệu ứng đảo chiều thời gian trông thật; đoàn làm phim dựng những cảnh cháy, nổ bằng cơ khí; máy IMAX được tận dụng cho những cảnh lớn để kéo khán giả vào một không gian vừa rộng vừa kín.
Nhưng cuối cùng, Inception là một câu hỏi được đặt ra và thách thức cả rạp phim: cái nào đánh thức ai? Khi phim kết thúc, ta nhìn cái con quay trên bàn - lật, quay, có vẻ lung lay - và Nolan rút máy, tắt đèn, để lại người xem giữa hai lựa chọn: đây là thực tại hay còn kẹt lại giữa giấc mơ?
Từ Blood Diamond qua Shutter Island, Inception, có một điều rõ ràng: Leo không làm nghề bằng thói quen. Anh chọn những vai buộc anh phải đổi mình, phải học ngôn ngữ khác của diễn xuất. Anh cộng tác với những đạo diễn từng mài giũa điện ảnh: từ Scorsese, đến Nolan, Eastwood, Spielberg -như thể Leo đang đi học hết trường lớp danh giá. Cái tên của anh gắn liền với sự thành công, là sao hạng A mà nhiều đạo diễn mong muốn.

Vinh Quang và Đỉnh Cao

2011, Leo làm mới mình bằng một kiểu hóa thân khác: vào vai J. Edgar Hoover trong bộ phim cùng tên - người đàn ông điều hành FBI, người dựng nền móng an ninh nội địa của Mỹ, người ít cười, nhưng nhiều bí mật. Để chuẩn bị cho vai diễn, DiCaprio đã tiến hành nghiên cứu sâu rộng và đến thăm nhiều nơi Hoover thường lui tới ở Washington, D.C.
"Tôi thích đóng vai những nhân vật lịch sử đơn giản vì có rất nhiều thông tin vô cùng đa dạng và thú vị về một nhân vật khi bạn có thể nghiên cứu cuộc đời của họ", anh giải thích với Backstage . "Rất nhiều thứ mà bạn sẽ không bao giờ có thể bịa ra được với tư cách là một nhà văn."
Lần đầu tiên hợp tác với Quentin Tarantino, ông đã mời Leo vào bữa tiệc máu, nô lệ và thù hận, Tarantino một quái kiệt của điện ảnh đã yêu cầu một vai phản diện rất khó; Leonardo nhận lời, đóng vai Calvin J. Candie - một ông chủ điên tiết ở “Candyland”. Vai này này là thử thách lớn khi diễn sao cho người xem vừa căm ghét vừa bị mê hoặc. Django Unchained ra mắt vào 2012 và lập tức ném DiCaprio vào vùng tranh luận: diễn xuất của anh bị khen vì độ liều, bị chê vì tính khiêu khích của kịch bản - nhưng không ai phớt lờ anh được. Sự thật là anh đã hy sinh hết mình vì vai diễn này đến mức một fan trung thành cũng không nhận ra được đây là Leo. Trong cảnh quay đập bàn, dù tay anh bị thương nhưng vẫn nén cơn đau để cảnh quay được tiếp tục. Và thành quả đến khi giới phê bình hay người hâm mộ luôn xem đây là vai diễn xuất sắc nhất của Leo.
Ghi chú: cảnh Leo đập tay bị thương  nhưng nén đau
Chiếu theo bộ tiểu thuyết kinh điển của nhà văn F Scott Fitzgerald, Baz Luhrmann dựng nên một Gatsby rực rỡ: hip-hop quện sặc mùi jazz. Leonardo lần thứ ba diễn cùng người nhện Tobey Maguire, Leo thủ vai Jay Gatsby - kẻ xây lâu đài bằng ký ức, khoác áo bằng hy vọng. Luhrmann cần một gương mặt vừa bán được giấc mơ, vừa để lộ nỗi cô độc phía sau, và DiCaprio bước vào bằng dáng đi chỉn chu, bằng nụ cười “gượng”. The Great Gatsby ra mắt sau đó và đạt được 350 triệu đô doanh thu toàn cầu.
Tiếp theo, hãy tưởng tượng: một phòng họp, hàng trăm con người bị thôi miên bởi lời nói, champagne phun như pháo hoa, tiếng cười vỡ, điện thoại reo, tiền rơi - và Leo đứng giữa, thuyết pháp, mỉm cười, thao túng cả thị trường chứng khoán Mỹ. Đó là The Wolf of Wall Street (2013). Sau khi có bản quyền chuyển thể Wolf of Wall Street, Leo ráo riết tìm tài trợ cho phim. Hãng phim độc lập Red Granite đồng ý với một lời đề nghị mà không ai có thể khước từ. Với ngân sách 100 triệu đô, không cần kiểm duyệt và  “Toàn quyền sáng tạo”, Leo nhấc máy gọi ngay cho người thầy lâu năm của mình, Martin Scorsese. 
Leo kể rằng khi còn nhỏ sống với mẹ ở khu Hollywood & Western, Los Angeles - nơi có người buôn ma tóe, có nhà chứa, có gái mại dâm gần nhà. Khi mới 3-4 tuổi, anh đã nhìn thấy heroin, thấy cocaine, thấy cảnh người ta “tiêm chích” gần khu mình ở. Nếu Titanic có “I’m the king of the world” để tóm gọn cảm xúc tuổi trẻ và tự do, Wolf có những phân đoạn gợi cảm giác “đỉnh” - không phải vì lãng mạn, mà vì quá độ. Cảnh “quaalude” - khi Jordan vật lộn bò lê trên sàn - là bài kiểm tra thể chất và hài kịch tàn nhẫn; DiCaprio phải làm người xem vừa vừa xấu hổ vừa buồn cười.
Ghi chú: phân cảnh bê thuốc dù bị FBI nghe lén
Vai diễn Belfort của DiCaprio đã mang về cho anh giải Quả cầu vàng, cùng với đề cử cho Giải thưởng Viện hàn lâm cho Nam diễn viên chính xuất sắc nhất và Phim hay nhất.

Oscar

Sau The Wolf of Wall Street người ta nhận ra một sự thật phũ phàng. Ba mươi năm sự nghiệp, hàng tá bộ phim lớn, hàng trăm giải thưởng danh giá ở khắp mọi nơi trên thế giới. Nhưng vẫn thiếu một mảnh ghép: Oscar.
Cái bóng đó cứ lơ lửng phía trên đầu Leonardo DiCaprio như một trò đùa ác ý. Người hâm mộ đếm từng lần anh được đề cử rồi… ra về tay trắng. Người ta vẫn hay nói rằng: ”Leo không xứng với Oscar.Chỉ là Oscar không xứng với Leo mà thôi”.
Mọi sự thay đổi đến vào năm 2015, khi Alejandro González Iñárritu gọi tên DiCaprio cho dự án The Revenant. Kịch bản tái hiện câu chuyện có thật về Hugh Glass - một người tiên phong ở những năm 1820, bị gấu tấn công, đồng đội bỏ mặc, và phải bò lê qua hàng trăm dặm đất hoang chỉ để giành lại sự sống. Nếu những vai trước cho phép DiCaprio thuyết phục khán giả bằng ánh mắt và giọng nói, thì Hugh Glass là thử thách ngược lại: gần như không có thoại, tất cả chỉ còn lại thể xác, hơi thở, và sự sống sót trần trụi.
Để làm tròn vai, DiCaprio. Anh ăn gan bò rừng sống mặc dù là người ăn chay trường (dù đoàn phim đã chuẩn bị đạo cụ an toàn), anh ngủ trong xác động vật, anh chịu đựng nhiệt độ băng giá khắc nghiệt của Canada và Argentina. Các đồng nghiệp kể lại rằng có những ngày đoàn phim phải dừng quay chỉ vì bão tuyết ập đến, nhưng DiCaprio vẫn quyết tâm đẩy cơ thể đến tận cùng, để gương mặt tím tái và đôi bàn tay run rẩy trên màn hình không phải kỹ xảo, mà chỉ là sự đáng sợ của thiên nhiên.
The Revenant gây tiếng vang dữ dội. Giải Quả Cầu Vàng, BAFTA, SAG - tất cả lần lượt gọi tên DiCaprio. Và rồi, đến tháng 2 năm 2016, tại lễ trao giải Oscar, cái tên ấy cuối cùng vang lên: Leonardo DiCaprio, Nam diễn viên chính xuất sắc nhất. Khán phòng đứng dậy, khán giả qua màn hình vỡ òa. Internet biến nó thành “Oscar moment” bất tử và chính thức hủy diệt những chiếc meme trước đó về Leo và Oscar.
“Việc thực hiện The Revenant là về mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên, một thế giới mà chúng ta cùng cảm nhận vào năm 2015 là năm nóng nhất trong lịch sử được ghi nhận,” - Leo nói trong ánh sáng Oscar, giọng run nhưng chắc. “Biến đổi khí hậu là có thật. Nó đang diễn ra ngay lúc này. Đây là mối đe dọa cấp bách nhất mà toàn thể loài người đang phải đối mặt. Chúng ta cần chung tay hành động và ngưng trì hoãn.”
Leo nói trong ánh sáng Oscar, giọng run nhưng chắc
Leo nói trong ánh sáng Oscar, giọng run nhưng chắc
Ở giây phút lẽ ra anh có quyền tận hưởng vinh quang cá nhân, Leonardo DiCaprio lại biến nó thành một diễn đàn cho trái đất. Và có lẽ chính điều đó mới khiến tượng vàng năm ấy trở thành một trong những khoảnh khắc Oscar đáng nhớ nhất thế kỷ 21.

Hậu Oscar và Covid 19

Sau bốn năm nghỉ ngơi. Anh quay trở lại màn hình bằng cách chọn những cuộc chơi mới. Quentin Tarantino hợp tác với anh lần hai, mời anh vào một Los Angeles thập niên 1960: Once Upon a Time… in Hollywood. Bộ phim mở màn ở Cannes 2019. Phim nhận tiếng hoan nghênh, mang về cho anh thêm một đề cử lớn.
Và rồi Covid tới. Rạp tối. Màn hình chuyển sang streaming và Netflix. DiCaprio vào vai những người đang cố gắng hét lên trong một thế giới trễ nhịp: Don’t Look Up (2021) - một châm biếm lớn về chính trị, truyền thông và sự thờ ơ - đặt anh bên cạnh Jennifer Lawrence trong một câu chuyện mà người ta vừa cười vừa sợ. Phim gây tranh luận, bị chê là thô nhưng cũng được xem bởi hàng trăm triệu người.
Scorsese gọi. Một lần nữa, DiCaprio cùng Robert De Niro trả lời và bước vào một cỗ máy u tối: Killers of the Flower Moon (2023). Bộ phim ra mắt tại Cannes trong một khúc ca dài, nhận tràng vỗ tay đứng lên; câu chuyện về tham nhũng, máu, tham vọng và sự tàn nhẫn của nền kinh tế săn tài sản trở nên nặng nề.
Cùng quay trở lại vào những cuối thập niên 1990, Leo ở trên đỉnh cap. Có một vai diễn khác từng đứng trước mặt anh: Dirk Diggler của Boogie Nights  đến từ đạo diễn Paul Thomas Anderson. Lời mời ấy có thật. Nhưng lúc đó Titanic đã ký sẵn trong lịch, và con tàu của James Cameron chờ một người đứng dang tay trên mũi tàu. Leo chọn con tàu. Nhiều năm sau, anh thừa nhận: đó là “hối tiếc lớn nhất” một trong những chữ “NẾU” gây tiếc nuối của riêng Leo - vì đơn giản Boogie Nights là bộ phim làm cho cái tên Paul Thomas Anderson vươn tầm thế giới.
Paul Thomas Anderson không oán, và gần 30 năm sau, ông trao cho Leo một cơ hội mới One Battle After Another. Bộ phim hiện đang được công chiếu và nhận về rất nhiều lời khen, 96% cà chua tươi là minh chứng hùng hồn chỉ sau 2 tuần công chiếu. Với Anderson bên cạnh và One Battle After Another đang trở thành một cơn bão, tương lai của anh vẫn rộng mở - rồi chúng ta lại được chiêm ngưỡng màn diễn xuất của anh một lần nữa.
Đánh giá trên Rottentomatoes và thời điển bài này được up
Đánh giá trên Rottentomatoes và thời điển bài này được up

Những Drama Bao Quanh Leo

Một sự nghiệp dài hơn ba thập kỷ, từng bước leo lên đỉnh cao Hollywood, thì chuyện Leonardo DiCaprio dính drama là điều khó tránh. Thậm chí, có người còn nói Leo thành huyền thoại một phần vì scandal, một phần vì vai diễn.
Drama lớn nhất, dễ thấy nhất đó là cái danh “chàng trai chỉ yêu gái dưới 25” đã thành meme toàn cầu. Cứ mỗi lần báo chí đăng tin Leo chia tay bạn gái thì cả internet đồng thanh: “Chắc cô ấy vừa tròn 26.” Đến mức nhiều người chế hẳn biểu đồ, chỉ ra đường tình cảm của Leo như định luật, không thể sai. Nhưng nếu nhìn kỹ, đó vừa là miếng hài, vừa là sự thật khó nuốt. Leo yêu nhiều, chia tay nhiều, nhưng hiếm khi ồn ào cãi vã.
Drama thứ hai là chuyện Leo và Oscar. Hơn chục năm trời, khán giả biến sự “chưa thắng tượng vàng” thành một trò đùa quốc tế. Từ meme cầm tượng Oscar giả, tới clip anh “suýt thắng nhưng hụt”, cả thế giới dường như hùa vào chế giễu. Và cũng chính drama đó đã biến khoảnh khắc 2016 thành lịch sử: khi Leo cuối cùng nâng tượng thật trên tay, tiếng vỗ tay vang dài như một sự giải thoát chung. Chấm dứt luôn những chiếc meme huyền thoại về Leo và Oscar.
Ngoài đời, Leo cũng từng bị gọi là “đứa trẻ hư của Hollywood”. Những bữa tiệc hoang dại thời trẻ, hội bạn gọi là “Pussy Posse” (Biệt đội sát gái), có Tobey Maguire trong đó, từng khiến báo chí chĩa súng ngòi bút vào Leo. Cho đến hơn một năm gần đây khi vụ án của nam Rapper Diddy, người ta lại thấy Dicaprio và một số ngôi sao khác cũng dính liếu đến những buổi tiệc thác loạn này. Nhưng sau những đêm dài đó, anh vẫn giữ khoảng cách với ma tóe, không bao giờ để bản thân trượt xuống hố sâu của nhiều ngôi sao khác. Đó là mặt khác của drama: bị soi, bị chế giễu.
Bữa tiệc trắng của Diddy có sự góp mặt của Leo
Bữa tiệc trắng của Diddy có sự góp mặt của Leo

Người Kể Chuyện Vượt Qua Màn Ảnh

Leo kể chuyện bằng hành động xã hội. Anh lập quỹ từ năm 1998, khi mới hai mươi tư tuổi, để bảo tồn động vật hoang dã và chống biến đổi khí hậu. Anh kể về rừng Amazon, về băng tan ở Bắc Cực, về loài hổ Bengal… không phải bằng kịch bản, mà bằng tiếng nói thật, trên diễn đàn Liên Hiệp Quốc. Có lần, anh quyên 3 triệu đô chỉ trong một buổi đấu giá, rồi im lặng không cần đứng trước máy quay.  Đó là chuyện từ buổi gây quỹ sang chảnh của Leonardo (gala cho Leonardo DiCaprio Foundation ở St-Tropez). Ở đó có một cuộc đấu giá riêng lẻ bán mấy trải nghiệm siêu độc - ví dụ hai buổi hòa nhạc riêng tư với Elton John được bán với tổng ~3 triệu USD; cả đêm đã gom được hàng chục triệu (hơn 40 triệu USD tổng cộng) cho quỹ bảo tồn Leonardo DiCaprio Foundation (LDF) của anh.
Anh kể chuyện bằng sự im lặng ngoài đời tư. Không scandal tình cảm ầm ĩ, không trả lời báo lá cải, Leo chọn cách im lặng để đời sống riêng không làm lu mờ tác phẩm. Trong thời đại mọi ngôi sao đều muốn biến cuộc sống thành chương trình thực tế, Leo lại chọn con đường ngược lại. Chính sự im lặng đó khiến anh trở thành huyền thoại.

Kết Bài

Leonardo DiCaprio bước từ những con hẻm nhỏ đến với Hollywood lên sân khấu thế giới. Từ cậu bé đóng quảng cáo, qua những vai độc lập dị biệt, rồi giang tay trên mũi Titanic, và cuối cùng là tự dấn thân vào địa ngục tuyết giá trong The Revenant. Anh đã thử mọi cung bậc: dịu ngọt, cay đắng, giận dữ, trầm lặng. Anh học cách dùng gương mặt để kể chuyện, dùng cơ thể để chịu đựng, và dùng tiếng nói để đánh thức thế giới.
DiCaprio thành hiện tượng vì anh dám liều lĩnh. Anh chọn đạo diễn như chọn tri kỷ, chọn kịch bản như bằng tất cả sự cân nhắc. Thành công không phải đích đến; nó là tấm vé cho những thử thách mới. Và đó là cách mà Oscar là minh chứng sống động nhất của anh: hãy tiếp tục lăn xả, tiếp tục tạo ra những vai khiến khán giả phải im lặng rồi bùng nổ. Song song với diễn xuất, anh biến danh tiếng thành vũ khí cho điều lớn hơn: biến đổi khí hậu, bảo vệ cộng đồng bản địa, trách nhiệm toàn cầu. Anh đã biến nghệ thuật ra khỏi khuôn mẫu giải trí, biến nó thành hành động.
Nhìn về phía trước, mong chờ dành cho Leo không phải là thêm một bức tượng vàng. Mong chờ là những vai diễn tiếp theo thử thách được giới hạn của anh, những dự án dám thách thức điện ảnh, và cả sự xuất hiện của anh như một người thầy cho lớp trẻ. Người ta hy vọng anh sẽ còn tạo ra những nhân vật khiến trái tim nhói lên, nhưng vẫn muốn xem đi xem lại.
One Battle After Another” sắp mắt với một niềm tin vào cái tên Leo. Cuộc đời Leonardo vẫn đang viết tiếp trên màn ảnh: khi sáng rực, khi tối đặc. Chính sự bất toàn ấy khiến ta tin rằng điện ảnh tác động cực đại đến cảm xúc, thay đổi cả một đời người. Và thế giới sẽ còn dõi theo để xem anh sẵn sàng đánh đổi điều gì tiếp theo cho những câu chuyện xứng đáng được kể.
Kraven | 25/09/2025 | 15:51