Những ai đã từng xem qua qua Triology bất hủ The Lord Of The Rings chắc hẳn sẽ chẳng còn mấy xa lạ với hình ảnh những con voi chiến không lồ mang trên mình những tháp pháo to lớn với đầy trên đó là những chiến binh hung hăng, bặm trợn dày xéo cả chiến trường và gây vô vàn khó khăn cho những kị binh Rohan thiện chiến trong trận chiến kinh điển Battle Of Pelenor.
Qua bộ 3 tác phẩm gốc cùng tên của nhà văn JRR-Tolkien thì chúng ta được biết thêm rằng những sinh vật đáng sợ này mang tên "Mûmakil" hay "Khổng Tượng", một loài voi khổng lồ đến từ những vùng đất xa xôi phía Nam Middle Earth (Trung Địa), hay còn được biết đến là Far Harad (Viễn Harad) và hiên ngang cưỡi trên lưng chúng là không ai khác ngoài những chiến binh thuộc tộc người Phương Nam, Haradrim.Tại Trung Địa, họ được nhớ đến trong suốt kỷ đệ tam như những bề tôi trung thành, đắc lực của chúa tể bóng tối Sauron và bên cạnh đó cũng là một trong những kẻ thù hàng đầu của Gondor, vương quốc lưu vong của các Numenor Trung Tín (The Faithful). Tuy nhiên, khác với sự xấu xa, hung tợn đơn thuần mà họ thể hiện trên phim, dân tộc này lại có một bề dày lịch sử đầy thăng trầm khi chúng ta thực sự đi sâu vào câu truyện của họ. Vậy những sự khác biệt ấy là gì, mời mọi người hãy cùng mình tìm hiểu trong bài viết sau đây.
Người Harad trong Chúa Nhẫn Triology
Người Harad trong Chúa Nhẫn Triology

------------------------------------------------------------------------------

Nguồn Gốc - Kỷ Đệ Nhất

------------------------------------------------------------------------------

Về nguồn gốc của chủng tộc này, khi loài người vừa thức tỉnh tại Trung Địa vào Kỷ Đệ Nhất, họ đã liên tục phải gánh chịu sự quấy nhiễu đến từ tể bóng tối đầu tiên,Melkor.Theo cuốn Morgoth's Ring thuộc Series History of Middle Earth, giai đoạn này còn được biết đến với cái tên "The First Fall Of Men", một trang sử đen tối và bí ẩn bật nhất trong lịch sử nhân loại .Tuy những tài liệu mà mình tìm hiểu được trong sách vẫn còn khá mơ hồ, có một vài điều có thể xác nhân được rằng trong khoảng thời gian này, Melkor đã thực hiện hàng loạt những ý đồ thâm độc độc từ dụ dỗ, nịnh hót đến đe dọa, đàn áp nhằm lôi kéo toàn bộ nhân loại về phía mình và rõ hàng hắn cũng đã đi được rất xa trong âm mưu đó khi không ít người đã chấp nhận quy phục, tôn thờ cũng như tiếp tay cho những hành động tàn bạo của hắn mà có lẽ mãi cho đến tận thời bạo chúa Ar-Pharazôn chúng ta mới lại phải chứng kiến. Nhưng bất chấp quyền năng và ảnh hưởng không thể chối cãi của Melkor, vẫn có vô số những sự phản kháng mãnh liệt trong cộng đồng loài người và trong số đó có những nhóm người có vẻ đã thành công chạy đến tận vùng Rhun hoặc Harad tại Viễn Nam,trở thành tiền thân cho người Haradrim sau này. Vì những khu vực này cách khá xa với chiến trường chính của Kỷ Đệ Nhất, Beleriand nên không hề có bất kỳ người Harad nào có vai trò nổi bật xuyên sốt Kỷ 1, đây vừa là một vận may đối với dân tộc này khi không phải trải qua những trận chiến đẫm máu bậc nhất lịch sử Trung Địa và cũng vừa là một tai ương cho khi không được tiếp xúc với những tiên tộc thông thái, họ dần trở nên thua thiệt cả về mặt kiến thức lẫn khả năng chế tác so với các Edain, 3 gia tộc loài người có giao tình thân thiết với Tiên tộc,điều mà rất có thể sẽ ảnh hưởng nặng nề đến vị thế của họ trong các Kỷ Nguyên tiếp theo khi bị kẹp chặt giữa một vương quốc suy đồi cùng 1 chúa tể hắc ám mới.

------------------------------------------------------------------

Kỷ Đệ Nhị

------------------------------------------------------------------------------

Mở đầu:

Đây chính là thời điểm mà những đợt triều đầu tiên trỗi dậy trước dân tộc này sau những ngày tháng sóng yên biển lặng khi dưới thời vua Tar Elendil (590-740), những con tàu tại Numenor đã bắt đầu các chuyến hải trình trở về Trung Địa sau nhiều năm xa cách. Ban đầu, họ chủ yếu cập bến tại phía Đông, nhất là Lindon nhằm dần thắt chặt các mối quan hệ ngoại giao với cộng đồng tiên tộc nơi đây và đến khoảng những năm 1200SA thì những khu định cư lâu dài đã bắt đầu được xây dựng dọc theo khắp các vùng duyên hải Trung Địa. Trung thời gian này, người Numenor đã có cơ hội được gặp gỡ với rất nhiều những chủng tộc, nền văn minh khác của loài người trên khắp các vùng đất họ đặt chân và chỉ trong 1 thời gian ngắn đã nhanh chóng kết thân với phần lớn các dân tộc này thông qua tinh thần nhiệt thành học hỏi tiếp thu cũng như truyền đạt những tinh hoa của mình với không chút câu nệ giúp họ được nhớ đến như nhưng người bạn, người thầy đáng tin cậy ở khắp mọi nơi bao gồm cả Harad. Dưới sự chỉ dạy của những bằng hữu Numenor, người Haradrim đã nhanh chóng đạt được những tiến bộ vượt bậc ở nhiều khía cạnh như :nông nghiệp, chế tác,... ít nhiều bù đắp lại cho sự thua thiệt trong quá khứ.Cũng trong giai đoạn này, cảng Biển Umbar được khởi công xây dựng gần biên giới Harad và trở thành 1 trong những thành phố xầm uất, trọng yếu bật nhất tại phương Nam.

Biến Động:

Tuy nhiên, những ngày tháng bình yên ấy không kéo dài được lâu khi bên cạnh sự trỗi dậy của vương quốc Numenor thì tại phương đông xa xôi: Sauron, bề tôi đắc lực nhất của chúa tể bóng tối Melkor nãy đã trở lại và bắt đầu nhen nhóm những dã tâm đầu tiên cho việc đưa cả Trung Địa về với những ngày tháng tăm tối của những thời đại trước đây. Trong suốt những ngày tháng thái bình ở nửa đầu kỷ đệ nhị, Sauron đã không ngừng gia tăng, củng cố lực lượng của mình thông qua việc dụ dỗ, tha hóa những chủng tộc tại phương Đông mà nổi bậc có dân Easterling từng phục vụ cho cả Melkor vào kỷ đệ nhất.Bên cạnh đó, hắn cũng vươn vòi bạch tuộc của mình ra cả phương Nam với những nổ lực nhằm tha hóa và kiểm soát người Haradrim mà nay đã là 1 thế lực có ảnh hưởng trong khu vực. Trước những động thái vô cùng đáng lo ngại của Sauron với các dân tộc tự do, Valinor đã buộc thực hiện những nước đi mạnh tay đầu tiên kể từ Trận Chiến Thịnh Nộ khi vào khoảng những năm 1600 SA, 2 sứ giả từ Cõi Phước là Alatar và Pallando đã được gửi đến Trung Địa dưới hình hài những pháp sư áo xanh.
(Yup dù ở các cộng đồng Tolkien tại Việt Nam và các tác phẩm như Silmarillion, Unfinished đều chỉ ra rằng các pháp sư xanh chỉ đến trong Địa vào giữa kỷ 3 (TA) nhưng ở trong cuốn People of Middle Earth thuộc series History of Middle Earth được xuất bản nhiều năm sau đó thì lại chỉ ra rằng họ đã có mặt tại Trung Địa từ tận giữa kỷ 2, sớm hơn phần còn lại đến gần 3600 năm).
Các phù thủy xanh khả năng cao đã cập bến tại Cảng Xám và như chúng ta được biết thì ngay sau đó họ đã tbắt đầu hành trình phiêu bạc đến khắp các vùng đất phương Đông, Nam Trung Địa nhằm nỗ lực ngăn chặn hoặc đẩy lùi càng nhiều càng tốt những ảnh hưởng đang ngày một lớn mạnh của Sauron. Nếu qua History Of Middle Earth, ta biết được rằng họ đã có những thành công nhất định tại phương đông. Thì mới đây, trong cuốn The Nature Of Middle Earth, tác phẩm canon gần nhất thuộc Legendarium cũng chỉ ra rằng điều tưng tự đã diễn ra tại phương Nam.
Đối với những hoạt động của họ tại các vùng đất phía Nam,nhiều người tin rằng trong thời gian Sauron bành trướng thế lực, đã có rất nhiều lực lượng Haradrim trung thành tiến hành hàng loạt các cuộc nổi loạn chống đối nhưng lại thường chẳng có mấy tiến triển do sự thiếu liên kết giữa các lực lượng này. Do vậy, các phù thủy xanh đã quyết định du hành xuống phía Nam và lãnh đạo họ đứng lên chống lại chúa tể hắc ám một cách thật sự đoàn kết và thống nhất .Cũng như Gandlaf đã lãnh đạo cả phương Tây trong suốt chiến nhẫn, các phù thủy xanh cũng đã làm được điều tương tự với phương Nam
Bước ngoặc của cuộc kháng chiến xảy đến vào giai đoạn Đại Chiến Tiên Tộc Và Sauron (1697-1701 SA). Tại đây, Sauron đã dồn toàn bộ nguồn lực hiện có từ cả Mordor và các nước chư hầu nhằm tung một đòn quyết định vào những quốc gia và vùng lãnh thổ tại miền đất phương Bắc Eriador như: Eregion, Lindon,Cảng Xám,... nhằm thu hồi lại những chiếc nhẫn sức mạnh đang bị giấu kín bởi tiên tộc và bên cạnh đó cũng là để giáng 1 đòn kết liễu với tất cả các thế lực còn lại có thể là mối nguy với uy quyền tuyệt đối của hắn tại Trung Địa. Quân đội của Chúa Tể Hắc Ám tiến công như vũ bão và thắng trận như chẻ tre trong trong khi tiên tộc cùng đồng minh thì chiên đấu ngày càng rệu rã với Eregion nhanh chóng thất thủ(1697), Rivendell bị bao vây, Lindon cô lập hoàn toàn với phần còn lại và thậm chí cả vương quốc Khazak Dum hùng mạnh của gia tôc người lùn Durin cũng phải khép chặt mọi cổng thành trước sức mạnh không thể bàn cãi mà Modor đang thể hiện. Tuy nhiên, khi đang trên đà chiến thắng, Sauron lại quên mất 1 thế lực hùng mạnh vẫn chưa xuất hiện, những ngọn gió dữ từ đất Tây Châu đang chuẩn bị kéo đến và hóa thành cơn cuồng phong.
Đó là những hậu nhân của 3 Đại Gia Tộc, của những chiến thần loài người hùng mạnh từng gây nên bao nỗi khiếp cho thế lực hắc ám từ tận những ngày xa xưa, là vương quốc Numenor vĩ đại với hơn 1 thiên niên kỷ thái bình thịnh trị và nay đã vươn lên thành thế lực hùng mạnh và vĩ đại bất nahats trong lịch sử loài người. Trước lời khẩn cầu từ Lindon, đức vua của Numenor lúc này là Tar Minastir đã liền cử 1 đại hạm đội dưới sự lãnh đạo của đô đốc hải quân Ciryatur đến tiếp ứng. Đội quân cập bến Cảng Xám vào năm 1700 SA và với sức mạnh áp đảo, họ nhanh chóng đẩy lui Sauron trên mọi mặt trận và đạt được chiến thắng dứt điểm tại trận Gwathló (1701) dưới sự giúp sức của tiên tộc và người lùn. Qua đó, đập tan triệt để âm mưu thống trị Trung Địa của Sauron cùng gần như mọi thứ hắn đã dày công xây dựng trong suốt hàng thế kỷ.
Sau cuộc chiến khốc liệt này, tình hình đã có phần dịu đi nhiều đối với phương Nam và Haradrim. Qua thất bại của Sauron, quân kháng chiến dưới sự lãnh đạo của các phù thủy xanh cuối cùng đã có cơ hội lập lại trật tự trên lãnh thổ của mình.Tuy nhiên, những ngày tháng bình ổn đó chẳng kéo dài được lâu khi lần này, những hạt giống tội lỗi lại nảy mầm ngay chính từ những bạn hữu quả cảm của họ khi xưa.
Nhiều năm trôi qua, các vị vua nói riêng và cả dân tộc Numenor nói chung ngày càng trở nên cay nghiệt với món quà "cái chết" mà mình phải đón nhận từ Eru Iluvatar. Bởi dù có được một tuổi thọ rất dài nếu so với các dân tộc bình thường như Harad, chúng vẫn chẳng là gì trước sự sống vĩnh hằng của Tiên Tộc và cũng vì thế mà sự căm tức, ganh ghét của người dân Numenor đối với Tiên Tộc và các Valar đã nãy sinh và không ngừng leo thang trên quốc đảo này.
Năm 1869 SA, Tar-Ciryatan nối ngôi Minastir trở thành vị vua thứ 12 của Numenor, thời đại của ông đánh dấu những sự thay đổi dữ dội tại vương quốc này đặc biệt là trong mối ban giao với các dân tộc khác khi thay vì tiếp cận với tinh thần giao lưu, học hỏi và giúp đỡ như trước , chính sách của họ dần chuyển thành 1 dạng khai thác thuộc địa thông qua việc sắc phong hàng loạt các thủ lĩnh Numenor làm lãnh chúa của các tộc người tại Trung Địa, không loại trừ cả dân Harad và thêm vào đó là áp đặt hàng loạt các chính sách cống nạp hà khắc lên các khu vực này. Kể từ đây, căng thẳng tại Trung Địa cứ ngày một leo thang khi bên cạnh một Numenor sa đọa, Sauron khi này cũng đang không ngững nỗ lực khôi phục sức ảnh hưởng của mình tại phương Đông và Nam thông qua quyền năng của nhẫn chúa cùng với sự xuất hiện của các Nazgul (khoảng 2200SA) . Tại đây, hắn được tôn thờ như 1 chúa đế (God-King) bởi những tín đồ và nhanh chóng trở ại vị thế mối đe dọa hàng đầu của các dân tộc tự do. Ở bên kia chiến tuyến, Numenor cũng chẳng để yên khi liên tục áp bức các vùng cảng của Harad, trùng tu và biến Umbar thành 1 pháo đài kiên cố bậc nhất (2280SA) mà đến hàng nghìn năm sau nơi đây vẫn được xem như 1 vị trí chiến lược tối quan trọng của vương quốc Numenor lưu vong Gondor.
Qua đây, ta có thể thấy được phần nào tình thế khó khăn của các phù thủy xanh cùng lực lượng kháng chiến khi lúc này họ không chỉ phải chống chọi 1 Sauron đang ngày một lớn mạnh trở lại mà còn là cả 1 đế quốc sa ngã nay đang bành trướng như tằm ăn lá. Các cuộc giao tranh vẫn tiếp diễn liên miên suốt hàng thế kỷ và đạt đến đỉnh điểm khi Ar-Pharazon, lãnh đạo của Đảng Vua (phe chống Valar) thành công cướp ngôi và trở thành vị vua Thứ 24 của Numenor (3255 SA). Với bản tính kiêu hãnh và tham lam vốn có, ông không thể chấp nhận cái danh xưng Vua Của Loài Người hay Chúa Tể Mặt Đất mà Sauron tự phong nên chỉ 6 năm sau khi lên ngôi (3261 SA), Ar Pharazon đã lập tức tổng động viên và huy động được 1 hạm đội hùng mạnh chưa từng có trong lịch sử , hướng mũi giáo thẳng vào Mordor nhằm chấm dứt sự kiêu ngạo hóng hách của Chúa Tể Bóng Tối cũng như đưa Numenor lên vị thế độc tôn tại Trung Địa một lần và mãi mãi. Quân Numenor cập bến Umbar, tức tốc hành quân qua Harad và áp sát Mordor chỉ trong vòng vài tháng ngắn ngủi mà không gặp bất kỳ trở ngại nào. Nhận ra sự vô vọng trong việc chống trả Ar-Pharazon bằng sức mạnh quân sự, Sauron đã khiêm nhường chấp nhận đầu hàng vô điều kiện và bị đày ải đến Numenor làm con tin. Qua đó, những ngày tăm tối bị kìm kẹp giữa 2 thế lực hắc ám của người Haradrim đã chính thức kết thúc . Khởi đầu cho... một cơn ác mộng thực sự.

Kết Thúc:

Dù không còn được tung hoành như thời còn trú ngụ tại sào huyệt Mordor, Sauron vẫn luôn có thể tìm cách gieo rắc tai họa và khổ đau khi với tài năng cùng miệng lưỡi của mình, hắn đã dễ dàng thăng tiến từ 1 con tin thấp hèn trở thành cố vấn tối cao của chính quyền Ar-Pharazon chỉ sau một thời thời gian ngắn ngủi. Lợi dụng sức ảnh hưởng của bản thân cùng cơn khát sự sống vĩnh hằng vốn đã ăn sâu trong máu của Ar- Pharazon nói riêng và dân Numenor Đảng Vua nói chung, Sauron đã không ngừng gieo rắc vào họ những ý tưởng điên rồ khiến những chính sách đàn áp vốn đã khắc nghiệt của họ đối với các thuộc địa nay còn bạo tàn và nhẫn tâm hơn. Các thành viên của Đảng Vua nô lệ hóa không chỉ những người theo phe Trung Thành mà còn cả rất nhiều nhóm dân vô tội từ Harad và dưới sự xúi giục từ Sauron, rất nhiều người đã bị hiến tế 1 cách man rợ nhằm đổi lấy sự bất tử trọn vẹn như hắn yêu cầu. Cuối cùng, khi thời cơ đã chín mùi, Sauron thúc đẩy người Numenor thực hiện hành động rồ dại nhất: tuyên chiến với cả Aman và các Valar và qua đó khiến đảo quốc này bị nhấn chìm tận sâu xuống đáy đại dương, đặt dấu chấm hết cho thời đại huy hoàng bật nhất trong lịch sử loài người.
Sau sự sụp đổ của Numnenor, màn đêm vẫn còn bao phủ tại đất Harad khi bên cạnh những người Numenor Trung Thành đã may mắn thoát được số phận diệt vong nhờ tuân theo những lời cảnh báo trước đó từ các Valar, rất nhiều lãnh chúa thuộc đảng vua sẵn đã sinh sống tại Harad cũng đã sống sót và sau này còn được biết đến dưới cái tên Hắc Numenor. Giờ đây, hoàn cảnh của người Haradrim không quá khác biệt so với hồi giữa kỷ 2 khi lại một lần nữa họ bị mắc kẹt giữa 2 thế lực hắc ám với 1 bên là Sauron đang không ngừng củng cố quyền lực tại đại bản doanh Mordor sau khi thành công nhổ bỏ cái gai nhọn Numenor và bên còn lại chính là các Hắc Numenor tuy không còn hùng mạnh như xưa nhưng lại có liên kết cực kỳ chặt chẽ với Sauron và tôn thờ hắn như 1 vị thần.Cùng nhau, 2 thế lực này đã có thể tuyển mộ những đạo quân Harad thiên chiến hung bạo khiến phe kháng chiến của các phù thủy xanh bị lấn át gần như hoàn toàn. Tuy vậy, sau hơn 1 thế kỷ bành trướng, sức mạnh cũng như tầm ảnh hưởng của Chúa Tể Bóng Tối đã tăng cao quá sức tưởng tượng khiến các dân tộc tự do tại Trung Địa buộc phải đi đến quyết định cuối cùng về 1 cuộc chiến tổng lực với Mordor. Một liên minh với quy mô chưa từng có giữa Tiên-Người-Lùn được thành lập vào năm 3430 SA với tiên tộc chiến đấu dưới ngọn cờ của Gil Galad bên cạnh loài người được dẫn dắt bởi lãnh đạo phe Trung Thành Elendil cùng người lùn Durin được lãnh đạo bởi Durin 4. Ở bên kia chiến tuyến, Sauron cũng đáp trả rất quyết liệt khi triệu tập toàn bộ lực lượng hiện có từ cả Modor, Harad, Easterling,... Tuy nhiên, nhờ vào những hoạt động của các phù thủy xanh và lực lượng Harad kháng chiến, các cuộc hành quân của Sauron tại phương Nam đã bị cản trở khiến cho Sauron đã phải tham gia với 1 lực lượng yếu hơn khá nhiều dù có lẽ vẫn áp đảo phe liên minh về mặt số lượng. Sau 11 năm chiến đấu ròng rã, Sauron cuối cùng đã bị đánh bại dưới chân tòa tháp Barad- Dur, tạm thời kết thúc sự quấy nhiễu của Chúa Tể Hắc Ám lên Trung Địa. Dù vậy, những ảnh hưởng mà Sauron đã tạo nên với Haradrim trong suốt hàng trăm thậm chí là nghìn năm vẫn là quá lớn để có thể bị xóa nhòa chỉ sau 1 thời gian ngắn. Nhưng dù sao, kỷ Đệ Nhị với đầy đau thương và biến động cũng đã kết thúc, báo hiệu cho một kỷ nguyên mới tuy đã có phần sáng lạng hơn nhưng cũng không qúa hứa hẹn với Haradrim bởi dù hai thế lực kìm kẹp họ nay đã lụi tàn, vẫn còn rất nhiều mâu thuẩn cần phải đối mặt, nhất là với chính những kẻ thù từ bên trong.
----------------------------------------------------------------------------------------------------
Kỷ Đệ Tam
----------------------------------------------------------------------------------------------------

Khởi Đầu:

Dù triều đại của Sauron nay đã tạm thời khép lại sau trận chiến Liên Minh Cuối Cùng, cơn khát quyền lực của những kẻ từng phục vụ Sauron khi xưa vẫn gần như không hề có dấu hiệu gảm sút, rất nhiều trong số đó đã tụ họp lại và trở thành những đối thủ đáng gờm của Gondor trong khi những phe phái ôn hòa khác vẫn tiếp tục bị kìm kẹp. Dù vậy, trong suốt hơn 1000 năm đầu tiên của kỷ đệ tam, giao tranh hiếm khi diễn ra giữa biên giới của 2 vương quốc loài người này (có lẽ liên quan đến sự suy thuyên giảm nhanh chóng của dòng máu Hắc Numenor do đã phải bắt đầu lai tạp với những dân tộc thấp bé hơn) và thậm chí có vẻ còn từng có 1 số nổ lực nhằm hàn gắn mối quan hệ giữa 2 bên, nổi bật là cuộc hôn nhân giữa đức vua thứ 12 của Gondor Tarannon Falastur và hoàng hậu Benuthiel, một black numenor đến từ Umbar.
Hoàng hậu Beruthiel
Hoàng hậu Beruthiel
Tuy nhiên, những nổ lực này đều chẳng đem lại mấy kết quả khi vào năm 913 SA, cháu trai của Tarannon Falastur là Earnil I nối ngôi trở thành vị vua thứ 13 của Gondor.Ngay khi đăng cơ, ông đã không ngừng cũng cố sức mạnh hải quân của Gondor nhằm xây dựng một hạm đội hùng mạnh qua đó phát động chiến tranh toàn diện với Harad và thành công chiếm được Umbar vào năm 933 thông qua một cuộc đổ bộ trên cả biển và đất liền nhưng ông lại không tận hưởng chiến thắng được quá lâu khi vào năm 936 ông mất tích trên biển cùng rất nhiều tàu thuyền và thủy đoàn. Không lâu sau, con trai Earnil I nếu ngôi và trở thành vua Ciryandil. Giai đoạn trị vì của ông chứng kiến sự trở lại của các lãnh chúa Hắc Numenor cùng bề tôi Harad khi vào năm 1015 một đạo quân lớn đã tràn vào Umbar dẫn đến một cuộc giao tranh nảy lửa và chính vua Ciryandil cũng đã tử trận nhưng quân đội Gondor vẫn có thể chống chọi suốt một thời gian dài sau đó nhờ vào hạm đội hải quân hùng hậu tại Umbar.Tới năm 1050, quân Harad đối mặt với một cú sốc mới khi con trai Ciryandil là Ciryaher tái tổ chức quân đội và phát động 1 cuộc tấn công toàn diện lên quân Harad cũng trên cả biển lẫn dất liền và dành được 1 chiến thắng hết sức vang dội mà mãi về sau hậu thế vẫn nhớ đến ngài với tên Hyarmendacil-Kẻ Chinh Phạt Phương Nam. Thất bại ê chề này đã khiến giới cầm quyền Harad buộc phải công nhận quyền cai trị của Gondor trên Umbar cũng như vương quyền của Hyarmendacil I, chấp nhận cống nạp và gửi các con trai mình đến làm con tin tại hoàng thành Minas Tirith. Nhưng sau đó, dân Harad vẫn không từ bỏ tham vọng nuốt chửng phương Tây của mình, họ không ngừng kết liên minh với các thế lực thân Sauron có mặt trên khắp Trung Địa như Easterling, Dunlanding,.. và nổi bật nhất phải kể đến Hải Tặc Umbar, một lực lượng hải quân Hắc Numenor khét tiếng đang trở nên ngày càng thù địch với Gondor kể từ sau Nội Chiến (1442-1447SA)
Hải Tặc Umbar
Hải Tặc Umbar
Kể từ đây, các cuộc giao tranh vẫn diễn ra đều đặn giữa biên giới Gondor-Haradrim trong suốt hơn 1500 năm sau đó với mỗi bên đều có giai đoạn chiếm ưu thế của mình nhưng nhìn chung không có gì quá nổi bật ngoại trừ chiến dịch năm 1944 khi quân Harad và Easterling hợp lực tấn công Gondor từ cả phía Bắc và Nam nhưng nhanh chóng bị chiến thần Gondor Earnil II nghiền nát khi đang cố vượt sông Anduin và không lâu sau quân Easter cũng chịu kết cục tương tự vì mãi mê ăn mừng một chiến thắng trước đó.

Hồi Kết:

Sau nhiều thế kỷ chiến tranh đẫm máu, người Haradrim cuối cùng đã bước đến hồi kết của những đau thương cũng như sự bắt đầu cho một kỷ nguyên mới của nhân loại. Họ đã đến với Chiến Nhẫn.
Trong giai đoạn này, ta không được nghe nhiều về những hành động của những lực lượng chống lại Sauron tại phương Nam nhưng mặt khác những Haradrim phục vụ hắn đã rất xông xáo tại mặt trận phía Tây khi vào ngày 20/6/3018 TA, một cánh quân Harad được chỉ huy bởi đích thân Vua Phù Thủy Xứ Angmar đã tấn công trực diện vào phòng tuyến Osigiliath của Gondor lúc này đang phòng thủ dưới sự lãnh đạo của 2 anh em Faramir và Boromir qua đó làm suy yếu sức kháng cự của Gondor và đồng thời tạo nên 1 lớp ngụy trang cho các Nazgul xâm nhập vào Gondor và hướng thẳng đến xứ Shire trong chuyến săn tìm Frodo cùng Nhẫn Chúa.Trong những tháng tiếp theo, các quân đoàn Haradrim liên tục hành quân từ phương Nam, băng qua Tuyến Đường Harad và hướng thẳng vào Mordor, cũng cố thêm cho sức mạnh đang ngày càng phình trướng của Chúa Tể Bóng Tối. Ngày 7/3/3019, Frodo và Sam đã chứng kiến một cuộc giao tranh diễn ra giữa một trong những đạo quân đó tại Ithilien với một đội cảnh vệ Gondor được lãnh đạo bởi Faramir. Tại đây, họ đã được tận mắt nhìn thấy một trong những cổ máy chiến tranh khủng khiếp nhất thời bất giờ, voi Chiến Mumakil, một loài voi khổng lồ sinh sống tại những cánh rừng xa xôi thuộc vùng Viễn Harad nằm tận rìa bản đồ.
ảnh trên Pinterest của Blackbriar
ảnh trên Pinterest của Blackbriar
Trong một đoạn văn nổi tiếng thuộc cuốn Hai Tòa Tháp, chúng ta đã được nghe Samwise kể lại trận giao tranh dưới chính góc nhìn của cậu khi đứng trước xác chết của một người lính vô danh:
" Chú lấy làm mừng khi không phải nhìn thấy khuôn mặt người chết.Chú tự hỏi tên người đó là gì và anh ta từ đâu đến; và liệu trái tim quanh ta có thực sự xấu xa hay không, hay những lời nói dối, hay mối đe dọa nào đó đã dẫn anh ta vào cuộc hành quân dài đăng đẵng rời khỏi quê hương, và liệu có phải anh ta chỉ ước ao ước được hưởng cuộc sống yên bình " - Hai Tòa Tháp trang 344
Qua đoạn trích trên, ta nhận ra được rằng Sam đã đoán biết được sự thật mà mọi người cũng có thể cảm nhận thông qua những dòng trên: Người Haradr chưa từng chỉ là một dân tộc tôn sùng cái ác, luôn sẵn lòng phụng sự Sauron và Lord Of The Rings nói riêng, cũng như thần thoại Legendarium nói chung không chỉ đơn giản là 1 vũ trụ chỉ có Trắng và Đen.
Trở lại với cuộc chiến, vì lo âu rằng sẽ có kẻ sử dụng nhẫn chúa chống lại mình, Sauron đã buôc phải bắt đầu các chiến dịch quân sự sớm hơn dự tính với một lực lượng vẫn chưa đầy đủ. Vào ngày 14/10/3019, một đại quân đoàn được tung ra từ Mordor và Minas Ithil dưới sự chỉ huy của Witch - King với khoảng 18-20 nghìn quân Harad cùng Mumakil trong hàng ngũ đươc lãnh đạo bởi một người phương Nam có biệt danh Rắn Đen hành quân thẳng đến Minas Tirith. Họ dễ dàng xuyên thủng phòng tuyến Osgiliath cùng Vòng Thành Ngoài vừa được xây dựng và áp sát dưới chân Hoàng Thành Gondor. Chính tại đây, đã diễn ra Trận Chiến Đồng Pelennor, trận chiến lớn nhất trong lịch sử Kỷ Đệ Tam mà mọi người đã phần nào được chiêm ngưỡng thông qua Triology chúa nhẫn của Peter Jackson.
Cuộc chiến kết thúc với chiến thắng thuộc về liên quân Gondor và Rohan cùng cánh quân của Aragon Sau cuộc chiến, các quân đoàn của Modor bị đập nát bởi đức vua Eomer, Hoàng thân Imladris và Aragorn và bị săn đuổi gắt gao. Quân Harad cũng chịu chung số phận với phần còn lai khi thủ lĩnh Rắn Đen bị giết tại trận bởi Theoden nhưng thay vì bỏ chạy như phần lớn orc và quái vật khác thì họ lại tập hợp hàng ngũ cũng những người Easter và tất cả chiến đấu cho đến người cuối cùng. Dù vậy, lực lượng Haradrim còn đóng tại Mordor vẫn cực kỳ hùng hậu và đều đã sẵn sàng cho một cuộc giao tranh cuối cùng trong kỷ nguyên đẫm máu này.10 ngày sau khi Trận Chiến Đồng Pelenor kết thúc , trước sự thúc giục từ Gandalf, Aragorn đã dẫn gần 7000 quân Bắc tiến và thách thức Sauron trực diện ngay tại Cổng Đen nhằm câu giờ cho Frodo và Sam phá huy Nhẫn Chúa tại Đỉnh Định Mệnh. Gần như ngay lập tức, quân Haradrim đồn trú tại các doanh trại Modor cùng hoàng loạt các lực lượng khác đã được triệu tập và gửi thẳng đến Cổng Đen để đối phó với liên quân này . Lực lượng này đông áp đảo quân đội của Gondor và Rohan (khoảng 65-70 nghìn quân) nên đã dễ dàng xuyên phá hàng ngũ của liên quân và gần như cầm chắc chiến thắng trong tay. Nhưng vào ngay giờ phút quyết định nhất tại địa điểm ít ngờ đến nhất, Frodo, Sam và Gollum đã thành công phá hủy Nhẫn Chúa sau một cuộc tranh chấp dữ dội ngay trong lòng Đỉnh Định Mệnh, dẫn đến sự sụp đổ của tòa tháp tối Barad-Dur cũng như toàn bộ triều đại của Sauron và chính bản thân hắn. Mọi hi vọng đều đã lụi tàn cho các thế lực theo Mordor, các Haradrim và Easterling đã lập tức bỏ chạy hoặc đầu hàng liên quân ngoại trừ một số trường hợp cuồng tín nhất vẫn tiếp tục chống trả nhưng cũng nhanh chóng bị đẩy lùi chỉ sau vài ngày.Sau thất bại của Sauron, một lần và mãi mãi, những vùng đất của Harad đã hoàn toàn tự do khỏi ách thống trị bạo tàn của Chúa Tể Bóng Tối suốt hàng thiên niên kỷ, mở ra một tương lai tươi sáng hơn nhiều cho dân tộc này cùng một kỷ nguyên mới cho toàn cõi Trung Địa - Kỷ nguyên thông trị của loài người.
----------------------------------------------------------------------------------------------------
Kỷ Đệ Tứ
----------------------------------------------------------------------------------------------------
Gác lại năm tháng đau thương, hướng về ngày mai tươi sáng. Kỷ Đệ Tứ đã mở ra với niềm hi vọng trào dâng về một tương lai tươi đẹp cho các dân tộc tự do tại Trung Địa. Dưới sự cai trị sáng suốt của Aragorn Elessar Đại Đế, mối ban giao giữa các quốc gia dần được hàn gắn và phát triển bền chặt hơn bao giờ hết. Nhiều người còn đồn đại rằng, trong những ngày tháng chinh phạt không ngừng của mình nhằm dọn dẹp tàn dư còn sót lại của kẻ thù tại phương Đông và Nam, Aragorn còn từng có cơ hội được gặp mặt các phù thủy xanh và cùng nhau tâm sự về những ngày tháng thăng trầm đã qua, tiếp thêm cho nhau niềm tin về môt thời đại mới của sự thái bình, tôn trọng và yêu thương.
Về những người Haradrim, dù những ảnh hưởng từ Sauron lên dân tộc này trong suốt 2 thời đại là không thể xóa nhòa chỉ trong ngày một ngày hai.Họ vẫn cho thấy những sự khôi phục rõ rệt trong kỷ đệ tứ khi quyền sở hữu Umbar của Gondor thât sự được họ công nhận và sau đó thậm chí chúng ta còn được biết rằng có rất nhiều sứ giả từ Harad thậm chí đã đến thăm hoàng thành Minas Tirith, báo hiệu cho một mối quan hệ tích cực hay thậm chí là tình bằng hữu giữa 2 vương quốc trong những ngày sau. Vậy là cuối cùng, sau 3 kỷ nguyên đầy khó nhọc, thăng trầm, đau thương, không ngừng đấu tranh và chịu đựng. Người Harad nay đã có thể thật sự đặt chân vào thời đại mới, với tư cách một dân tộc tự do trên chính vùng đất của mình: Vùng đất Harad, của Haradrim.

Nguồn Tham Khảo

+History Of Middle Earth Volume 12: The People Of Middle Earth
++History Of Middle Earth Volume 10: Morgoth's Ring
+The Nature Of Middle Earth
+The Lord Of The rings
+The One Wiki To Rule Them All
+Channel Nerd Of The Rings