League of Legends #3 | Tổng quan các loài của Runeterra | Phân loại Sentient | Part 1/3
Con mắt của Abyssal Eye còn được gọi là 'The All-Seeing Eye' - 'Con Mắt Nhìn Thấy Mọi Thứ' hay 'Thiên Nhãn'
[Giống như trái đất của chúng ta, thế giới Runeterra của vũ trụ Liên Minh cũng tồn tại vô số các loài sinh vật thú vị, góp phần xây dựng lên một vùng đất đầy màu sắc ma thuật. Từ hùng mạnh và quyền năng như các Thể Thăng Hoa (Ascended), đến những loài dễ thương và phổ biến như Poro, hay quen thuộc hơn là những con rồng (Dragon),... Bài viết này với mong muốn mang đến cho những bạn hâm mộ LOL một cái nhìn tổng quan nhất về các phân loại sinh vật ở vũ trụ gốc. Với bốn phân loại chính, cũng là bốn (hay năm, sáu gì đấy:)) bài viết, lần lượt là Sapient (loài thông minh), Sentient (loài tri giác), Non-Sentient (loài vô tri), và các loài khác...]
Sentient (Loài Tri Giác)
Runeterra là nơi sinh sống của nhiều loài có tri giác, một số loài thì hung dữ trong khi những loài khác ít hung dữ hoặc thuần hóa hơn. Trong khi hầu hết các loài có tri giác là động vật, có những trường hợp thực vật cũng thuộc phân loại Sentient.
I. Phân loại Sentient chính:
1. Abyssal Eye
Abyssal Eye là loài cá sống ở vùng nước sâu xung quanh Serpent Isles (Quần Đảo Mãng Xà).
Abyssal Eye có miệng lớn với hàm răng sắc nhọn cùng với một con mắt tím đỏ đặc trưng. Có thể chúng đã bị đột biến bởi tác động từ Void rift (Khe nứt Hư Không) dưới biển, Abyssal Eye có thể là Voidborn hoặc một thứ gì đó.
Con mắt của Abyssal Eye còn được gọi là 'The All-Seeing Eye' - 'Con Mắt Nhìn Thấy Mọi Thứ' hay 'Thiên Nhãn'. Giống như những quái vật biển của Bilgewater, chúng giữ một vị trí trong văn hóa của cư dân "vùng nước mặn", thậm chí có cả một bản nhạc nói về 'The All-Seeing Eye'
"Aye aye, they cried, and set off away, To see to trouble in fair Nashramae, But nature, she turned, and many did die, An' the rest are off to see the all-seein' eye!" -The All-Seeing Eye
2. Antlermouse
Antlermice là một loài động vật có vú có nguồn gốc từ lục địa Valoran
Antlermice có đôi tai lớn cực kì nhạy bén với chiếc đuôi dài linh hoạt để có thể di chuyển chống lại những kẻ săn mồi lớn hơn. Bộ lông của chúng thay đổi từ nhạt đến đậm, mắt của Antlermice có màu xanh lục nhạt. Gạc của chúng được dùng để thu hút bạn tình, cạnh tranh với những con đực khác, nói chung là cho mùa giao phối và tự vệ.
3. Aurma Fish
Aurma Fish là loài cá có nguồn gốc từ đảo quốc Aurma. Một đặc điểm độc đáo của loài cá này là những chiếc răng sắc nhọn nhô ra khỏi miệng. Trứng và da từ những con Aurma Fish được các thương nhân Piltover săn lùng ráo riết.
4. Badgerbear
Badgerbear là loài động vật lớn, có vú, ăn tạp sống trong các khu rừng của Demacia. Màu lông của Badgebear tương tự như lông một con lửng, trong khi đó hình dạng và kích thước cơ thể lại trông như một con gấu. Một số cảnh binh kiểm lâm của Demacia có thể thuần hóa những con Badgerbear, chúng như những người bạn đồng hành trung thành trong các cuộc săn lùng và nhiệm vụ do thám.
5. Balestrider
Balestrider, hay còn được biết đến với cái tên Wanderer, một huyền thoại của người Freljord, một điềm báo đen tối, những sinh vật khổng lồ này được cho là đi lang thang khắp Arctic (lục địa cực bắc của Runeterra) xung quanh phía bắc Freljord, và vì thế chúng còn được gọi với cái tên "Kẻ Bộ Hành".
Balestrider có hình dạng tương tự như một con hươu cao cổ với cặp sừng khổng lồ giống như Chân Băng (True Ice). Đôi mắt ánh xanh lam với những cánh tay hình người nhô ra trên cơ thể chúng.
Mô tả về Balestrider có thể được nhìn thấy trên nhiều cây cầu của Vực Gió Hú (Howling Abyss). Chúng từng là những sinh vật tráng lệ trước khi bị biến dạng khác xa với hình dạng ban đầu và hành động theo lệnh của Ba Chị Em, trở thành một cỗ máy chiến tranh đạt được nhờ sự thỏa thuận với các Watcher.
Có một câu chuyện về Balestrider liên quan đến Anivia, có thể là trong chiến tranh Ba Chị Em, theo như lời kể, Anivia đã phải hy sinh bản thân để cản bước tiến của những con Balestrider. Vị Á Thần biết rằng mình không thể hạ sát những con quái vật khổng lồ ấy, nên bà đã triệu gọi băng tuyết níu chân chúng, và phá hủy cơ thể bản thân nhằm giam cầm chúng.
* Tạo hình của Balestrider ban đầu được lấy làm tạo hình cho các Watcher nhưng sau này chúng lại trở thành một giống loài mới.
6. Bawkatrice
Bawkatrice là một loài chim nhỏ không biết bay với bộ lông đuôi sặc sỡ. Chúng có lông màu trắng trên đầu và cổ, màu nâu trên thân và những chiếc lông dài màu xanh lá cây tỏa màu đỏ mọc từ chóp đuôi cùng một chiếc lưỡi nhọn.
Bawkatrice là thú cưỡi cao quý, kiên định, nhưng không thể chịu được quá nhiều căng thẳng và khi ấy nó sẽ cố gắng chạy trốn. Vì vậy, chúng thường được chọn vì ngoại hình hơn là tính hữu dụng trong các cuộc chiến.
* Bawkatrice được tạo ra dựa trên Cockatrice, một sinh vật huyền thoại của châu Âu thời Trung Cổ, nó được mô tả là một quái vật có đầu gà trống và phần thân sau của rồng, nó đi bằng hai chân. Chỉ cần nhìn phải mắt của Cockatrice, nạn nhân sẽ biến thành đá ngay lập tức.
7. Bellswayer
Bellswayer là những sinh vật thiên thể có nguồn gốc từ dãy núi Argent (Argent Mountains, một dãy núi rộng lớn nằm ở phía tây nam lục địa Valoran và phía nam Noxus)
Những quả chuông trên cơ thể Bellswayer vang lên khi chúng nhảy múa, tiếng chuông ngân vang tuyệt đẹp và buộc các tinh linh xung quanh nghe được phải tham dự cùng chúng.
8. Bolbo
Bolbo là một loại cá kì dị có khuôn mặt giống với con người, có nguồn gốc từ bờ biển Trannit (một khu định cư ven biển gần bờ biển Guardian's Sea và phía tây Ironwater, ở đông nam Noxus). Người ta nói rằng thịt của Bolbo là ngon nhất khi được sấy khô, mặc dù súp đầu Bolbo cũng là một lựa chọn không tồi.
9. Bolor
Bolor là loài chim lớn ăn thịt bốn chân của Núi Targon. Chúng có chiều cao gần bằng hai người trưởng thành, thậm chí là ba nếu đứng thẳng bằng hai chân. Phủ lên cơ thể là lớp lông vũ dày màu trắng để bảo vệ chúng khỏi môi trường khắc nghiệt của Núi Targon cũng như ngụy trang trong môi trường tuyết. Đầu và cổ thì chủ yếu lại có lông màu nâu. Móng và mỏ của Bolor có màu xanh đậm, dùng để leo trèo và săn mồi.
Khét tiếng bởi tiếng thét kinh hoàng mỗi khi hạ gục con mồi, loài thú săn mồi Bolor thường lướt dọc theo những dòng không khí nóng với bộ lông mở rộng, và đặc biệt rất thích săn những con Tamu đi lạc.
10. Cat
Mèo vừa nằm trong phân loại Sapient và Sentient.
11. Cloud Drinker
Cloud Drinker là những sinh vật khổng lồ giống với cá có nguồn gốc từ Ionia. Điểm độc đáo của Cloud Drinker là những chiếc vây dài chạy dọc trên lưng được sử dụng như đôi cánh để chúng có thể bay và di chuyển trên những đám mây. Những sinh vật có vảy trắng này sống ở những nơi có cao lớn, ăn chất dinh dưỡng từ các đám mây để sống. Những bài hát của Cloud Drinker có thể được nghe thấy từ các ngôi làng. Những đợt sóng của âm thanh dài, trầm gợn từ bầu trời đến sườn đồi, vô hình và kỳ lạ như những đám mây buổi chiều.
12. Crag Beast
Crag Beast là những sinh vật khổng lồ giống lợn lòi thường được nhìn thấy ở các vùng nông thôn nơi chúng thường tấn công các khu định cư của người Demacia. Crag Beast nổi bật với những chiếc ngà lớn và răng nanh sắc nhọn. Bên ngoài là một lớp vỏ với da dày giống như đá giúp bảo vệ chúng khỏi kiếm, giáo và các loại vũ khí khác. Điểm yếu duy nhất của Crag Beast là vùng bụng chỉ có lớp da mềm chứa các cơ quan bên trong và máu của chúng có màu xanh lam. Kích thước của Crag Beast dao động từ một ngôi nhà và thậm chí đến một tòa tháp lớn.
* Poppy, Người giữ búa của Orlon, đã từng cứu cả một khu định cư khỏi một trong những con Crag Beast.
13. Crow & Raven
Quạ là loài chim có bộ lông đen sống ở vùng nội địa Runeterra. Các loài chim như Quạ đen có quan hệ mật thiết với những Ác Quỷ rất mạnh mẽ trong văn hóa dân gian Runeterra.
14. Drakalops
Có nguồn gốc từ thảo nguyên phía bắc, Drakalops là loài thằn lằn sa mạc ăn cỏ, được biết đến với tốc độ đáng kinh ngạc ở trên cạn. Lớp vảy màu kim loại tối ánh vàng, không gì có thể xuyên qua da thằn lằn sa mạc. Skaarl, thú cưỡi của Kled là một trong số này.
15. Drüvask
Drüvask là những con lợn chiến khổng lồ có nguồn gốc từ Freljord lạnh giá. Phủ khắp cơ thể là lớp lông xù sẫm màu chủ yếu là trắng để thích nghi tốt hơn với môi trường tuyết phủ ở Freljord. Drüvask giống như một con lợn lòi kết hợp với một con tê giác lông lá, với những chiếc ngà nhô ra từ gò má và hàm trên, có thể húc và xiên kẻ thù. Cơ thể Drüvask có thể chịu được cái lạnh từ Chân Băng nhờ lớp lông cứng. Drüvask còn có một số mảnh Chân Băng bên vai giúp chúng sử dụng một chút ma thuật Chân Băng.
Những con Drüvask non được dùng để lấy thịt, nhưng nếu được huấn luyện và đến khi trưởng thành, chúng có thể được dùng làm thú cưỡi chiến đấu. Một Drüvask trưởng thành đủ lớn và mạnh để xử lý một Băng Tộc (Iceborn). Tộc Móng Vuốt Mùa Đông (Winter's Claw) được biết đến với việc sử dụng Drüvask làm thú cưỡi trong chiến tranh.
Trong cuộc cướp bóc nhắm vào chiến thuyền Noxus, Sejuani đã trả tự do cho một con Drüvask nhỏ từ khu lò mổ trên tàu, cô đã đặt tên nó là Lưng Gai dựa theo lớp da cứng chắc của nó. Dù vậy, cô cũng chẳng thể mường tượng được rằng, sinh vật trước mắt cô sau này đã trở thành một trong những con Drüvask to lớn nhất từng được thấy, và nó vẫn luôn là con chiến thú trung thành bên cạnh cô.
16. Dunpor
Dunpors là một loài dê có nguồn gốc từ các vùng của Stonewall. Sữa của chúng được các thương nhân Piltover săn lùng ráo riết.
17. Dormun
Dormun là những con thú khổng lồ sinh sống trong vùng sa mạc khô cằn của Shurima. Chúng di chuyển khá chậm chạp nhưng lại được bảo vệ bởi những phiến giáp lớn bằng kitin, Dormun đã tiến hóa để sống sót qua hạn hán kéo dài và điều kiện khắc nghiệt ở Shurima. Những người cưỡi Dormun cọ rửa cho chúng và diệt trừ bất kỳ loài thú hại trên không nào lảng vảng lại gần, còn Dormun dùng một loại giác quan thần kỳ để xác định vị trí những nguồn nước ẩn trên sa mạc.
18. Elephant
Voi là động vật có vú bản địa của Runeterra. Giống như trên Trái Đất, chúng là một trong những loài động vật sống trên cạn lớn nhất. Đặc điểm thể chất đáng chú ý của chúng là guốc ở chân, ngà và mũi thon dài. Tuy nhiên, các loài voi Runeterra như voi ma mút không bị tuyệt chủng và sống cùng thời với các loài voi có kích thước nhỏ hơn. Một số con voi đã được nhìn thấy cũng có đôi cánh giống như gia cầm.
Do kích thước khổng lồ, sức mạnh và cặp ngà đáng sợ, hầu hết các loài voi được sử dụng làm thú cưỡi vận chuyển hoặc phục vụ cho chiến tranh chẳng hạn như ở Freljord và Noxus.
19. Elnük
Elnük là những con bò to lớn xù xì ăn cỏ chỉ có ở các vùng đất của Freljord. Elnük có bộ lông dày màu nâu và trắng phủ khắp cơ thể. Những bộ lông này thường được người Freljord xén và dệt thành quần áo ấm và các loại hàng khác. Những con Elnük trưởng thành còn được dùng để làm phương tiện di chuyển. Elnük đực trưởng thành có sừng xoáy lớn và ngà cong, trong khi Elnük cái trưởng thành chỉ có ngà.
Elnük thường sống theo một nhóm lớn được gọi là "đoàn quân". Những người chăn Elnük dẫn "đoàn quân" của họ đi gặm cỏ trên sườn núi trong những mùa nóng hơn. Bên cạnh bộ lông dày để làm trang phục, Elnük còn là nguồn cung cấp thịt cũng như tiền tệ chính của nhiều bộ lạc.
20. Erbok
Erbok là những con thú ăn cỏ có vú bốn chân lớn của Núi Targon. Loài dê núi này cao bằng hai người trưởng thành. Những sinh vật này có bộ lông dày bảo vệ chúng khỏi môi trường khắc nghiệt của Targon. Bờm và đuôi của Erbok có màu rám nắng. Chúng có móng guốc lớn và một tấm xương kéo dài tạo thành sừng. Erbok sử dụng tấm xương trên đầu trong các cuộc tranh giành lãnh thổ trên các hang động bên sườn núi.
Bờm của những con Erbok sống trong hang được phủ một lớp dầu mà người Rakkor dùng để phủ lên quần áo bên ngoài giúp chúng không thấm nước.
(Còn tiếp...)
Game
/game
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất