Lễ Cưới Của Người Do Thái
Một Cơ Đốc nhân vốn là học giả người Do Thái, đang quản nhiệm một Hội Thánh Tin lành tại Dallas, Texas, có viết một quyển sách nhan đề: “An Israel Love Story”. Đây là câu chuyện giả tưởng nhằm mục đích diễn giảng về tập tục lễ cưới của người Do Thái hồi thế kỷ thứ nhất S.C. 

Sau đây là lời tóm lược những điểm chính mà tác giả diễn giải và sau đó tôi sẽ  ứng dụng chúng cho thời gian chúng ta, khi Tân Lang yêu quí là Jesus Christ đến rước Cô Dâu của Ngài.

Trong thế kỷ đầu tiên, khi một người thanh niên người do thái nhìn thấy một cô gái trẻ mà anh thích, anh tham khảo ý kiến với cha mình. 
Đôi khi người cha đã chọn cô gái nào đó cho anh và không cần sự tham vấn của anh. Nhưng khi người cha đã phê duyệt sự lựa chọn con dâu, người thanh niên do thái sẽ đi đến nhà cô ấy và nói chuyện với cha nàng.
Tại nhà của cô dâu, có ba điều rất quan trọng sẽ xảy ra: chú rể sẽ lập một giao ước với cô dâu, một hợp đồng thực tế; anh sẽ uống chung một chén rượu với cô ấy để làm ấn chứng cho giao ước và anh phải trả giá (sính lễ lớn) cho cô dâu của mình với người cha của nàng. Giá của cô dâu là để đảm bảo rằng chú rể nghiêm trọng về giao ước, nên anh đã phải trả giá cao. Sau khi giao ước đã được thực hiện, chén rượu đã uống cạn và giá cả đã thanh toán, chú rể sẽ phát biểu với cô dâu, nói với cô rằng anh ấy sẽ rời khỏi cô và trở về nhà cha mình để chuẩn bị một buồng cô dâu cho cô,  một chương trình tuần trăng mật cho hai người.

Những lời anh nói là "Tôi đi để chuẩn bị một nơi dành cho bạn". Anh sẽ đi một thời gian dài. Anh sẽ phải xây dựng và hoàn thành  buồng cô dâu và được sự chấp thuận của cha mình. Nó sẽ phải theo đúng quy định để kéo dài bảy ngày trong tuần trăng mật. Anh muốn nó phải xinh đẹp đối với cô ấy.
Điều đó phải được thực hiện ngay để giành được sự chấp thuận của cha chú rể. Trong năm đó, đang khi chú rể xây dựng buồng cô dâu, nếu có ai hỏi anh khi nào đến ngày đám cưới, anh ấy sẽ nói. "Tôi không biết. Chỉ có cha tôi biết". Và điều đó là thật. Anh không thể quay trở lại rước cô dâu của mình cho đến khi cha của anh đã phê duyệt căn phòng anh xây dựng và bảo anh ta đi rước cô ấy.

Trong khi đó, cô dâu đã chờ đợi với sự tôn trọng. Cô mang mạng che mặt mỗi khi cô đi ra ngoài, để những người thanh niên khác sẽ biết rằng cô ấy không sẵn sàng hứa hôn với ai nữa. Bây giờ cô ấy được gọi là "người được biệt riêng", là "người được dâng hiến", và "đã được mua với một mức giá." Cô ấy không còn thuộc về mình, nhưng là một cá nhân ký hợp đồng với người khác và cô cư xử theo cách tôn trọng sự thỏa thuận đó. Cô không tìm kiếm những thanh niên khác. 

Cô chuẩn bị tinh thần cho cuộc hôn nhân bằng cách thu thập quần áo, tư trang của mình và chờ đợi chú rể của mình đến. Cô ấy ở nhà mỗi đêm, đặc biệt là khi thời gian trôi qua và cô biết anh có thể đến.

Theo truyền thống là anh ta đến vào ban đêm, đặc biệt là nửa đêm, để cố gắng làm cho cô ấy ngạc nhiên. Nó đã trở thành "một vụ bắt cóc." Cô dâu cần chờ đợi chung với các "phù dâu", là các chị em ruột của mình hoặc bất cứ ai mà cô muốn có mặt trong tiệc cưới của mình. Tất cả họ sẽ có dầu trong đèn của họ, trong trường hợp chú rể đến vào ban đêm. Thời gian trôi qua, họ chắc chắn phải sẵn sàng vào mỗi đêm.


Một đêm kia, cuối cùng chú rể đã đến. Theo phong tục, đoàn của chú rể hét lên khi họ đến gần nhà của cô dâu. Khi cô dâu nghe tiếng gào thét đó, cô biết chú rể đã đến để rước cô. Chú rể và bạn bè của anh sẽ vội vàng bước vào trong nhà và chộp lấy tất cả các cô gái trước mắt, là những cô gái chắc chắn làm một với người có mạng che mặt (cô dâu). Anh cần mạng che mặt của cô làm giải pháp khi đi qua các đường phố, là cô vẫn là người chưa kết hôn. Cha và các anh em của cô dâu nhìn theo cách khác, miễn là người thanh niên giữ hợp đồng.

Toàn bộ đoàn người tham dự tiệc cưới sẽ đi về phía ngôi nhà của chú rể, đi diễu qua các đường phố và cười nói vui vẻ. Mọi người sẽ biết có một đám cưới diễn ra, nhưng không thể nói ai là cô dâu, vì cô dâu được bao phủ bởi tấm màn che. Cô dâu và chú rể sẽ nhập vào buồng cô dâu trong khi đoàn tham dự tiệc cưới đứng đợi bên ngoài cùng với các khách ăn đám cưới (bạn bè của cha của chú rể). Mọi người chờ đợi bên ngoài phòng đám cưới cho đến khi chú rể nói với người bạn đáng tin cậy của mình qua cánh cửa rằng cuộc hôn nhân đã hoàn tất.

Sau đó, các vị khách bắt đầu ăn mừng một cuộc hôn nhân đã hoàn thành. 

Khách mời sẽ dành bảy ngày tiếp theo để ăn mừng lễ cưới cho đến khi cô dâu xuất hiện với mạng che mặt đã gở đi. Bây giờ đôi lứa là chồng và là vợ. Sau đó sẽ có tiệc cưới mà tất cả mọi người sẽ vui vẻ chúc mừng đôi vợ chồng mới. Sau đó, cặp vợ chồng trẻ sẽ rời khỏi căn nhà của người cha chú rễ và đi đến một ngôi nhà cố định mà người chồng đã chuẩn bị cho họ.

Bạn ơi, theo một phương diện, toàn bộ Kinh thánh chép câu chuyện tình thần thượng giữa Đức Chúa Trời trong Đấng Christ với dân được cứu chuộc của Ngài.

1.    Chú Rễ.
Hai ghệ chồng người Do thái
Chú Rễ là Đấng Christ, còn cô dâu không phải một cá nhân nào mà là toàn thể dân Chúa thuộc các thời đại nói chung.

Chú Rễ đã chủ động tìm kiếm cô dâu và hỏi, “hỡi A-đam, người ở đây?”(Sáng 3: 9) Chú Rễ bày tỏ tình yêu thần thượng cùng cô dâu khi nói, “Phải, Ta đã lấy sự yêu thương đời đời mà yêu ngươi; nên đã lấy sự nhân từ mà kéo ngươi đến”-“ Ta sẽ cưới ngươi cho Ta đời đời; Ta sẽ cưới ngươi cho Ta trong sự công bình và chánh trực, nhân từ và thương xót. Phải, Ta sẽ cưới ngươi cho Ta trong sự thành tín” ( Giê 31:3; Ô-sê 2:19-20). Đôi khi Chú Rễ đôi ba lần hỏi cô dâu, “ngươi có thương yêu Ta hơn những kẻ nầy chăng” (Giăng 21:15-17). Cô dâu phải chân thành đáp, “Thưa Chúa, phải, Ngài biết rằng tôi kính mến Ngài”, thì Chú Rễ mới an lòng.

2.    Hôn ước người do thái
Sau khi cứu thoát dân Israel ra khỏi Ai-cập, Chúa đã lập hôn ước thuộc linh với Israel, Ngài nói, “Giao ước nầy sẽ không theo giao ước mà Ta đã kết với tổ phụ chúng nó trong ngày Ta nắm tay dắt ra khỏi đất Ai-cập, tức giao ước mà chúng nó đã phá đi, dầu rằng Ta làm chồng chúng nó, Đức Giê-hô-va phán vậy”(Giê 31: 32). Nhưng Cô dâu Israel đã phá hôn ước đó rồi. Nên Chúa nói Ngài sẽ lập một hôn ước bền vững đời đời với Hội thánh. Qua Giê-rê-mi vào khoảng năm 700 T.C., Chú rễ hứa về hôn ước mới trong Giê 31: 33-34. Lời tiên tri nầy đã được thực hiện trong tiệc vượt qua và lễ bẻ bánh tại phòng cao trước khi Chú rễ chết. Tác giả thơ Hê-bơ-rơ diễn giải như sau: “Nầy là giao ước Ta sẽ lập với nhà Y-sơ-ra-ên: Sau những ngày đó: Ta sẽ để luật pháp ta trong tâm ý họ, Ghi tạc nó vào lòng họ; Ta sẽ làm Đức Chúa Trời của họ, Họ sẽ làm dân Ta. Họ sẽ chẳng cần mỗi người dạy kẻ lân cận mình. Và anh em mình, rằng: 'Hãy nhận biết Chúa,' Vì họ hết thảy, Từ kẻ nhỏ cho đến kẻ lớn, đều sẽ biết Ta.  Bởi chưng Ta sẽ khoan thứ sự bất nghĩa của họ, Chẳng nhớ lại tội lỗi của họ nữa.” Đã gọi giao ước nầy là mới, thì Ngài đã khiến cho cái trước kia ra cũ. Vả, điều gì ra cũ ra già thì gần biến mất đi”. Rồi  đến 9:15-17, do sự đổ huyết của Chúa là người lập giao ước, thì giao ước trở nên chúc thơ, có hiệu lực bền vững đời đời, “Nhơn cớ đó Ngài là Đấng Trung bảo của giao ước mới, hầu cho như đã có sự chết cứu chuộc các sự quá phạm dưới giao ước thứ nhứt, thì những kẻ được kêu gọi có thể nhận lãnh được cơ nghiệp đời đời đã hứa. Vì hễ có chúc thơ, thì cần phải đợi kẻ trối chết đã. Vì người trối chết rồi, thì chúc thơ mới có hiệu lực. Nếu người trối còn sống, thì chúc thơ đâu có hiệu gì ư?” (Hê. 9:15-17). Hôn ước giữa Chú Rễ và cô đây đã trở thành di chúc rồi.

3.    Trả giá
Theo phong tục của người Do thái, chú rễ phải trả giá rất đắt, là sính lễ, bằng mạng sống cô dâu hầu bảo đảm cho lời giao kết của chú. Chú Rễ thuộc linh cũng mua cô dâu bằng chính sanh mạng quí báu của Người. Cô dâu thuộc về Chú Rễ đời đời. “Anh em chẳng phải thuộc về chính mình anh em đâu, vì anh em đã được mua bằng giá cao rồi. Vậy, hãy lấy thân thể mình mà tôn vinh Đức Chúa Trời”(1 Cor. 6: 19-20).” Vì biết rằng chẳng phải bởi vật hay hư nát, như bạc hoặc vàng, mà anh em đã được chuộc khỏi cách ăn ở hư không của tổ phụ truyền lại, bèn là bởi huyết báu, như huyết của chiên con không tì không vít, tức là huyết của Christ” (1 Phi-e-rơ 1:18-19).

4.    Chén Rượu Giao Ước:
Mathio 26: 27-29, “Ngài lại lấy chén, cảm tạ, rồi đưa cho họ mà phán rằng: "Hết thảy hãy uống đi;  vì đây là huyết Ta, tức là huyết của giao ước, đổ ra cho nhiều người được tha tội. Nhưng Ta nói cùng các ngươi, từ rày về sau Ta hẳn chẳng còn uống trái nho nầy nữa, cho đến ngày Ta cùng các ngươi uống thứ mới trong nước của Cha Ta."

Mười một sứ đồ đại diện cho cô dâu, đã cùng uống chén giao ước với Chú Rễ rồi.

5.    Thời gian xa cách
Sau đó Chú Rễ về nhà Cha mình, nhưng Chàng không biết ngày nào mình trở lại. Chú Rễ có nói, “Nhưng về ngày và giờ đó chẳng ai biết, đến đỗi thiên sứ trên trời, hay là Con cũng không, duy Cha biết mà thôi” (Mác 13: 32). Nhân tánh của Chúa không biết thời hạn tái lâm

Đa số con dân Chúa coi Giăng 14:2-3 là việc Chúa đi xây dựng nhà cửa cho họ cư trong trong tương lai. “Trong nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở; bằng chẳng vậy, Ta đã nói cho các ngươi rồi. Ta đi để sắm sẵn cho các ngươi một chỗ.  Khi Ta đi mà sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi, thì Ta sẽ trở lại, tiếp các ngươi về với Ta, hầu cho Ta ở đâu, thì các ngươi cũng ở đó”. Đây là niềm tin truyền thống, rất sai lầm. Sách Giăng chia làm hai phần: phần đầu từ chương 1 đến chương 13 nói về “nhà Cha của Ngài”. Sau đó Ngài ngụ ý Nhà đó là  đền thờ thân thể vật lý của Ngài. Ngài nói, “đừng làm cho nhà Cha Ta thành ra nhà buôn bán”. Ngài nói “Hãy phá đền thờ nầy đi, rồi trong ba ngày ta sẽ dựng lại”. Họ hiểu sai là Ngài bảo phá đền thờ vật chất. Sứ đồ Giăng giải thích, “Nhưng Ngài nói về đền thờ của thân thể Ngài”. Đến Giăng 14: , Chúa nói đến “nhà của Cha Ngài”, đó là đền thờ thân thể phục sinh của Ngài, là nơi ở của dân Chúa ngày nay. “Chỗ ở” trong nhà Cha là các tín đồ, mỗi người là một chổ ở, “Nếu ai thương yêu ta, thì giữ lời Ta, Cha Ta sẽ thương yêu người, chúng ta đều đến cùng người và lập cư với người”. Chữ “lập cư” đây là “chỗ ở”. Chúa nói với Phi-e-rơ trước khi Ngài chết, “Nơi Ta đi, bây giờ ngươi chẳng có thể theo Ta được, nhưng rồi sau ngươi sẽ theo Ta” (Giăng 13: 36). Sau khi Chúa sống lại, người tin Ngài sẽ vào cư ngụ trong Ngài, đó là Thân thể hoàn vũ của Đấng Christ.
Tôi không thấy Kinh Tân ước chép Chúa đang xây nhà cửa vật lý cho chúng ta. Chúa chỉ nói, “Cha ơi, Con muốn Con ở đâu, thì những kẻ Cha đã ban cho Con cũng ở đó với Con- Khi ấy những người công nghĩa sẽ chói rạng như mặt trời trong nước của Cha họ” (Giăng 17:24; Mathio 13:43). Dĩ nhiên có chỗ ở cụ thể cho dân Chúa trong thiên đàng, là những “Điều mắt chưa thấy, tai chưa nghe, Và lòng người chưa từng nghĩ đến, Thì Đức Chúa Trời đã dự bị cho những kẻ thương yêu Ngài” (1 Cor. 2:9). Nhưng Giăng 14:1-3 không miêu tả nhà cửa cụ thể trên thiên đàng bao giờ.

6.    Cô dâu chờ đợi

Hội thánh nói chung đã được hứa hôn với Chúa, nên Phao-lô cảnh giác chúng ta, “Vì tôi lấy sự ghen tức của Đức Chúa Trời mà ghen tức anh em, bởi tôi đã gả anh em cho một chồng mà thôi, hầu trình diện anh em cho Đấng Christ như một đồng nữ trinh khiết. Nhưng tôi ngại rằng tâm tư của anh em bị bại hoại mất sự đơn thuần thanh khiết đối với Đấng Christ, cũng như xưa kia con rắn đã dùng quỉ kế mà dư hoặc Ê-va vậy” (2 Cor. 11:2-3).

Ước mong chúng ta có thái độ như Chúa khuyên “Lưng các ngươi phải thắt lại, đèn các ngươi phải thắp lên. Hãy làm như người trông đợi chủ mình ở tiệc cưới về, để lúc chủ đến gõ cửa thì liền mở cho” (Lu 12:35-36).

Mathio 25: chép 10 trinh nữ chờ Chúa trải 20 thế kỷ nên họ đều ngủ cả. Ngủ ở đây là chết vật lý.  Chỉ còn hai người còn sống vật lý khi Chúa đến. Mathio 24: 40-41, “Lúc ấy có hai người đàn ông ở ngoài đồng, một được đem đi, một bị để lại; hai người đàn bà xay cối, một được đem đi, một bị để lạ”. Con số 12 là con số của vương quốc Chúa. 10/12 tín đồ đã chết, chỉ còn 2/12 còn sống khi Chúa đến, mà khi Ngài đến, một phần địa cầu là ban đêm, phần bên kia là ban ngày. Một phần được Chú Rễ rước đi, một phần bị bỏ lại trong đại nạn. Nên chúng ta phải thức tỉnh.

7.    Chú Rễ trở lại


Phúc âm Giăng chép nhiều lần về sự hiện đến của Chú Rễ. Chúng ta rất dễ lẫn lộn các sự hiện đến mà phúc âm Giăng đề cập:

a/ Chúa đến lần thứ nhất trong xác thịt: Giăng 1:11; 10: 10, “Ngài đã đến trong cõi thuộc về Ngài, song những kẻ thuộc về Ngài chẳng tiếp nhận Ngài--còn ta đã đến hầu cho chiên được sự sống và được càng dư dật”. Chúa được sanh ra làm người.

b/ Chúa đến trong Thánh Linh sau sự phục sinh: Giăng 14:18, 19 “Ta không để các ngươi mồ côi đâu, ta sẽ đến cùng các ngươi. Còn ít lâu thế giới chẳng thấy Ta nữa, nhưng các ngươi thấy Ta, vì Ta sống thì các ngươi cũng sẽ sống”. Chúa đến với môn đồ sau khi Ngài sống lại,  ở với họ và ở trong họ đời đời.

c/ Chúa tái lâm trong thân thể phục sinh của Ngài: Giăng 21: 21-22, “Phi-e-rơ bèn hỏi Jêsus rằng: “Thưa Chúa, còn người nầy (sứ đồ Giăng)  thể nào?” Jêsus đáp: “Nếu Ta muốn người đợi cho tới khi Ta đến”. Chúa tái lâm như Chú Rễ đối với Hội Thánh.
Chú rể người do thái
Chúa Jesus nói về sự tái lâm ẩn giấu của Ngài như Kẻ Trộm để “bắt cóc” những người đắc thắng. “Nếu ngươi không tỉnh thức, Ta sẽ đến như kẻ trộm, và ngươi hẳn chẳng biết giờ nào Ta thoạt đến trên ngươi. Nhưng ở Sạt-đe ngươi còn có mấy tên không làm ô uế áo xống mình; họ sẽ mặc áo trắng mà đồng đi với Ta, vì họ xứng đáng. Kẻ đắc thắng sẽ được mặc áo trắng như vậy, Ta hẳn chẳng xoá tên người khỏi sách sự sống, nhưng Ta sẽ thừa nhận tên người trước mặt Cha Ta, cùng trước mặt các thiên sứ Ngài” (Khải 3:3-5).
Chúa đến như Kẻ Trộm. Ngài đến “trên” họ. Chữ trên trong tiếng Hi lạp là “epi”. Ngài không giáng trên họ, nhưng giáng bên cạnh họ, thu gom những người xứng đáng, rồi Ngài ra đi, mà cả nhà ( hội thánh) không hay biết gì cả. Có ai biết lúc kẻ trộm vào nhà không? Mãi sau khi đại nạn chấm dứt, thì “Kìa, Ngài cỡi đám mây mà đến, mọi mắt sẽ trông thấy Ngài, cả đến những kẻ đã đâm Ngài cũng vậy; hết thảy các chi phái trên đất đều sẽ than khóc Ngài. Phải, A-men” (Khải 1:7). Cho nên Cô dâu phải tỉnh thức và phải có cuộc đời thuộc linh mà Chúa cho là xứng đáng.

8.    Bạn và khách mời của Chú Rễ


Giăng 3: 29 và Khải 19: 7-9. Mathio 9:15, 8:11, Lu 13;28-29 chép, “Ai cưới tân phụ, nấy là Tân lang; nhưng bạn hữu của Tân lang đứng mà nghe người, thì rất đỗi vui mừng vì tiếng của Tân lang-- Chúng ta hãy vui mừng hớn hở, hãy tôn vinh Ngài, Vì lễ cưới Chiên Con đã đến, Và vợ Ngài đã tự sửa soạn rồi. Cũng đã cho nàng mặc áo bằng vải gai mịn sáng láng tinh sạch” Vì gai mịn ấy là các việc công nghĩa của các thánh đồ, Thiên sứ lại bảo tôi rằng:“Hãy chép: Phước cho những kẻ được mời đến dự tiệc cưới Chiên Con-- Những bạn trai của phòng Côn dâu… Các ngươi thấy Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp, cùng hết thảy các tiên tri đều ở trong nước Đức Chúa Trời, còn các ngươi thì bị quăng ra ngoài, khi ấy các ngươi sẽ khóc lóc và nghiến răng.  Lại từ đông, tây, nam, bắc người ta sẽ đến mà ngồi bàn trong nước Đức Chúa Trời”.
Đã có cô dâu rồi, Kinh thánh còn nói đến bạn chú rễ, và khách được mời dự tiệc cưới.  Khách mời hay bạn chú rễ cũng bao hàm trong cô dâu, nhưng ở đây nhấn mạnh đến tên tuổi những nhân vật đặc biệt như Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp, cùng hết thảy các tiên tri, những vĩ nhân thuộc linh của Chúa…, họ được xướng danh trong tiệc cưới. Và có nhiều tín đồ phải đứng ngoài, chỉ nhìn thấy tiệc cưới mà không được tham dự. Thật là buồn thảm!

9.    Tiệc cưới


Sứ đồ Giăng miêu tả, Chúng ta hãy vui mừng hớn hở, hãy tôn vinh Ngài, Vì lễ cưới Chiên Con đã đến, Và vợ Ngài đã tự sửa soạn rồi. Thiên sứ lại bảo tôi rằng:“Hãy chép: Phước cho những kẻ được mời đến dự tiệc cưới Chiên Con!”( Khải 19: 7, 9). Lễ cưới khác với tiệc cưới. Lễ cưới cử hành trên không trung phối ngẫu Đấng Christ với toàn bộ những người đắc thắng của Đức Chúa Trời trải mọi thời đại đã sống lại. Lễ nầy xảy ra trước khi Đấng Christ hiện ra trên đất để tiểu diệt Antichrist… Còn tiệc cưới chỉ xảy ra trong một ngày, mà một ngày là một ngàn năm. Đó là thời đại vương quốc Thiên hi niên.
10.Ngôi nhà mới của hai vợ chồng

Đấng Christ và Cô Dâu sẽ sống 1000 năm trên trái đất cũ. Sau đó “ngày Đức Chúa Trời mau đến, là ngày các từng trời sẽ bị lửa cháy tiêu hoá, và các thể chất đều bị nóng hực tan chảy. Nhưng chúng ta theo lời hứa của Ngài mà trông đợi trời mới đất mới, là nơi sự công nghĩa cư trú”.( 2 Phiero 3: 12-13).
Mỗi thiếu nữ kết hôn được làm cô dâu trong một ngày, và sau đó trở thành người vợ sống đời với chú rễ. Một phần Hội thánh, là những người xứng đáng sẽ là Cô Dâu trong 1000 năm. Rồi trong trời mới đất mới, thành thánh Jerusalem mới là người vợ đời đời của Chiên Con. ”Đoạn, tôi đã thấy trời mới và đất mới; vì trời thứ nhứt và đất thứ nhứt đã qua rồi, biển cũng không còn nữa. Tôi cũng đã  thấy thành thánh, là Giê-ru-sa-lem mới, từ trời ở nơi Đức Chúa Trời mà xuống, sửa soạn như một tân phụ (vợ) trang sức đợi chồng mình” (Khải 21:1-2).

Bạn ơi, bằng mọi giá hãy trở thành một phần tử trong Cô Dâu tập thể của Đấng Christ trước Thiên hi niên bạn nhé!
Tôi có cảm tác mấy dòng thơ như sau:

CHÚA TÁI LÂM
Chúa tái lâm vinh hiển, vẻ vang,
Vinh cho các thánh, đổi trần hoàn.
Nay Sao Mai mọc, chiếu người thức,
Lúc Thái Dương lên sáng thế gian.
Kẻ Trộm ban đêm đột ngột đến,
Nhà Vua buổi sáng cỡi mây ngàn.
Anh em hỡi, hãy mau tăng trưởng,
Chúa rước ta đi trước khổ nàn.

Minh Khải