Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội do Lý Công Uẩn thành lập là một trong rất ít các thành phố trên thế giới sắp bước vào tuổi nghìn năm. Ngoài việc khai sinh ra thành phố này, Lý Công Uẩn còn là người mở đầu một triều đại mới. Hơn nữa, ông cũng đã đóng góp không nhỏ cho quá trình hình thành dân tộc (Nation) với một quốc gia Đại Việt thống nhất, hùng mạnh và một nền văn hóa Thăng Long cho muôn đời sau.
Lý Công Uẩn sinh năm Giáp Tuất (974) tại làng Cổ Pháp, lộ Bắc Giang (nay là làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Truyền thuyết kể lại rằng có người con gái tên là Phạm Thị Ngà thường đi làm thuê ở chùa Ứng Thiên làng Cổ Pháp, hàng ngày quét dọn, gánh nước, tưới cây, giữ vườn... Một đêm bà đun bếp, nhà sư trụ trì chùa bước qua chạm phải chân, sau đó bà có mang. Nhà sư sợ mang tiếng nên bảo bà đi chùa khác làm thuê. Bà đi đến chùa Gia Châu thì trời sắp tối nên xin ở lại ngủ nhờ. Sư trụ trì chùa đêm trước nằm mơ thấy Long thần báo mộng rằng: "Ngày mai dọn chùa cho sạch, có hoàng đế đến". Tỉnh dậy, nhà sư sai chú tiểu quét dọn sạch sẽ, túc trực từ sáng đến chiều nhưng chỉ thấy một người đàn bà có mang xin ngủ nhờ. Sau đó bỗng có chuyện kì lạ. Một đêm trời bỗng nổi mưa gió ầm ầm, khu tam quan của chùa bỗng sáng rực hẳn lên, hương thơm ngào ngạt lan tỏa. Nhà sư cùng mọi người ra xem thì thấy người đàn bà đã sinh một cậu con trai, mặt mũi khôi ngô, sáng sủa, hai bàn tay có bốn chữ son "Sơn hà xã tắc". Được ba năm, bà bế con đến chùa Cổ Pháp. Thầy trụ trì là Lý Khánh Văn. Bà Phạm Thị Ngà để con trai lại cho thầy làm con nuôi, rồi bà đi đến đồi Mả Báng thì bạo bệnh mà mất. Xác bà mối đùn lên thành mả. Người qua đường thấy lạ hỏi, thì nghe trên trời đáp rằng: "Mả mẹ vua Lý đấy !"
Nhà sư Lý Khánh Văn nuôi đứa bé trẻ rất tận tình, chu đáo, đặt tên cho cậu là Lý Công Uẩn. Khi lên 7-8 tuổi, Lý Công Uẩn được sư Vạn Hạnh trụ trì chùa Lạc Tổ (bên cạnh Cổ Pháp) dạy học. Công Uẩn học giỏi không ai bì kịp.
Người đàn bà họ Phạm đã có một cặp mắt thật tinh đời. Gửi con vào nhà chùa là chỗ yên thân, chọn được người để gửi gắm con, đồng thời người mẹ cũng an tâm về con mình sau này sẽ được học tập giáo lý nhà Phật - thời kì này là quốc giáo. Hai nhà sư Lý Khánh Văn và Vạn Hạnh, bằng công lao và trách nhiệm, đã chăm lo cho Lý Công Uẩn nên người và thành đạt.
Công Uẩn lớn lên tỏ rõ có chí lớn khác thường. Ông đến Hoa Lư làm quan nhà Tiền Lê đến chức Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ. Khi vua Lê Đại Hành băng hà, triều đình lục đục, các con cháu trong nhà chém giết lẫn nhau để tranh giành ngôi báu. Cuối cùng, Lê Long Đĩnh thắng thế và lên ngôi vua. Long Đĩnh tàn bạo, hiếu sát lại ham mê tửu sắc nên phát bệnh t.r.ĩ phải nằm coi triều nên gọi là Lê Ngọa Triều.
Theo Gs. Văn Tạo (Tạp chí "Nghiên cứu lịch sử" số 1 - 1995), thì đó là một xã hội hỗn loạn, đau khổ, đang cần có người giải thoát. Người đó đối lập với bạo tài phải có cái nhân, cái đức ; đối lập với u muội, ươn hèn phải có cái trí. Ở Lý Công Uẩn, tuy không phải là xuất sắc, nhưng có được cả ba.
Uy đức của ông đến nỗi vua tàn bạo là Lê Long Đĩnh cũng phải vị nể. Long Đĩnh giết Lê Long Việt để cướp ngôi, quần thần đều chạy trốn, duy chỉ có Điện tiền quân là Lý Công Uẩn ôm xác chết mà khóc. Thế mà kẻ giết vua vẫn không dám trừng phạt, lại vẫn khen là người trung thành.
Lê Long Đĩnh mất ngày 29 - 10 năm Kỷ Dậu (1009), khi đó Lý Công Uẩn đã 35 tuổi và đang chỉ huy quân túc vệ trong chốn cung cấm. Bấy giờ lòng dân đã oán giận nhà Lê nên quan Chi hậu Đào Cam Mộc, sư Vạn Hạnh cùng các quan trong triều tôn Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng Đế, sau này gọi là vua Lý Thái Tổ
Thạc sĩ Vũ Trường Giang (Tạp chí "Kiến thức gia đình" - 1998, số 99)