Nhân bài viết này trên báo Thanh Niên, xin được chia sẻ góc nhìn cá nhân về các chứng chỉ đánh giá năng lực ngôn ngữ (language proficiency) như IELTS và các kỳ thi học sinh giỏi (HSG), Olympic (OLP) chuyên tiếng Anh trong nước.
Từng tham gia giảng dạy đội tuyển HSG quốc gia (HSGQG), OLP tiếng Anh cho các trường chuyên, đồng thời biên soạn, biên tập, xuất bản tài liệu, đề thi… cho những kỳ thi này, tôi nhận thấy thật ra từ trước đến giờ, ở Việt Nam chưa có quy chuẩn rõ ràng và khoa học để đánh giá một ‘học sinh giỏi’ tiếng Anh hay ngoại ngữ nói chung. Đa phần những kỳ thi, chương trình giảng dạy cho HSG, chuyên tiếng Anh… ở các trường chuyên trong nước đều dựa theo các chương trình, tài liệu, đề thi… của Cambridge Assessment English, ETS… Chẳng hạn, phần lớn các dạng bài, kiến thức từ vựng, ngữ pháp… trong các đề thi tuyển sinh vào lớp 10 chuyên Anh, thi HSG, OLP chuyên tiếng Anh… sử dụng các dạng bài Use of English, Reading, Listening… trong các tài liệu Cambridge English nâng cao (cấp độ CAE/C1 Advanced, CPE/C2 Proficiency). Một ví dụ khác là phần thi Viết trong đề thi HSGQG và một số kỳ thi HSG, OLP chuyên tiếng Anh theo khu vực như Trại Hè Phương Nam, Duyên Hải Bắc Bộ, Trại Hè Hùng Vương… ‘tương tự’ như các dạng bài trong IELTS (Academic). Tuy nhiên, những đề thi HSG, OLP chuyên tiếng Anh này còn có cả những kiến thức, kĩ năng nằm ngoài các tiêu chí đánh giá của thang CEFR. Khi kiểm tra, đánh giá năng lực ngôn ngữ (testing and assessment), điều này có ảnh hưởng, tác động (impact) tích cực lẫn tiêu cực (washback effects) lên việc giảng dạy và học tập tiếng Anh, không chỉ với giáo viên, học sinh chuyên tiếng Anh mà với cả giáo viên, học sinh phổ thông, đại trà (mainstream/general education). (Xin phép được nói sâu hơn về chủ đề này trong một bài viết khác.)
Khái niệm ‘giỏi’ một ngoại ngữ cũng rất đa dạng, tuỳ vào quốc gia, tuỳ theo nhu cầu, mục đích khác nhau của giáo viên và học sinh… và cũng thay đổi theo thời gian, bối cảnh văn hoá, xã hội, theo trải nghiệm của mỗi người… ‘Giỏi’ một ngôn ngữ nào đó không thể bất biến, không thể ở một đỉnh cao mãi mãi, mà việc học ngoại ngữ cần được duy trì, luyện tập… đều đặn. Có thể nói học ngoại ngữ là việc học lâu dài, ‘cả đời’ (lifelong learning). Trước đây, tôi thấy những em học sinh THPT thi được IELTS 8.0/8.5 hay CAE/CPE B là quá ‘giỏi’ rồi. Khi ngày càng nhiều em học sinh THCS/THPT có thể thi được điểm IELTS cao… cộng thêm việc một số địa phương sử dụng IELTS thay thế cho thi HSG, OLP… tôi tự hỏi, ‘giỏi đại trà’ như vậy liệu có thật sự là ‘giỏi’ không? Việc một số địa phương sử dụng IELTS như vậy, ngoài mục đích khuyến khích các em nâng cao năng lực ngôn ngữ ở các kĩ năng Nghe, Nói, Đọc, Viết, còn có những mục đích nào khác? Dĩ nhiên, trong số những em đạt điểm cao đó luôn có những em ‘giỏi’ thật sự. Nghĩa là các em có thể sử dụng tiếng Anh ở các cấp độ cao (C1/C2), theo các tiêu chí đánh giá năng lực ngôn ngữ của thang CEFR, chứ không chỉ vượt qua những kỳ thi này bằng các ‘kĩ xảo’ luyện thi, ‘luyện gà’.
Về sau, khi có cơ hội giảng dạy cho nhiều đối tượng học sinh, sinh viên khác nhau ở các nước trong khu vực Đông Nam Á như Singapore, Malaysia… tôi nhận thấy có nhiều em không thi HSG, OLP, hay IELTS hay Cambridge English, nhưng có thể sử dụng tiếng Anh rất hiệu quả, sâu sắc và tinh tế.  Có nhiều em có thể nghe, đọc, nói, viết được nhiều văn phong, thể loại… đa dạng, có thể sáng tác, bình luận, viết báo, sáng tạo nội dung, diễn thuyết, tranh luận, phản biện… mà không nhất thiết phải qua trường chuyên, lớp chọn. Các em vẫn cần có sự hướng dẫn, giúp đỡ từ giáo viên, vẫn tham gia các chương trình, chuyên đề bồi dưỡng định kỳ để nâng cao kiến thức, kĩ năng… Với những em học sinh này, quá trình nâng cao năng lực ngôn ngữ không chủ yếu diễn ra trên lớp học hay thể hiện qua một điểm số, hay luyện thi cấp tốc một chứng chỉ, bằng cấp nào đó, mà là một quá trình miệt mài tự học từ nhiều nguồn nhiều kênh khác nhau, kết hợp các phương pháp, tài liệu… đa dạng để tích luỹ, thẩm thấu ngôn ngữ, chiêm nghiệm, và sáng tạo. Các em có thể làm được những điều này, tôi tin, thực sự là quá ‘giỏi’ và ‘tài năng’.
Và còn có những em dù vẫn còn đang học THPT đã có thể hiểu và tự tìm tòi, ‘nghiên cứu’ cơ bản về Ngôn Ngữ Học (Linguistics), về Computational Linguistics… để tham gia các kỳ thi OLP Ngôn Ngữ Học quốc tế như ILO. Nhiều em có thể làm coursework về các chủ đề được giảng dạy ở bậc Đại/Cao Học như Hình Vị Học (Morphology), Phân Tích Diễn Ngôn (Textual/Discourse Analysis)… trong các chương trình giáo dục quốc tế (international education/bachelorette) của Cambridge, Oxford…  Không thể phủ nhận những em này thật sự rất ‘giỏi’, có nhiều tiềm năng trở thành Linguist, có thể nghiên cứu sâu hơn về ngôn ngữ chứ không chỉ giảng dạy tiếng Anh hay sử dụng tiếng Anh cho các mục đích khác trong công việc và đời sống.   Các cuộc thi OLP trong khu vực và quốc tế về Linguistics như Malaysian Computational Linguistics Olympiad, Singapore Linguistics Olympiad, Asia Pacific Linguistics Olympiad… đối với các em là một chân trời mới, một ‘đẳng cấp’ khác.
Nếu chúng ta nhìn nhận cái ‘giỏi’, ‘tài năng’, ‘năng khiếu’ ngôn ngữ ở học sinh có muôn hình muôn vẻ, đa dạng chứ không chỉ là một cái khung nhất định, hay một điểm số, chứng chỉ, bằng cấp… nhất định—không phải thi được IELTS 8+ là xong, hay công nhận HSG/giải Nhất/Nhì/Ba/huy chương Vàng/Bạc/Đồng… rồi thôi—có thể chúng ta sẽ bớt tranh cãi những câu hỏi như IELTS có thể thay cho HSG, OLP… tiếng Anh được hay không. Thay vì chỉ giới hạn ở chứng chỉ IELTS, sao không mở rộng lựa chọn cho các em?   Sao không là TOEFL, PTE, CAE (C1 Advanced), CPE (C2 Proficiency)… hay các chứng chỉ năng lực ngôn ngữ khác?   Quan trọng hơn nữa, ngoài các chứng chỉ năng lực ngôn ngữ, sao không có những hình thức, phương pháp đánh giá khác như project work, coursework, một tác phẩm sáng tạo…?
Rõ ràng, chúng ta cần có một sự thay đổi, linh hoạt trong cách giảng dạy, học tập, trong kiểm tra, đánh giá, và sử dụng tiếng Anh.   Dù mục tiêu của chúng ta là khuyến khích và đào tạo ngày càng nhiều ‘học sinh giỏi’ tiếng Anh hay ‘học sinh chuyên’ tiếng Anh đi nữa, các nhà lãnh đạo, nhà giáo dục không nên hạn chế lựa chọn của các em ở một chứng chỉ nào đó.   Xin trích dẫn quan điểm sau đây của thạc sĩ Châu Thế Hữu để làm rõ hơn điều này:
Bài thi IELTS chỉ nên được xem là một trong các nguồn tham khảo, chứ không phải thước đo duy nhất đo lường sự thông thạo về tiếng Anh của học sinh. Việc phụ thuộc quá nhiều vào IELTS hay một chứng chỉ tiếng Anh bất kỳ có thể làm mất đi tính độc đáo, cạnh tranh và cả ý nghĩa truyền thống của ba từ ‘học sinh giỏi’.
Thêm vào đó, giá trị của kỳ thi HSG không chỉ nên dừng lại ở việc đo lường chuyên môn của thí sinh, mà còn ở việc kiểm tra các kỹ năng đi kèm, như lập luận vấn đề hay tư duy phản biện… góp phần hướng đến đào tạo những HSG toàn diện, vững chuyên môn, giỏi tư duy, mạnh lập luận.
Ngoài ra, xét ở góc độ tổng thể, cần có sự thống nhất chung về mức độ như thế nào là ‘giỏi’ cho thí sinh giữa các tỉnh, thành cả nước. Các nơi, tùy theo điều kiện của mình, có thể lựa chọn cách thức để đánh giá ‘giỏi’, trong đó, sử dụng IELTS với mức điểm tương ứng như một thang đo cũng có thể là một lựa chọn, nhưng không được quá sai khác so với sự thống nhất chung của cả nước. Sự sai khác giữa việc đánh giá mức độ ‘giỏi’ trong tỉnh, thành với cả nước có thể dẫn đến thiệt thòi cho thí sinh khi tham gia các kỳ thi chung với quy mô toàn quốc sau này.
Về quan điểm cuối cùng của thầy Châu Thế Hữu, ngoài vấn đề về tính công bằng (fairness) trong kiểm tra, đánh giá năng lực ngôn ngữ đã được đề cập và thảo luận, tôi nghĩ cần có sự phân biệt giữa ‘học sinh giỏi’ và ‘học sinh chuyên’ tiếng Anh.
Đối với ‘học sinh chuyên’ tiếng Anh có định hướng đi sâu hơn về ngôn ngữ này, các em cần nhiều hơn là năng lực ngôn ngữ bậc C1/C2, hay IELTS 8+, vốn dĩ có thể đạt được mà không nhất thiết phải qua trường chuyên, lớp chọn.    Khái niệm ‘học sinh giỏi’ thực chất nhằm khuyến khích các em phấn đấu, không ngừng nâng cao năng lực ngôn ngữ, vì khi đủ trình độ tiếng Anh, các em sẽ tự tin hơn trong học tập, nghiên cứu, khám phá, theo đuổi những lĩnh vực mà các em chọn, vượt qua được rào cản ngôn ngữ. Tôi tin rằng trong tương lai không xa, những điểm cao IELTS 8.0/8.5+ hay CAE/CPE A/B sẽ không còn quá hiếm hoi, hay ngoài khả năng, ngoài tầm với của các em học sinh THCS/THPT ở Việt Nam (chuyên và không chuyên tiếng Anh). Hiểu theo nghĩa này, ‘ai’ cũng có thể trở thành ‘học sinh giỏi’ tiếng Anh nếu dành thời gian, công sức, và tìm được sự giúp đỡ phù hợp từ bạn bè, giáo viên…
Còn khái niệm ‘học sinh chuyên’ tiếng Anh có thể hiểu trong ngữ cảnh cụ thể, đặc thù hơn, giới hạn cho nhóm đối tượng muốn học tập, nghiên cứu… sâu hơn về ngôn ngữ này. Tuy nhiên, thực tế nhiều trường chuyên, lớp chọn vốn chỉ tập trung vào việc bồi dưỡng năng lực ngôn ngữ ở các cấp độ cao (C1/C2) để học sinh thi HSG, OLP, và sau đó là các kỳ thi chuẩn hoá quốc tế như IELTS, SAT… để xin học bổng hay đi du học các ngành khác… (Hiện nay nhiều em thi vào chuyên tiếng Anh để có môi trường nâng cao năng lực ngôn ngữ và sau đó theo đuổi các ngành khác như Kinh Tế, Kỹ Thuật… mà không phải là Sư Phạm Anh hay Ngôn Ngữ Anh.) Có lẽ điều này khiến nhiều người cho rằng hai khái niệm ‘học sinh giỏi’ và ‘học sinh chuyên’ tiếng Anh là một, và phương pháp giảng dạy, học tập, kiểm tra, đánh giá ‘học sinh chuyên’ tiếng Anh ở nhiều trường chuyên hiện nay có khác nào ‘trung tâm luyện thi’, mục đích chính là để các em thi được điểm IELTS, SAT cao, có giải thưởng, huy chương, thành tích…?
Một học sinh có thể thuộc và sử dụng các động từ bất quy tắc trong tiếng Anh, có thể thuộc và làm đúng các bài tập ngữ pháp nâng cao, có thể làm được các dạng bài tập khó như Chia Dạng Từ (Word Formation), Biến Đổi Câu (Sentence Transformation)… thì đã có thể xem là ‘học sinh giỏi’ tiếng Anh. ‘Học sinh chuyên’ tiếng Anh không chỉ nên dừng lại ở việc giải đề thi cấp độ cao, làm các bài tập khó, hay thi được điểm cao, được giải thưởng, huy chương… như nhiều ‘học sinh giỏi’ tiếng Anh khác, mà còn cần có một tinh thần chủ động khám phá, tìm tòi, học hỏi, phân tích, thông hiểu… những khía cạnh sâu sắc, tinh tế hơn của ngôn ngữ Anh. Ví dụ, ‘học sinh chuyên’ tiếng Anh cần đặt câu hỏi, chủ động tìm hiểu vì sao có những động từ bất quy tắc trong tiếng Anh, làm sao để sử dụng hiệu quả những cấu trúc ngữ pháp nâng cao trong Nói và Viết, lẫn tác động của các cấu trúc câu, cách dùng từ lên người đọc, những thay đổi về văn phong, tính thuyết phục, tính khách quan… khi sử dụng các cấu trúc tương đương, các từ đồng nghĩa (synonym), trái nghĩa (antonym), từ vựng học thuật (academic vocabulary), C1/C2, các từ ngữ thông dụng (common) hay đặc thù (specialist) trong những ngữ cảnh nhất định (register, domain, context), các từ ngữ ít gặp (uncommon/less common lexis), các thành ngữ (idiom), cụm động từ (phrasal verb), kết hợp từ (collocation, word pattern)… Nói cách khác, ‘học sinh chuyên’ tiếng Anh không nên chỉ dừng lại ở việc sử dụng tiếng Anh ‘giỏi’, mà còn cần có một tâm thế cởi mở, chủ động tìm tòi, học hỏi để thẩm thấu, chiêm nghiệm, cảm nhận ngôn ngữ, cần có tư duy phân tích, phản biện, phê bình và sáng tạo đối với ngôn ngữ Anh.
‘Học sinh chuyên’ tiếng Anh = ‘Học sinh giỏi’ tiếng Anh + … + … + … ?
Cần có sự phân biệt giữa ‘học sinh giỏi’ tiếng Anh và ‘học sinh chuyên’ tiếng Anh. Môi trường chuyên Anh cần đặc thù, chuyên biệt, đa dạng, phân hoá cao hơn và không nên chỉ tập trung luyện thi các chứng chỉ năng lực ngôn ngữ như IELTS hay các kỳ thi HSG, OLP tiếng Anh.
Vì vậy, việc giảng dạy, học tập, kiểm tra, đánh giá ‘học sinh giỏi’ và ‘học sinh chuyên’ tiếng Anh cần đa dạng và có tính phân hoá cao. Đề thi dành cho ‘học sinh chuyên’ tiếng Anh không nên chỉ dừng lại ở việc đánh giá năng lực ngôn ngữ (vốn dĩ IELTS, Cambridge English… đã và đang làm rất tốt), mà còn cần gợi mở, đòi hỏi thông hiểu, kĩ năng phân tích, phê bình, phản biện… sâu sắc, tinh tế hơn về ngôn ngữ Anh. Các chứng nhận giải thưởng ‘học sinh giỏi’ tiếng Anh, huy chương OLP chuyên tiếng Anh, hay các quyền lợi tuyển thẳng ĐH khi đạt giải cao trong kỳ thi HSGQG, thay thế các học phần tiếng Anh ở ĐH, quy đổi điểm tuyển sinh ĐH, sử dụng IELTS để thay thế các kỳ thi tốt nghiệp THCS/THPT, HSG, OLP, hay với thiện chí khuyến khích người học nâng cao năng lực ngôn ngữ, trau dồi đều đặn và cân đối các kỹ năng Nghe, Nói, Đọc Viết… cần được đặt trong ngữ cảnh phù hợp, cụ thể và chính xác, trả những bằng cấp, chứng chỉ, giải thưởng, huy chương, danh hiệu… về đúng vị trí và vai trò của chúng. Chỉ như vậy, trường học (chuyên và không chuyên) mới không trở thành những ‘lò luyện thi’, ‘luyện gà’ đơn thuần chạy theo những phong trào thi đua thành tích, chú trọng số lượng điểm cao, chứng chỉ, bằng cấp, giải thưởng, huy chương… hơn là tập trung, cố gắng cải thiện chất lượng đào tạo, kiểm tra, đánh giá… để không đi quá lệch, quá xa so với mục tiêu, tầm nhìn bồi dưỡng ngày càng nhiều hơn những ‘tài năng’ cho đất nước, không chỉ ‘giỏi’ trong thi cử mà đủ tầm vươn ra thế giới. Bởi không một chứng chỉ, bằng cấp nào đủ để đo lường cái ‘giỏi’, ’năng khiếu’, ‘tài năng’ về ngôn ngữ của các em trong thời đại mới./.