Kinh là ai?
Trên CMND hay Thẻ căn cước công dân có ghi: Dân tộc Kinh! Nhưng Kinh là ai? Sắc tộc đó là sắc tộc nào?
Kinh thực chất là khái niệm Văn hóa hơn là một khái niệm sắc tộc. Khái niệm Kinh là dùng để chỉ cộng đồng cư trú ở khu vực châu thổ sông Hồng (phân chia Kinh Trại thời Trần). Sau đó là để chỉ người Việt ở đồng bằng, phân biệt với thượng ở vùng cao.
Tất nhiên giờ thì đâu đâu cũng thấy Kinh. Kinh hay Việt cũng đã thực dân Hoa Kỳ làm nên Little Saigon hay sang Tây Âu bằng nhiều con đường trong đó có cả chui thùng container.
Có lẽ nối tiếp máu tổ tông, Kinh có năng lực thực dân hàng đầu thế giới. Kinh đi đến đâu là tạo lập các khu cư trú đặc sệt Việt ở đó! Tâm tính vẫn rất Kinh!
Kinh: con người sinh học và con người văn hóa
Về con người sinh học: Kinh có mầu gen Tai. Về ngôn ngữ thuộc Nam Á, anh em với Tai, Mol. Nhưng về con người Văn hóa: Kinh chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán.
Lực lượng lãnh đạo: Văn hoá Kinh được đắp nền từ Đại La, Lý, Trần từ Mân qua. Lê có lẽ là tệp Mường Thái.
Kinh gọi kinh đô của mình là Trường An, tự gọi mình là Hán nhân, gọi vùng lãnh thổ của mình là Trung Quốc. Kinh thích các danh xưng như Vương, Đế, Thiên tử. Nếu nói tới các danh xưng gần với bản địa hơn như Bộ Lĩnh, Bố Cái, Man Di Đại Trưởng Lão thì rất dễ bị Kinh phản ứng.
Hồ Quý Ly trong "Đáp bắc nhân vấn An Nam phong tục" rất tự hào về y quan Đường chế độ, lễ nhạc Hán quân thần.
"Dục vấn An Nam sự,
An Nam phong tục thuần.
Y quan Đường chế độ,
Lễ nhạc Hán quân thần.
Ngọc ủng khai tân tửu,
Kim đao chước tế lân.
Niên niên nhị tam nguyệt,
Đào lý nhất ban xuân".
Trong tiềm thức của Kinh, Vương hay Đế mới thực sự cao sang, mới là Thiên tử giáo hóa man dân. Còn các tôn hiệu gần với bản địa thì nhiều người lại cho đó là kém sang trọng, kém uy danh.
Kinh sáng tạo nên kỷ Hồng Bàng như một kiểu ngày Nghiêu tháng Thuấn. Tất nhiên một tiểu Khổng tử cũng được tạo ra ở Việt Nam: đó là Chu Văn An (朱文安; 1292–1370). Hành trạng của Chu Văn An giống hệt Khổng Tử. Ông cũng nổi tiếng về học vấn, cũng khuyên vua nhân nghĩa, cũng bỏ quan về dạy học và thành tích chính trị cũng chẳng có gì đáng kể.
Đương nhiên ông được phối thờ cùng Chu Công, Khổng tử trong Văn Miếu. Ông trở thành một biểu tượng trong Văn Hiến Việt Nam.
Kinh thuộc sử Tầu hơn sử Việt! Một hiện tượng tương đối quái dị và trái với chủ nghĩa dân tộc tại Việt Nam nhưng nhìn sâu xa, điều này không khó lý giải.
Kinh: thực dân trên châu thổ sông Hồng
Như nghiên cứu về sự hình thành và phát triển của Châu thổ sông Hồng thời kỳ Holocene cho thấy đây là một châu thổ mới cải lão hoàn đồng. Khoảng 1k năm trước thì khu vực này mới trở nên hấp dẫn với các luồng dân di cư đang ngày thêm mãnh liệt.
Quãng cuối TK X, các tiểu quốc Nam Trường Giang sụp đổ trước sức tấn công của nhà Tống. Một bộ phận trong số họ đã chạy đến vùng đất mới là Châu Thổ sông Hồng.
Ở đây có thành Đại La do Cao Biền mở rộng. Họ kết hợp với Hán nhân nay đã thành bản địa (như Khách gia ở Đài Loan hiện tại), người Mol, Tai đang cùng khai phá châu thổ.
Tất cả hình thành những nhân tố cốt lõi cho sự ra đời của vùng văn hoá mang tên Kinh hay dân Trung châu. Vùng văn hoá này còn được bổ sung thêm 5 vạn tù binh Cham bị Lý Thái Tông bắt trong chiến dịch 1069. Tù binh Cham sau chiến dịch 1471 của Lê Thánh Tông.
Rất nhiều luồng văn hoá đan xen, rất nhiểu sắc tộc cùng cư trú. Dân cư vùng văn hoá Kinh cần thời gian để trộn lẫn, hoà quện tất cả những giá trị đó.
Và đó là căn nguyên giải thích Kinh vì sao không có Trường ca, sử thi như người Thái, người Mol, Cham hay nhiều dân tộc khác. Ngay đến Lục Bát thể thơ yêu thích của cư dân Kinh (chiếm khoảng 85% ca giao) cũng mãi tới Tk XV mới hoàn thiện.
(Cham gọi thể thơ này là Ariya và hoàn thiện niêm luật trước Kinh vài trăm năm). Khoảng TK XI nhóm tinh hoa Mân, Kiến, Nam Hán nắm quyền cai trị ở Châu thổ sông Hồng. Họ cai trị người Mol, Tai, sau là cả Cham. Trên thượng tầng, tinh hoa dùng chữ Hán nhuần nhuyễn, uyên bác.
Những năm 1270 - 1280 nhà Tống sụp đổ. Tống nhân chạy xuống Đại Việt, thúc đẩy học vấn - văn hiến Nho Gia bùng nổ. Đến lúc này mới có truyền kỳ Mạc Đĩnh Chi giảng cho Nguyên triều biết trúc là quân tử, sẻ là tiểu nhân.
Kinh Lộ cải biến cả phong hóa nước Nam đến nỗi Nghệ Tông phẫn nộ mắng bọn "học trò mặt trắng". Hàng vạn dân Kinh Lộ dưới sự lãnh đạo của các nhà Nho như Mạc Thúy, Lương Nhữ Hốt... giúp Minh đánh Đại Ngu. Họ mưu biến Đại Việt thành quận huyện thuộc Minh (đầu TK XV).
Tiếp nối truyền thống Hán nhân
Quanh kinh sư thì được gọi là Kinh để phân biệt với Trại. Sau này mở rộng thì dân ở Đồng Bằng vốn nhuần phong hoá thì gọi là Kinh để phân biệt với Thượng.
Trong Dụ chư tì tướng Hịch văn, Hưng Đạo Vương nhắc nhở bộ thuộc về những tấm gương tiết liệt Hán, Đường, Tống. Ông hoàn toàn không đoái hoài gì đến những anh hùng nước Nam. Văn Lang, Âu Lạc cũng không có trong bài hịch của ông.
Đến thời Nguyễn thì sự hiểu thấu về tổ tông, hay do những biến thiên thời cuộc mà Nguyễn Triều nhận mình là Hán nhân. Người phương Bắc chỉ là Thanh nhân, Minh nhân (Minh hương). Minh Mạng coi Thanh triều cũng chỉ là đám Di. Tất nhiên người Tây là Bạch quỷ, hồng mao.
Tới TK XX mà sự tiếp nối truyền thống Hán nhân của Kinh vẫn rất mãnh liệt. Phạm Quỳnh viết: “Thiên chức của giống Việt Nam ta là phải thực dân cả cõi Đông Dương này, đem cờ hiệu Chi-na mà chiến đấu với thế với Ấn Độ, khiến cho dân Ấn- Độ Chi-na này thành một đất Chi-na dòng”.
Tuy nhiên, người Pháp đã kéo cái đầu của Kinh ra khỏi văn hóa Hán. Họ định danh ta thành người An Nam. Hán nhân, Đường Lâm ăn lúa chiêm, dùng nước mắm, nhận (vơ) Trống Đồng, hấp thụ nhiều giá trị văn hoá của cả Mol, Tai, Cham... Tất cả dần hình thành văn hoá sông Hồng hay văn minh Đại Việt.
Người Kinh có cái đầu rất Hán còn trái tim lại phương Nam. Qua ngàn năm với những thử thách khốc liệt mới định hình Việt Nam.
Tiểu kết:
Việc nghiên cứu và phục hưng các giá trị văn hóa bản địa, là điều đặc biệt cần thiết. Nghiên cứu để xác định rõ tâm thế phương Nam của người Việt. Nghiên cứu để ghi nhận những đóng góp lớn lao của các sắc dân bản địa cho văn hóa Việt hôm nay.
Và nghiên cứu cũng là để chúng ta có cái nhìn công bằng, cận sự thật và tôn trọng hơn với các tài sản của các sắc dân như Thái, Mol, Cham... Đó mới là căn gốc vững vàng để hòa hợp Việt Nam.
img_0
img_1
img_2
img_3