Những Lực Chuyển Của Hai Thập Kỷ Tới
Alan Phan
(GNA: Bài viết từ tháng 5 nhưng không đăng vì sự tế nhị của tình hình đất nước. Nay thì “Định Mệnh Đã An Bài” nên xin quay lại với tương lai của doanh nghiệp và cá nhân; một đề tài thực sự quan trọng hơn tất cả những “trò chơi” của người hay của chuột. Bởi vì tôi luôn quan niệm là dân có giàu thì nước mới mạnh, mới được nước khác kính nể, và có phương tiện để tạo nên một xã hội công bằng, pháp trị và dân chủ thực sự)
15 May 2014
Những ngày gần đây, các biến động tại Việt Nam do tranh chấp lãnh hải với Trung Quốc đã làm mờ nhạt tất cả suy nghĩ của người Việt về tương lai gần xa của xứ sở, về những khả năng của các “thiên nga đen”, về mọi vấn đề vĩ mô của kinh tế chính trị và xã hội. Dù đã suy nghĩ và phân tích rất nhiều, thực tình tôi cũng không biết tiên đoán thế nào cho khoa học và chính xác những ảnh hưởng của biến cố này trên các hoạt động kinh doanh và đầu tư tại Việt Nam.
Tuy nhiên, mặc cho Việt Nam hay Trung Quốc hay bất cứ quốc gia nào khác, đang loay hoay tìm giải pháp cho các vấn đề trước mặt của mình, nền kinh tế của thế giới vẫn tiếp tục đi tới (hay lui) trên con đường của nó theo những trào lưu có thể tiên đoán từ những dữ liệu và tin tức trong kho kiến thức của nhân loại trên đám mây Internet.
Vì tôi không phải là một chuyên gia suốt ngày ngồi nghiên khảo nghiêm túc như một giáo sư đại học hay một ứng viên viết luận án, nên tôi chắc chắn là các kết luận của mình mang nhiều giới hạn và thiếu sót. Nhưng bù lại, kiến thức thâu lượm qua sách vở của tôi lại được bổ túc bởi những cuộc viếng thăm cơ sở và trò chuyện cùng các doanh nhân đang chiến đấu hàng ngày tại “ground zero” nên tôi nghĩ chúng có được góc cạnh thực tế và khả thi hơn các luận án.
Theo tôi (và cần nhiều bổ túc từ BCA), các lực chuyển sau đây sẽ biến dạng nền kinh tế toàn cầu và tạo nên một môi trường xã hội khác biệt cho thế hệ trẻ. Sự đoán bắt đúng lúc và thực thi giải pháp chính xác, khả thi sẽ đem lại những trái quả ngọt ngào cho người nhập cuộc. Và như trong bất cứ trò chơi nào, người thua cuộc cũng khá đông. Sự mất mát và rủi ro luôn tiềm ẩn.
Trước hết, xin tóm lược:
Lực Chuyển 1: Văn hóa mới sẽ có mầu sắc toàn cầu theo khuynh hướng kinh tế thị trường và chính trị đa nguyên, dân chủ.
Lực Chuyển 2: Dòng tiền đầu tư quay về Âu Mỹ.
Lực Chuyển 3: Công nghệ cao sẽ biến đổi nhiều mô hình kinh doanh và cách thức chúng ta sinh hoạt
Lực Chuyển 4: Các quốc gia mới nổi mất nhiều lợi thế cạnh tranh trong chi phí sản xuất công nghiệp
Lực Chuyển 5: Dầu khí và khoáng sản không còn là tài sản tối ưu trong các nền kinh tế đã phát triển
Lực Chuyển 6: Dịch vụ an sinh và giải trí sẽ chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng lượng GDP toàn cầu
Trong 2 tháng tới, tôi sẽ trình bày và phân giải các sự kiện, hiện tượng và lý do tại sao tôi nghĩ đây là những lực chuyển tạo nên những thay đổi quan trọng nhất cho nền kinh tế toàn cầu.
Tôi cũng sẽ minh bạch và cho các bạn biết, từ các kết luận này, tôi đã thay đổi công việc làm ăn cũng như đời sống hàng ngày của tôi như thế nào để thích nghi với tình huống mới. Tôi hoàn toàn không biết là mình sai hay trúng. Đây là lợi thế của những người “không-phải-là-đỉnh-cao-trí tuệ”. Chúng ta nhìn mọi chuyện như một phiêu lưu kỳ thú, không phải một kịch bản viết ra từ một cuốn sách từ thế kỷ 18, không ai còn muốn đọc vì chứa quá nhiều sai lầm.
Tôi cũng không biết là lãnh đạo và nhân dân Việt Nam có muốn “thâu tóm” tương lai để tạo nên một cuộc sống khác hơn những nghèo hèn hiện tại? Cá nhân các bạn có muốn thay đổi tư duy để tìm những kỹ năng mới để cạnh tranh trên “biển lớn”? Nhưng tôi đã nói từ đầu, thế giới này không có thì giờ để đợi Việt Nam hay cá nhân, hay gia đình của bạn. Nhân loại đang háo hức lên đường tìm vận hội mới, nhất là những người trẻ. Ai muốn ở lại với “cây đa cao ngất từng xanh” của làng mạc hay ôm lấy đống “nồi niêu xong chảo” tích cóp từ thời Mao, Stalin… thì vẫn tự do với lựa chọn của mình (nghe nói đám Taliban đang tìm thêm đồng chí).
Tôi biết tình hình nước nhà đang nằm trước một ngã rẻ có thể là rất quan trọng cho vận mệnh chung và riêng. Nhưng nó cũng có thể chỉ là một màn kịch đạo diễn bởi những chính trị gia mưu mô, thủ đoạn. Mọi chuyện lại đâu sẽ vào đấy. Nếu bạn có thể làm gì để tác động lên ảnh hưởng cho lợi ích chung thì tôi thực sự khâm phục. Với khả năng và đam mê của cá nhân, tôi biết tôi hoàn toàn vô dụng trong tình thế này. Vả lại, cà ngàn diễn đàn và mạng lưới khác đang hoạt động tối đa trên khắp phương tiện (ảo và thực) theo mục tiêu mà các bạn muốn tham gia.
Riêng tôi, tôi không muốn mất thì giờ đợi chờ và suy đoán. Tôi mời bạn lên đường theo một hành trình trong suy tưởng của ông già Alan và BCA.
Alan Phan
PS: Tôi hiện cũng khá bận rộn với nhiều việc đang triển khai cho dự án mới. Xin các bạn kiên nhẫn nếu sự chia sẻ này của ông già bị bê trễ.
Lực Chuyển 1: Văn Hoá Toàn Cầu
Alan Phan
global-studies-cultural-collage-source


(Bài 2 trong loạt bài Những Lực Chuyển Của Hai Thập Kỷ Tới ). Link
19 June 2014
Định nghĩa về văn hoá: Văn hoá bao gồm tín ngưỡng, thang giá trị, tập quán, văn học nghệ thuật, lối sống, cách tư duy, cách hành xử, lối làm việc…tại một nơi chốn nào đó, của xã hội hay tổ chức ( beliefs, set of value, customs, arts, way of life, way of thinking, behaving, working in a particular place, society or organization  – theo Merriam-Webster).
Gần đây, một đại gia Việt mắng tôi là “thiếu văn hoá” vì tôi dùng chữ “Drop Dead” của Tổng Thống Ford khi thành phố New York nhờ Toà Bạch Ốc cứu trợ vào năm 1975. Tôi có thêm một trận cười khi một BCA xuất hiện tại một buổi nói chuyện của tôi ở Hà Nội với chiếc T-shirt in dòng chữ “Xin…Drop Dead “(bỏ vài chữ)… Theo như định nghĩa trên, chúng ta có thể thiếu tiền, thiếu tình, thiếu kinh nghiệm hay thiếu kiến thức (thiếu giáo dục?), nhưng không thể thiếu văn hoá được. Văn hoá chắc chắn là rất khác biệt tại nhiều môi trường khác nhau…nhưng văn hoá “nhậu” hay “nổ” hay “ăn cắp” hay “tham nhũng” hay “nói dối” cũng là một loại văn hoá đặc trưng không chối bỏ được.
Thêm vào đó, tôi còn bị một đọc giả phê bình là có văn hoá “lai căng”. Ở Việt Nam, người dùng chữ lai căng để mắng ai thường mang chút trịch thượng và đạo đức. Nhưng khi tôi suy ngẫm thêm, thì tôi nhận ra là mình lai căng thật. Qua Mỹ từ năm 18 tuổi, tôi sống đến ba phần tư đời mình tại nhiều nước xa lạ, và quả thực, văn hoá khác biệt của khắp nơi thấm sâu vào tư duy cũng như thói quen, tạo nên một con người Alan rất nhiều góc cạnh. Xấu hay tốt, suốt 69 năm qua, đó là một văn hoá lai căng tôi không thể phủ nhận.
Tuy nhiên, tôi muốn báo cho mọi người biết là đến thế hệ tới thì có lẽ hơn 95% giới trẻ toàn cầu sẽ mang nhãn hiệu “lai căng” (5% còn lại là những người rừng, hay đội quân Hồi Giáo cực đoan,  hay những con cừu sinh ra và lớn lên ở Cuba, Bắc Triều Tiên hay….?). Mỹ thường được xem như là một melting pot của thế giới, hoà nhập tất cả văn hoá, chủng tộc, thói quen, tôn giáo, tư tưởng của mọi sắc dân trên địa cầu. Kết quả sau cùng là một tổng hợp lai căng rất đặc thù, “American culture”.
Khi tôi đến Mỹ năm 1963, văn hoá Mỹ thực ra là một biểu tượng của nền văn minh Anglo Saxon. Từ mầu da trắng phếu của đa số người dân, đến tôn giáo, triết thuyết và tập quán đem từ lục địa Âu Châu cũ, áp đặt lên một môi trường mới lạ trù phú là xứ Mỹ bao la. 50 năm sau, văn hoá Mỹ đã biến dạng hoàn toàn với các sắc mầu Latin, Á Châu và Phi Châu. Những cái TV shows gần đây không những pha trộn đủ loại diễn viên và kịch bản từ nhiều sắc dân mà còn trưng bày những nét văn hoá rất xa lạ với người gốc Anglo Saxon. Từ Leave It To Beaver, The Brady Bunch ngày xưa…đến talk show của Oprah Winfrey hay Modern Family bây giờ…quả là một bước nhẩy vọt về “cách mạng văn hoá” mà Mao Trạch Đông cũng không thể hình dung nổi.
Vì sự lan toả quá nhanh của công nghệ thông tin và hệ thống giao thông, cũng như tính chất liên thông của nền kinh tế toàn cầu, giới trẻ khắp thế giới sẽ hấp thụ một nền “văn hoá toàn cầu” dựa trên căn bản và theo một tiến trình tương tự như văn hoá Mỹ hiện nay. Dĩ nhiên là sẽ có vài khác biệt trưng bày bản sắc địa phương của từng vùng lãnh thổ, nhưng văn hoá này sẽ có nhiều mẫu số chung như sau:
- Căn cơ của văn hoá là những thang giá trị của văn minh Anglo Saxon:
Với sự phổ thông của Anh ngữ khắp nơi, ngay cả tại Trung Quốc và các quốc gia Đức, Pháp, Tây Ban Nha…, phần lớn kiến thức nhân loại sẽ bắt nguồn từ tư duy của văn minh Tây Phương. Tôi quan sát là ngay cả các sách vở, tài liệu về Phật Giáo, thư mục tiếng Anh nhiều hơn tiếng Ấn hay tiếng Hoa, nơi xuất phát của tôn giáo này. Quay qua các diễn biến hiện tại trên thế giới, những tường trình từ CNN, New York Times, Reuters, Economist…không những có một số lượng bài vở nhiều hơn, mà còn mang một tỷ trọng lớn hơn trong việc đúc kết dư luận thế giới.
Trên căn bản này, góc nhìn và phân tích của mọi vấn đề sẽ mang mầu sắc tự do cá nhân, năng động, sáng tạo, dân chủ, đa dạng và đa nguyên. Đây cũng là những cột trụ của văn hoá Mỹ.
- Tốc độ của công nghệ mới sẽ thu ngắn tiến trình lan toả và hấp thụ
Chỉ trong 5 năm, Facebook đã phát triển lượng thành viên từ 12 triệu (2007) lên đến 1 tỷ người (2012). Đây là một cuộc cách mạng về truyền thông xã hội (social media) nhanh nhất lịch sử. Microsoft phải mất đến 15 năm mới đem hệ điều hành Windows đến khắp thế giới và Google cũng phải mất 11 năm mới tạo thói quen cho trí thức về việc tìm kiếm. Ngày nay, một video phổ thông gởi lên YouTube như Gangnam Style phát tán đến 2.2 tỷ người xem; hay một video game bán chạy nhất như Tetris có đến 143 triệu người mua trong vài tháng.
Vì quá nhiều thông tin, trò chơi và nghiên cứu tràn ngập Internet, bất cứ sản phẩm nào xâm nhập vào “database văn hoá” và tạo thói quen cho đa số nhân loại phải là một đặc thù vượt trội mọi đối thủ. Sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường sẽ loại bỏ những sản phẩm trung bình, sao chép và mang bản sắc địa phương. Ứng dụng vào văn hoá toàn cầu phải đi qua đám mây Internet và phải tạo thích thú cho phần lớn người sử dụng.
-Ảnh hưởng tương quan từ nhiều nguồn gốc
Dĩ nhiên, vì ảnh hưởng rộng lớn đến từ sức mạnh kinh tế, công nghệ và quân sự của Âu Mỹ, nên đặc trưng nền văn hoá Âu Mỹ sẽ áp đảo phần lớn “văn hoá toàn cầu”.  Toàn thế giới vẫn nhìn về các trào lưu mới từ Âu Mỹ để định hướng sinh hoạt; và những tài sản mềm của Wall Street, Silicon Valley hay Hollywood đã khống chế tư duy của đa số giới trẻ.
Tuy nhiên, ảnh hưởng này không phải một chiều. Số chuyên viên Ấn, Hoa, Trung Đông tại Silicon Valley và Wall Street càng ngày càng nắm giữ nhiều chức vụ quản lý cao cấp tạo nên một mạng lưới với những suy nghĩ cổ truyền từ Phương Đông. Trong khi đó, số diễn viên tài tử gốc Phi Châu và Latin gia tăng nhanh chóng tại Hollywood đem lại những lăng kính không chút Anglo Saxon nào trong sự đóng góp vào văn hoá toàn cầu.
- Các xung đột chủng tộc và tôn giáo sẽ gây nhiều biến thái
Dĩ nhiên, khi có “chung” thì phải có “đụng”. Ngoài những tranh cãi logic về lý thuyết và thực dụng, các kiên định về mầu da, bản sắc dân tộc, tập tục cổ truyền cũng như tín ngưỡng sẽ tạo những điều chỉnh nhiều khi đi ngược với nguyên lý “cởi mở”, “hội nhập” và “hoà đồng” của nền văn hoá toàn cầu.
Để tránh những xung đột này, văn hoá toàn cầu có thể trở nên “không bản sắc”, “mờ nhạt” và “do dự”. Từ đó, tư duy và phương cách sống của giới trẻ cũng mất đi những lý tưởng cuồng nhiệt, những góc cạnh sắc bén, những ý chí dũng cảm… đã góp phần lớn vào việc phát triển các nền văn minh cổ truyền. Không còn trắng đen, mà chỉ là mầu xám.
- Mặt trái của văn hoá toàn cầu là vô cảm, phiến diện và hưởng thụ
Nếu văn hoá melting pot của Mỹ là một dấu hiệu, nền văn hoá toàn cầu sẽ biến đa số giới trẻ thành một đám đông sống theo sở thích cá nhân, say mê hưởng thụ và tìm những thoả mãn nhất thời (instant gratification). Và để đạt đến mục tiêu này, họ cần phải chăm chú vào việc kiếm tiền, mua sắm, khoe của…
Ngoài kiến thức sâu rộng cho ngành nghề chuyên môn, giới trẻ quá bận rộn để có thì giờ tìm chiều sâu cho những đề tài sự kiện khác. Các kiến thức sẽ đến từ những mành vụn nhấp nhô (sound bites) qua TV, Facebook, Twitter…Hệ quả của sự phiến diện này là những quyết định dựa trên trào lưu, đám đông, và các thủ thuật “hướng dẫn dư luận” của nhóm lợi ích, nhóm chính trị gia, nhóm tư bản…
-Khung phát triển của văn hoá toàn cầu
Tuy nhiên, có một điều chắc chắn là nền văn hoá toàn cầu sẽ đặt căn bản trên sự tự do lựa chọn, quyền phát biểu ý kiến cá nhân và việc theo đuổi mục tiêu hạnh phúc dựa trên mong muốn của mỗi người.
Căn bản này là thành tố của một thế giới dân chủ, cởi mở, bình đẳng về chính trị; một nền kinh tế hoàn toàn tuỳ thuộc vào thị trường và mọi liên thông dễ dàng về tài chánh, thương mại, giáo dục, thông tin.
Văn hoá là nền tảng của xã hội và con người
Tôi luôn tin rằng tư duy tạo hành động, hành động thành thói quen, thói quen trở nên định mệnh. Ảnh hưởng sâu đậm của văn hoá sẽ đúc kết nên tư duy ban đầu và sau cùng định mệnh lại kết nối vòng tròn để tạo hình cho văn hoá.
Do đó, nếu đoán bắt được trào lưu văn hoá của người tiêu dùng, các doanh nghiệp sẽ hiểu mình cần làm gì để đáp ứng được nhu cầu của họ. Trong nền kinh tế thị trường, người bỏ tiền ra mua sản phẩm của bạn là nhân vật có tiếng nói sau cùng. Chuẩn bị cho nền văn hoá toàn cầu là sẵn sàng để đưa sản phẩm của mình tiếp cận với cả thế giới, đang biến đổi nhanh chóng và lan phủ khắp nơi.
Tóm lại, lực chuyển văn hoá sẽ:
-          Đem lại một thị trường thật rộng lớn nhưng đồng bộ và tương quan. Doanh nghiệp bắt buộc phải ra biển lớn để phát triển và tồn tại, ngay cà với những doanh nghiệp Mỹ hay Trung Quốc với thị trường nội địa khổng lồ. Yếu tố và bản sắc địa phương sẽ lần lần bị loại bỏ. Thay vào đó, sản phẩm phải có một góc cạnh gây ưa thích cho người tiêu dùng khắp thế giới.
-          Cơ hội sẽ mênh mông nhưng cạnh tranh cũng khắc nghiệt. Với thị trường và văn hoá toàn cầu, bất cứ sản phẩm nào vượt trội đối thủ cũng sẽ tạo cho doanh nghiệp “tiền tỷ USD trong thời gian rất ngắn”. Trò chơi Flappy Bird là một thí dụ quen thuộc của Việt Nam. Tiếc là người sáng lập tự rút lui, chứ nếu anh Nguyễn Hà Đông cứ tiếp tục cuộc chơi, anh sẽ là tỷ phú đô la chỉ trong vài ba tháng (so với thời gian các tỷ phú đô la khác của Việt Nam phải mất khi xây đế chế). Mặt trái của vấn đề là những cạnh tranh, rủi ro và thử thách cũng nhiều vô số kể.
 
-          Hệ thống chính trị và kinh tế sẽ phải thay đổi để sống còn trong một văn hoá toàn cầu. Sức ép của người dân mong muốn những tiện nghi và lợi ích của các quốc gia giàu có khiến nhà cầm quyền phải thay đổi cơ chế hay là tự huỷ diệt. Ngay cả một quốc gia độc tài, độc đảng và lớn mạnh như Trung Quốc cũng đang nói đến những điều chỉnh quan trọng về kinh tế và chính trị, dù quyền lực và quyền lợi của chính phủ và nhóm tư bản đỏ sẽ bị thiệt hại. Nếu không thay đổi, chúng ta sẽ chứng kiến những cuộc di dân âm thầm nhưng vĩ đại. Tinh hoa và thành phần tiến bộ của Trung Quốc sẽ tụ họp về những khu vực Âu Mỹ để thoả mãn nhu cầu sinh hoạt của họ; để lại một Trung Quốc càng ngày càng yếu kém và mất nhiều lợi thế cạnh tranh trong cuộc chạy đua cùa các cường quốc.
-          Chu kỳ huỷ diệt (creative destruction) sẽ rút ngắn khiến mọi doanh nghiệp phải luôn sáng tạo và hào hứng. Đây là một đặc tính của tuổi trẻ, chuyên tìm những mới lạ. Chóng mê nhưng cũng chóng chán. Trong những thập kỷ tới, doanh nghiệp (hay quốc gia) không biết “tái sinh” sẽ trở thành những con khủng long trong viện bảo tàng. Tất cả quan tâm của những nhà đầu tư, những doanh nhân (đã hay chưa thành công) đều hướng về các công nghệ, phát minh, mô hình kinh doanh…có tính chất “phá hoại, phản động” gọi là disruptors. Không ai để ý đến những gì đã thành chuẩn mực.
Dù không kinh doanh mà chỉ tìm một việc làm để sự nghiệp thăng hoa, các bạn trẻ phải hiểu môi trường văn hoá mình đang đối diện. Các bạn phải biết đào tạo cho mình những kỹ năng thực dụng và hiểu rõ luật chơi. Nghiên cứu sâu rộng về đối thủ, về công nghệ, về mạng lưới phụ trợ (networking) cũng như biết rõ mục tiêu cùng nguyên tắc của dự án trước khi ra khơi. Không ai có thể đoan chắc về cơ hội thành công (thất bại sẽ chiếm một tỷ lệ rất cao); nhưng muốn thành một người có tự trọng, các bạn sẽ không có lựa chọn nào khác.
Leonard Da Vinci hiểu rõ tiến trình này,” những người thành đạt ít khi ngồi yên chịu đựng những sự cố xẩy đến cho họ. Họ bước ra và tạo sự cố – People of accomplishment rarelt sat back and let things happen to them. They went out and happened to things.”
Alan Phan
Lực Chuyển 2: Dòng Tiền Đầu Tư
Alan Phan
global capital


(Bài 3 trong loạt bài Những Lực Chuyển Của Hai Thập Kỷ Tới ). Link
25/6/2014
Một nghiên khảo tôi đọc đã lâu nêu ra một điều buồn cười về Liên Xô (thực ra là một thảm kịch cho người dân Nga) là trong thời gian đảng Cộng Sản cầm quyền từ 1946 (sau chiến thứ 2) đến năm 1975 (14 năm trước khi sụp đổ), nếu chánh phủ độc tôn Liên Xô chỉ bán khoáng sản, tài nguyên… rồi cả nước ngồi không ăn chơi, thì thu nhập quốc gia và cá nhân cũng không thay đổi chút gì trong 30 năm đó. Thay vì ngồi yên, họ lập ra đủ kế hoạch 5 năm, 10 năm, 100 năm…với những bộ não thuộc loại đỉnh cao của loài người để vận hành kinh tế. Kết quả? Người dân Nga phải làm nô dịch theo mệnh lệnh của quan chức, phải đi kinh tế mới và làm chuyện tào lao theo chính sách mù mờ, phải vào nhà thương điên ở vùng băng giá Siberia (gọi là gulag) …và phải xếp hàng vài tiếng mỗi ngày để mua một miếng thịt hay cái quần lót…
Các nước Cộng Sản, bây giờ và quá khứ, là những minh chứng hùng hồn cho thấy sự phát triển kinh tế toàn cầu không chỉ tuỳ thuộc vào “labor”, sức lao động của công nông dân như Marx biện luận. Liên Xô không thua Âu Mỹ về bất cứ thành tố gì từ tài nguyên thiên nhiên, trí tuệ khoa học, đến số lượng lao động, khả năng quản trị…Ngoại trừ một thứ: tư bản.
Một cô gái đứng đường cũng hiểu rõ quy luật này hơn cả những chuyên gia đại học hàng đầu của các đảng Cộng Sản: No money, no honey.
Trung Quốc thường được ca ngợi là hiện tượng thành công lịch sử trong việc điều hành kinh tế. Nhưng yếu tố quan trọng nhất mà các nhà phân tích hay bỏ qua là sự đóng góp của dòng tiền từ nước ngoài vào sự thịnh vượng này. Nếu không có những tư bản lúc đầu từ Hoa Kiều và sau đó, từ các quốc gia Âu Mỹ Nhật, máy bay kinh tế tài chánh Trung Quốc sẽ không có đủ nguyên liệu để cất cánh.
Dĩ nhiên, căn bản của lực chuyển kinh tế phải dựa trên quyền tư hữu cá nhân. Và thể hiện rõ nhất trong mọi tài sản là “tiền”. Tôi không biết có bao nhiêu cuốn sách đã xuất bản về các triết thuyết kinh tế và bàn luận về những yếu tố chính trị, xã hội, văn hoá, lao động, trí thức, quản trị…để đem tới một thành công sau cùng. Theo quan sát của riêng tôi, “tiền” vẫn là một thành tố quan trọng nhất.
Trong thời đại Internet, mọi người (kể cả tôi) vinh danh “trí tuệ”, “sáng tạo” và “mô hình phản động” (disruptors) như những động cơ khởi nghiệp sắc bén. Những ví dụ thành công thì đầy dẫy tại Silicon Valley, tại Wall Street, tại Hollywood… Tuy nhiên, nếu không có dòng tiền từ chứng khoán, từ IPO, từ M&A, từ venture capitalist, từ đủ loại quỹ đóng mở, từ các nhà đầu tư nước ngoài, từ ngân sách các chánh phủ…thì hiện tượng trăm hoa đua nở tại các điểm đến của tương lai này cũng chỉ èo uột như mùa gặt trong thời hạn hán.
Dĩ nhiên, có những thời kỳ dòng tiền chẩy sai vào chỗ trũng tạo nên bong bóng mà mọi người liên quan phải trả giá đắt, như dotcom cùa 1997, như bất động sản Mỹ của 2006, như đại suy thoái cùa 1929… Tuy nhiên, chúng ta có thể chắc chắn một điều: dòng tiền chảy đến đâu thì tăng trưởng kinh tế và ngành nghề sẽ đơm hoa nở nhuỵ. Ít nhất trong một thời gian khá dài (5 đến 10 năm). Sau đó nếu có sai trật, thị trường sẽ điều chỉnh, nhanh hay chậm tuỳ môi trường và cơ chế.
Do đó, chúng ta có thể bắt đoán thời cơ và soạn ra chiến lược kinh doanh dựa trên dòng chảy của tư bản. Như các thám tử, muốn tìm thủ phạm của các vụ án, thì cherchez la femme.
Trước khi tiếp tục, tôi xin tạm quay về những nguyên tắc và thành phần căn bản của dòng tiền thế giới để những bạn chưa nắm vững về vận hành tài chánh hiểu thêm phần sau của bài viết.
Theo McKinsey, năm 2012, lưu lượng dòng tiền chảy quanh thế giới vào khoảng 26 ngàn tỷ USD mỗi năm, hay khoảng 36% GDP của toàn thế giới. Tuy nhiên, đến năm 2025, lưu lượng sẽ tăng lên 85 ngàn tỷ USD. Hiện nay, tổng số tài sản của thế giới tính theo giá trị tài chánh (financial assets) lên đến 900 ngàn tỷ USD. Tất cả những con số trên không bao gồm những phi vụ rửa tiền, trốn thuế hay qua chợ đen etc…Có quá nhiều kênh cho dòng chảy và phần lớn không liên quan đến xu hướng đầu tư. Hai kênh lớn nhất là tiền thanh toán cho các dịch vụ và thương mại (xuất nhập khẩu, du lịch…) và tiền quay trục quanh các ngoại hối để kiếm lời bằng arbitrage (sự khác biệt trên các thị trường).
Còn lại là tiền đổ vào chứng khoán (stock), trái phiếu (bond), giấy nợ (tiền tiết kiệm hay phí bảo hiểm là loại giấy nợ của ngân hàng hay công ty insurance), chứng chỉ phái sinh (derrivatives), v.v… Hai dòng tiền chúng ta phải lưu ý đến nhiều nhất là tiền mặt của các công ty hay của cá nhân (để đầu tư trực tiếp hay gián tiếp) và tiền của các quỹ đầu tư, từ quỹ mutual có cả trăm tỷ USD tài sản đến những quỹ hedge fund nhỏ, từ quỹ đóng đến quỹ mở, từ quỹ đã niêm yết đến quỹ tư nhân. Một số tiền khá lớn cũng đã được những doanh nhân thành đạt đổ vào các quỹ từ thiện, cũng như số tiền tài trợ từ các tổ chức chánh phủ và phi chánh phủ…nhưng chúng nằm ngoài tầm phân tích của bài viết này.
Mục tiêu lý tưởng của dòng tiền đầu tư là tìm lợi nhuận cao nhất với rủi ro ít nhất trong thời gian ngắn nhất. Tuy nhiên, khó ai có thể đạt tất cà ước muốn này trong một thị trường tài chánh tự do. Do đó, các nhà quản lý quỹ thường hoạch định một chiến lược riêng của quỹ và bán dịch vụ của mình cho các nhà đầu tư thích hợp với chiến lược này.
Chẳng hạn có những nhà đầu tư giữ tiền lương hưu cho vài trăm ngàn thành viên. Họ rất bảo thủ và chấp nhận lời ít nhưng tỷ lệ an toàn phải tuyệt đối cao. Trong khi đó một tỷ phú trẻ vừa kiếm tiền khủng qua M&A của công ty khởi nghiệp sẽ sẵn sàng nhận rủi ro cao để roll the dices (đánh bạc) với các venture capitalists. Nhiều quỹ thích những thị trường mà họ thông hiểu (Âu Mỹ Nhật) cùng những công ty lớn, đa quốc…có tài chánh vững vàng. Nhiều quỹ mạo hiểm vào các thị trường mới nổi (BRICS) hay cả thị trường ngoại biên (frontier market như Việt Nam, Pakistan, Nigeria…).
Trong bức tranh vân cẩu phức tạp đó, chúng ta vẫn có thể tìm ra một xu hướng chung của các dòng tiền đầu tư. Dòng tiền này lại phân ra thành hai loại: FDI (đầu tư trực tiếp như mở cơ xưởng, mua bất động sản hay M&A) và IDI hay portfolio investment (đầu tư gián tiếp vào chứng khoán, trái phiếu, giấy nợ…). Thời hạn đầu tư của FDI thường kéo dài từ vài năm đến vài chục năm, theo tầm nhìn chiến lược của nhà đầu tư; trong khi IDI thì muốn “mì ăn liền” đôi khi chỉ vài ngày (nhưng vẫn có nhiều ngoại lệ).
Hiện nay, trong khuynh hướng “chuyển trục” của toàn cầu, phần lớn các nhà phân tích đều cho rằng dòng tiền đầu tư dưới mọi dạng đang quay lại với những nền kinh tế phát triển, đặc biệt là USA, vì các nguyên nhân sau đây:
-          Thất vọng với sự suy giảm tăng trưởng của các nền kinh tế mới nổi trong khi những yếu tố rủi ro lại gia tăng
Trong nhiều năm trở lại đây, các nhà đầu tư đã thất vọng nhiều với mức tăng trưởng của nhiều quốc gia mới nổi mà chỉ 10 năm trước, họ cho là sẽ khống chế kinh tế toàn cầu vì sức năng động và nhu cầu lớn của giới trung lưu tại những xứ này. Thất vọng lớn nhất là Trung Quốc và Ấn Độ. Cả hai siêu cường kinh tế tiềm năng này đều có những dấu hiệu mệt mỏi, bất ổn và ẩn chứa nhiều scandal kinh tế đang chờ phát hiện. Chính các nhà đầu tư người Trung Quốc và Ấn khởi động một capital flight khỏi quốc gia họ; và ảnh hưởng nhiều đến niềm tin của những nhà đầu tư ngoại khác. Ở một tỷ lệ nhỏ hơn, Brasil, Nga và Thai Lan, Indonesia, đang bị suy trầm về kinh tế vì nhiều yếu tố khác nhau, nhưng dòng tiền đầu tư bắt đầu chấp cánh bay về chân trời mới.
Những kỳ vọng lớn lao về sự đột phá của các quốc gia như Việt Nam, Pakistan, Nigeria…đã tan biến theo những bong bóng tài sản, tệ trạng tham nhũng và sự thiếu minh bạch của những công ty địa phương.
-          Kinh tế Âu Mỹ đang hồi phục và căn bản pháp trị, dân chủ, tự do…bảo đảm một mức độ an toàn hơn cho dòng tiền đầu tư
Trong khi đó, sau cuộc khủng hoảng kinh tế 2008 ở Mỹ và sau tình trạng bờ vực của đồng Euro vào 2009, nền kinh tế Âu Mỹ đã hồi phục. Năm nay, tăng trưởng GDP của Mỹ dự đoán ở mức 3.8%, tỷ lệ thất nghiệp xuống 6.1% (thấp nhất từ 2007), một kết quả khá tốt cho người khổng lồ.
Trên hết, không quốc gia nào trên thế giới có thể sánh với Âu Mỹ Nhật về hệ thống kinh tế tự do trên một căn bản pháp trị nghiêm khắc và minh bạch. Một thí dụ: bạn có thể tư hữu bất cứ bất động sản hay chứng khoán nào của Mỹ mà không cần phải minh chứng quốc tịch, mầu da, hộ khẩu, lý lịch cách mạng v.v…Quyền tư hữu cá nhân được bảo vệ đến mức linh thiêng: ngay cả cảnh sát cũng không thể bước vào nhà bạn nếu không được phép, của bạn hay của toà án.
Đây là lơi thế cạnh tranh lớn nhất của những quốc gia Tây Phương về sự thu hút dòng tiền đầu tư.
-          Lơi nhuận cùa những công ty Âu Mỹ đang gặt hái những kết quả tốt nhất từ mấy thập kỷ qua.
Thị trường chứng khoán liên tiếp lập đỉnh mới cho chỉ số Dow và Nasdaq trong suốt 5 năm vừa qua. Chỉ số Dow Jones từ 8,500 vào 2008 đã đạt 17,000 hiện nay. Nhiều người cho rằng đây là hiện tượng bong bóng đang hình thành. Tuy nhiên, phần lớn các nhà phân tích đều nghĩ rằng “lơi nhuận” của những công ty niêm yết càng tăng thì theo tỷ lệ P/E, giá chứng khoán phải tăng theo như quy luật vận hành.
Số lợi nhuận khủng của các công ty Âu Mỹ đang tăng trưởng cao nhờ những cắt giảm chi phí tối đa khi họ đối diện với khủng hoảng kinh tế tài chánh vĩ mô vài năm trước. Các lý do khác là nhờ sự thịnh vượng chung của người tiêu dùng và hiệu năng của công nghệ hiện đại (xem phần dưới).
-          Hoạt động M&A đang gia tăng mạnh nhờ khối tiền mặt dự trữ lớn của các blue chips.
Một phần của đáp số về bài toán tăng trưởng cho giá chứng khoán Âu Mỹ cũng nằm trong cơ hội M&A, nơi những con cá mập đa quốc với số tiền cash dồi dào (nhờ lợi nhuận, lãi suất ngân hàng thấp và giá cổ phiếu tăng) đang cố gắng thu tóm các địch thủ nhỏ hơn để bành trướng. Những phi vụ M&A chục tỷ đô la của các công ty dược phẩm như Pfizer, viễn thông như Verizon…hay IT như Facebook, Google, Microsoft…đã tạo nên những cơ hội kiếm lời khủng cho số đông nhà đầu tư. Dòng tiền đang đổ mạnh vào lãnh vực này để lướt sóng và đoán bắt cơ hội.
Một thí dụ của sức mạnh cash đem tới trong M&A là tiền mặt dự trữ của công ty Apple hiện nay lên đến 137 tỷ đô la. Để so sánh, quỹ dự trữ ngoại hối của Việt Nam cuối 2013 là 33 tỷ đô la (theo lời khoe của chánh phủ).
-          Công nghệ mới đem một sinh khí sáng tạo và hào hứng cho môi trường kinh doanh
Trong khi đó, môi trường kinh doanh tại Mỹ có thể được mô tả như là sống động với những thiên tài trẻ, sáng tạo, đam mê và mức độ chấp nhận rủi ro rất cao. Một cuộc viếng thăm Silicon Valley sẽ làm bạn kinh ngạc với thế giới mới của một thế hệ mới không bị ràng buộc bởi bất cứ quy luật nào. Chỉ cần một ý tưởng phản động (disruptive) cộng với sự hợp tác của vài bạn bè và một chuyên gia tài chánh, bạn có thể kiếm cả tỷ đô la trong vài năm (ở Việt Nam có thể đi tù vài năm). Những thí dụ diển hình là sự thành công của Uber (hệ thống taxi dùng xe tư nhân), Dropbox (chứa dữ liệu trong đám mây), What’s App (Facebook vừa mua lại với giá 19 tỷ USD)… Ngoài IT, các lĩnh vực y tế, sinh hoá học (biotech), dịch vụ tài chánh ngay cả công nghệ cũ …cũng đã đem nhiều tỷ đô la cho những doanh nhân của thế hệ U-40 như Kickstarter (crowdfunding), Tesla (xe sports dùng điện lực)….
15 năm trước, khi một công ty niêm yết đạt thị giá 1 tỷ đô la, các mạng truyền thông ào ạt ra tin tức và xin phỏng vấn. Ngày nay, nếu công ty bạn được “cá mập” chào mua với giá 1 tỷ đô la, có lẽ phi vụ chỉ được ghi vào một tin nhỏ ở trang phụ không quá 10 dòng.
Tiền sinh ra tiền. Khi những dòng tiền tụ về một nơi, chúng sinh con đẻ cái không biết cơ man nào mà kể.
-          Với hiệu năng đột phá nhờ công nghệ IT cùng robot,  chi phí cao cho nhân viên không còn là một rào cản lớn trong toàn bộ phí sản xuất
Sự sáng tạo của Silicon Valley đã đóng góp rất nhiều vào mọi hoạt dộng kinh tế khác trên toàn cầu, ngay cả trong những lãnh vực không liên quan, như nông nghiệp và sản xuất. Các trang trại nông thôn của Mỹ hiện nay không thiếu những công cụ như máy bay không người lái (drones) để rải giống, bón phân, sát trùng…, hệ thống tưới và thải nước do robot điều khiển, hạt giống được biến chất DNA để có năng suất cao nhất, các phần mềm phân tích thị trường và khí hậu để “timing” về thời điểm trồng và gặt, máy đo lường khí hậu, độ ẩm, báo nguy…tân tiến hơn các máy tại những phòng lab của viện đại học cách đây vài chục năm..
Các nhà sản xuất công nghiệp đã bắt đầu quay lại mẫu quốc để đầu tư, nhất là khi chi phí sản xuất tại Trung Quốc sẽ ngang hàng với Mỹ kể từ 2016 (theo McKinsey report). Dù phí nhân công Mỹ vẫn cao hơn gấp mấy lần Trung Quốc nhưng thế cân bằng đã tạo được nhờ sự sử dụng robots (40% nhân công Mỹ sẽ bị robot thay thế trong 20 năm tới), hiệu năng của công nhân Mỹ, giá năng lượng rẻ, phí vận chuyển ít và sản xuất tại Mỹ sẽ tránh được nạn ăn cắp “tài sản trí tuệ”.
-          Người tiêu thụ giàu hơn nên sẵn sàng trả một giá cao hơn đề có hàng hoá chất lượng, thương hiệu và phục vụ (customer service). 
Gần đây, Walmart, hệ thống bán lẻ cho thành phần thu nhập thấp tại Mỹ, bắt đầu quảng bá khẩu hiệu “người Mỹ dùng hàng Mỹ”. Hiện nay, hàng sản xuất Mỹ đắt hơn hàng Trung Quốc từ 10% đến 25% theo giá bán lẻ, tuỳ mặt hàng. Tuy vậy, với đa số người dân Mỹ, trả thêm ít tiền trong ngắn hạn để hưởng thú tư hữu dài hạn vẫn là một giải pháp tốt. Họ được bảo đảm về chất lượng, về thương hiệu đứng sau sự bảo đảm, về dịch vụ hậu mãi (nếu cần đổi hay sửa chữa…).
Ngay cả tại thị trường các nước mới nổi, người tiêu dùng có khả năng tài chánh cũng ưa chuộng hàng Âu Mỹ hơn. Một lý do nữa là những chất độc hại quá nhiều trong các sản phẩm từ Trung Quốc bao gồm thực phẩm, đồ chơi trẻ con, ngay cả quần áo, vật dụng tiêu dùng…Hiện trạng đang lan phủ và có thể ảnh hưởng đến danh tiếng (xấu) của các quốc gia mới nổi khác mô chép mô hình kinh doanh của Trung Quốc như Việt Nam.
Như đã trình bày, mỗi nhà đầu tư, mỗi quản lý quỹ…đều có những tầm nhìn chiến lược khác nhau. Cho nên, dòng chảy của mọi nguồn tiền rất đa dạng và khó đoán. Ông Warren Buffett gần như không đầu tư chút nào vào các công ty IT, ngay cả trong thời điểm bong bóng dotcom vào 1997 và hiện nay. Tuy nhiên, nếu doanh nhân muốn tạo một tài sản khổng lồ như Steve Jobs (Apple) vào 1975 hay Jeff Bezos (Amazon) vào 1994, họ phải biết xu hướng của dòng tiền và những cơ hội, lực chuyển ngắn cũng như dài hạn. Đi ngược với trào lưu cũng có thể mang đến những thành công bất ngờ, nhưng tỷ lệ xác suất sẽ rất thấp.
Các doanh nhân ở các nước mới nổi thường coi tài sản lớn nhất của công ty là mối quan hệ hay thế chống lưng từ vài quan chức quyền lực. Mô hình kinh doanh này bắt đầu rã đám dần dần từ Trung Quốc và khó thể xuất khẩu đến các thị trường lớn mạnh của Âu Mỹ Nhật. Dòng tiền đầu tư đã chuyển hướng và chỉ trong 2 thập kỷ tới, nếu Trung Quốc không thay đổi, nền kinh tế mà mọi người ca tụng hôm nay sẽ chỉ là một chú thích trong lịch sử.
Hai câu nói rất nhàm tai của Tôn Tử nhưng cho đến giờ này tôi vẫn thuộc nằm lòng,”biết người biết ta”  “kết quả của trận đấu đã được định đoạt trước giờ khai hoả”…
Alan Phan
Lực Chuyển 3: Công Nghệ Phản Động
Alan Phan
revolution (1)


(Bài 4 trong loạt bài Những Lực Chuyển Của Hai Thập Kỷ Tới ). Link
7 July 2014
Hiện nay một chữ được hâm mộ khắp vũ trụ kinh tế tài chánh toàn cầu là “phản động”, dịch thoáng từ Anh ngữ: disrupt (verb), disruptor (noun) hay disruptive (adjective). Disruptor thực ra là kẻ “thọc gậy bánh xe”, người phản nghịch…gây ra tình huống mới rất disruptive….cho sự ổn định của hệ thống, của cơ chế, của tổ chức, của lối kinh doanh bình thường, cổ truyền…Tóm lại, một thế lực thù địch có hành vi phản động muốn phá hoại trật tự.
Trong những road shows gây quỹ, trên thị trường chứng khoán, tại các mạng truyền thông…chữ phản động được đề cao như là một thành tích và tài sản quý giá nhất của bất cứ doanh nghiệp nào. Hai mươi năm trước, mọi công ty đều cố gắn nhãn dotcom sau tên gọi; rồi sau đó là e- hay i-, rồi là social network, là mobile platform, là IT cloud …Bây giờ, phản động là lời khen tốt nhất.
Nguyên lý của phản động
revolution


Thực ra, lịch sử thế giới luôn tạo tiến bộ bằng hành vi phản động. Những cuộc cách mạng bắt đầu bằng triết thuyết phản động, tiến hành bởi những tổ chức phản động…cho đến khi nắm được chính quyền. Sau đó, kẻ nào chống lại “cách mạng” đều là phản động.
Lịch sử kinh tế cũng diễn biến tương tự. Một hay nhiều công ty sẽ đề xướng một mô hình kinh doanh mới lạ, khác hẳn với cách kinh doanh truyền thống. Sau khi họ thuyết phục được người tiêu dùng, chiếm lĩnh thị trường, thì họ lại phải đối phó với những disruptors mới, tìm cách thay đổi cuộc chơi (game changers). Họ phải biết điều chỉnh…nhưng thường là bị tiêu diệt bởi các đối thủ nhỏ hơn, trẻ hơn, nhanh lẹ hơn, sáng tạo hơn…
Vài thí dụ. Vào thập kỷ 70’s, IBM thống lĩnh thị trường máy tính điện tử. DEC (Digital Equipment) nghĩ là chỉ nên nhắm vào thị trường ngách là máy tính cỡ trung cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Thành công tuyệt đỉnh trong thập kỷ 80’s, DEC đã bị Apple và các nhà sản xuất PC xóa tên trên địa bàn máy tính cá nhân. IBM và Apple đã nhanh chân đổi mới khi mô hình phản động chuyển qua tablet, smart phone và điện toán đám mây…nhưng các disruptors lớn nhỏ vẫn đang tìm cách hạ bệ những ông khủng long này. Bọn phản động còn đặt trong tầm nhắm các đại gia như Google, Facebook, Amazon, Boeing, GM, Toyota, Samsung…Định luật này được hiểu như là huỷ diệt để sáng tạo (creative destruction).
Ngay chính Microsoft đã đẩy IBM qua một bên với lối tiếp thị phần mềm trực tiếp cho các nhà sản xuất PC; Amazon đã chôn vùi những hệ thống bán sách lớn nhất thế giới như Border, Dalton, Barnes & Nobles; Tesla đang thử thách sự thống trị thế giới ô tô của Toyota, GM, Ford; hay Skype đã đảo lộn trật tự viễn thông của AT&T và những đại công ty thế giới; và cả ngàn disruptors khác đang tranh nhau để trở thành “the next best thing”.
Các công ty phản động
Trong 30 năm qua, có đến 47% những công ty “tỷ đô” khởi nguồn từ con số không 15 năm trước đó. Chưa bao giờ lịch sử kinh tế toàn cầu lại có sự thay đổi ngôi vị, thứ hạng, tài sản…nhanh như vậy. Công nghệ phản động đã là động cơ chính turbocharged những cuộc cách mạng mới này.
Mạng truyền thông CNBC bắt đầu lên danh sách Top 50 Disruptors hàng năm, được chia sẻ bởi các nhà đầu tư nhiều hơn Top 500 người giàu nhất của Forbes hay Fortune. Các nhà bình luận, phân tích gia…theo dõi và đánh giá những hoạt động của các disruptors hàng ngày. Và quan trọng hơn hết, dòng tiền đầu tư cũng như venture capital đang ào ạt đổ vào kênh này, hy vọng sẽ bắt đúng một siêu sao như Facebook, Alibaba, Google…
Các disruptors đang thay đổi cuộc chơi đã đạt thị giá hơn tỷ đô la gồm có những tên tuổi quen thuộc như Twitter, DropBox, Pinterest, AirBnb, Uber, Square…Tuy nhiên, các nhà đầu tư đang sục sạo đi tìm những viên kim cương lẫn trong đá sỏi. Những disruptors có tiềm năng trên nhiều danh sách là DocuSign, Genband, GiamMedia, Xirrus, Dataminr, TransferWise, RedFin, Kickstarter…Bạn chỉ cần tìm ra một “siêu sao” trong đám đông này là bảo đảm sự an toàn tài chánh của cá nhân và gia đình bạn trong nhiều thập kỷ.
Dù nằm trong bất cứ lãnh vực nào, các disruptors đều có thể thành công vĩ đại hay thất bại thảm thương. Ngoài từng cá nhân mỗi công ty, bạn có thể đầu tư thì giờ và tiền bạc vào ba công nghệ mà mọi người tin sẽ là nền tảng cho tương lai kinh tế trong vài thập kỷ tới. Đó là “3D Printing”, “Robotic Command System” và “Internet of Things”. Mỗi công nghệ đều được ước tính là sẽ mang lại khoảng 1 ngàn tỷ đô la trong 10 năm tới và có thể nhiều hơn.
3D Printing
Sau Internet, có lẽ đây là công nghệ có khả năng thay đổi hiện trạng kinh tế toàn cầu. Nó được so sánh với sự phát minh của máy in Guttenberg, của động cơ xe hơi, và ngay cả của lửa. Mọi cách thức vận hành một nhà máy sản xuất sẽ biến dạng sâu rộng.
Lấy ví dụ chúng ta muốn sản xuất đinh vít. Theo mô hình hiện tại, mỗi cỡ đinh phải được làm khuôn, rồi sản xuất ra cả trăm ngàn đơn vị và phải tồn kho, vận chuyển, kiểm soát thật tốn kém cho từng chặng sản xuất. Một nhà máy làm động cơ phản lực bên Mỹ chỉ cần khoảng 1 ngàn đơn vị cho 3 cỡ đinh và phải mua qua các nhà nhập khẩu phân phối từ Trung Quốc. Với máy 3D printer, nhà máy bên Mỹ chỉ cần viết hay mua lại phần mềm và tự sản xuất 3 cỡ đinh này trong 20 phút. Không những chỉ đinh vít mà tất cả cơ phận của động cơ đều có thể tự in ra và ráp nối.
Vì 3D printer có thể dùng bất cứ nguyên liệu gì, nên nhiều phòng thí nghiệm đã bắt đầu thử làm những bộ phận của thân thể, đơn giản như cơ bắp, xương, răng, mạch máu…và chỉ trong vài năm nữa, một quả thận, một lá gan, ngay cả trái tim nhân tạo…cũng có thể được sản xuất ngay trong bệnh viện theo đúng kích thước, nhu cầu cá nhân. 3D printing sẽ hiện thực bất cứ điều gì bạn nghĩ trong đầu khi coi các phim khoa học giả tưởng.
Dĩ nhiên, mặt trái của 3D printing là sự dễ dàng sản xuất những vũ khí khủng bố, khó kiểm soát được thuế và tài chánh (khi cơ xưởng của bạn nằm trong garage), nạn thất nghiệp của người lao động không có kỹ năng, và vấn đề ăn cắp bản quyền trí tuệ.
Hiện nay, một máy 3D printer đơn giản cho người tiêu dùng chỉ tốn có 2 ngàn đô la và giá này trong tương lai còn xuống thấp hơn một chiếc IPhone nhờ số lượng sản xuất.
Robotic Command System (RCS)
Khi nói đến robots, mọi người hình dung đến những người máy với chân tay cứng ngắc, và những tác động giống như con người. Thực tình, robots trong tương lai chỉ là những máy tính lớn nhỏ với các phần mềm điều khiển ngay tại chỗ hay từ xa. Robots dùng trong dây chuyền của cơ xưởng lắp ráp ô tô chỉ là những “cánh tay” liên tục di chuyển vật liệu rồi hàn hay vặn vít. Tuy nhiên, trong tương lai gần, robots sẽ được trang bị nhiều chức năng hơn và theo ước tính của McKinsey, 40% nhân công trong các nhà máy sản xuất công nghiệp sẽ bị robots thay thế trong 20 năm tới.
Ứng dụng phổ thông nhất hiện nay của RCS là máy bay không người lái (drones), đang được quân đội Mỹ điều động khắp các mặt trận. Giá bán của drone đã xuống khá thấp để những công ty thương mại hay cá nhân có thể sở hữu; nhưng chính phủ Mỹ vẫn chưa soạn thảo xong luật kiểm soát về sự an toàn hay việc lợi dụng drones trong các dịch vụ phi pháp (do thám của tư nhân hay vận chuyển ma tuý).
Google cho biết sẽ bán ra thị trường xe hơi không người lái vào khoảng 2017. Sony cho ra đời cách đây vài năm một robot tên Asimo biết làm các công việc vặt trong nhà như tưới cây, bưng nước, ca hát nhảy múa…còn hãng Tosy của Việt Nam thì cho ra đời một robot biết đánh ping pong. Người tiêu dùng Mỹ hiện đang chuộng loại máy tự động chùi dọn nhà cửa bằng cách hút bụi thảm hay chùi sàn.
Quan trọng hơn, robots có thể thay người trong những việc nguy hiểm như gỡ bom mìn, hay độc hại như xử lý phóng xạ hay môi trường khắc nghiệt của nóng và lạnh (dương hay âm ngàn độ C)…Trong ngành y khoa, những robots siêu vi được tiêm vào bệnh nhân để dò tìm hay chữa trị những biến thái trong mạch máu và các bộ phận khác.
Trong tương lai, khi artificial intelligence hoàn thiện hơn nữa thì robots sẽ hiện diện cùng khắp xã hội và chung sống hoà bình cùng nhân loại. Nhưng chỉ trong vòng 20 năm tới, chúng ta sẽ chứng kiến một cuộc cách mạng về cách vận hành sản xuất, cung cấp dịch vụ và nhiều ứng dụng do robotics đem lai.
Internet of Things (IOT)
 
Nói nôm na, IOT là việc sử dụng Internet và phần mềm để các máy trao đổi thông tin rồi quyết định vận hành mà không cần tương tác với con người.
Ví dụ một ngôi nhà thông minh sẽ biết là bạn cần máy sưởi hay máy lạnh vào những giờ giấc nào trong ngày và tự động xử lý. Tủ lạnh thông minh sẽ biết là bạn cần sữa hay bánh mì hay trái cây gì…và tự liên hệ với máy tính của siêu thị để đặt hàng. Chiếc xe thông minh sẽ thông báo là chỗ đậu xe nào trong thành phố còn trống; do đó bạn không phải chạy xe lòng vòng tìm chỗ đậu. Một phòng mạch thông minh sẽ khám bệnh qua các sensors cài sẵn trên điện thoại của bệnh nhân, ngay cả khi nạn nhân chưa cảm thấy bệnh chứng.
Ở bình diện rộng hơn, một thành phố thông minh sẽ tự tưới cây, lên đèn ban đêm, điều phối traffic, báo động về động đất hay lửa hay lụt, cũng như điều hành xe rác, xe quét đường…đo lượng ô nhiễm, lượng chất thải ra sông biển…để cùng xử lý với các hệ thống máy tính khác.
Trong kinh doanh, một công ty thông minh sẽ tự xuất hoá đơn, thu và trả tiền, lập chương trình giao hàng, kiểm soát toàn bộ supply chain, lập kế hoạch bảo trì máy móc và xe cộ, ngay cả quản trị hồ sơ nhân viên và các chương trình phúc lợi. Trong nông nghiệp, hệ thống máy tưới cây tự động, gieo giống hay bón phân, trồng và gặt theo thời điểm của khí hậu và thị trường, chương trình chăm nuôi và cho gia súc ăn…là những thay đổi đang diễn ra sâu rộng tại Mỹ.
Libelium, một công ty tiền phong trong IOT, ước tính là đến 2020 sẽ có 50 tỷ máy móc kết nối trực tiếp với nhau để điều hành sinh hoạt hàng ngày của nhân loại.
*******
Nếu các bạn bắt đầu vào ngày hôm nay, tạo cho mình kỹ năng chuyên sâu và kiến thức cập nhật về một trong ba công nghệ này; rồi tìm cách làm việc hay kinh doanh vào các hoạt động liên quan; tôi tin chắc là tối thiểu các bạn sẽ trở thành triệu phú đô la, sớm hay chậm tuỳ kỹ năng, lòng kiên nhẫn và ý chí theo đuổi đến cùng. Bạn có thể là một nghiên cứu sinh, một chuyên viên, một nhà đầu tư  hay chỉ một nhà bán lẻ phân phối hàng hoá và dịch vụ. Hãy bắt đầu bằng cách lên các search engines để tìm biết tất cả kiến thức “miễn phí” trên mạng trước đã.
Công nghệ phản động mới sẽ tạo một cuộc cách mạng tận cùng gốc rễ của truyền thống. Tham gia cuộc cách mạng này là bảo đảm cho chính bạn và gia đình một vị trí vững chắc trong xã hội.Cứ hỏi các thế lực phản động 70 năm về trước khi họ vào rừng để bắt đầu sự nghiệp. Một khác biệt: cuộc cách mạng này sẽ diễn ra nhanh chóng hơn, tại những thành thị đã phát triển…và sẽ không đổ máu.
Và luôn nhớ rằng, “những cuộc cách mạng lớn mạnh nhất bắt đầu rất nhẹ nhàng, ẩn che trong bóng tối” (The greatest and most powerful revolutions often start very quietly, hidden in the shadows – Richelle Mead)
Alan Phan
PS: Các bạn vào link này để thấy công nghệ robotics đã đi xa đến đâu?
Jibo hiện được trình bán tại Mỹ chỉ với giá $499. (10 triệu VND).
Lực Chuyển 4: Gia Công Trong Sản Xuất Công Nghiệp
(Lợi Thế Cạnh Tranh Về Nhân Công Rẻ Của Các Quốc Gia Mới Nổi Sẽ Biến Dạng)
Alan Phan
foxconn factory


(Bài 5 trong loạt bài Những Lực Chuyển Của Hai Thập Kỷ Tới ). Link:
1 August 2014
Bắt đầu vào giữa thập niên 80’s, tiền FDI bắt đầu dồn dập đổ vào Trung Quốc với 2 mục tiêu chính: lợi dụng phí sản xuất thấp của Trung Quốc để tạo lợi thế giá rẻ cho sản phẩm (outsourcing) và chiếm giữ vị thế khởi đầu cho một thị trường lớn với 1.3 tỷ dân số (market position). Kết hợp với bản chất doanh thương truyền thống của người dân Trung Quốc, dòng tiền FDI này là hai lý do chính đã tạo một sóng thần kỳ diệu và chỉ 25 năm sau, thế giới bắt đầu nói về một siêu cường kinh tế có thể đuổi kịp Âu Mỹ trong vòng 2 thập kỷ tới.
Công thức chiến lược của Trung Quốc cũng không mới mẻ gì. Bắt đầu là Nhật rồi Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore…các nền kinh tế này đã hoá rồng một cách khá đơn giản: lợi dụng đầu tư, công nghệ và thị trường xuất khẩu từ Âu Mỹ, cộng hưởng với nhân công rẻ, đất đai, thuế vụ…khuyến mãi từ các chánh phủ địa phương; sản xuất hàng loạt theo gia công, hàng chất lượng rẻ như quần áo, đồ gia dụng…, để tạo thị phần rồi gia tăng hiệu năng để tiến lên những sản phẩm giá trị cao hơn. Với bản tính cần cù và văn hoá chắt chiu, Nhật, Hàn, Đài Loan…bắt đầu cạnh tranh trực tiếp với những đại gia Âu Mỹ trên sân quốc tế trong những công nghiệp vốn là đặc quyền của Âu Mỹ như ô tô, điện tử, thiết bị công nghệ…
Sự thành công của Trung Quốc trong giai đoạn đầu ấn tượng hơn nhờ số lượng nhân công và tiến trình toàn cầu hoá của nền kinh tế tài chánh. Một ngôn từ bắt đầu thông dụng khi mô tả Trung Quốc như là “cơ xưởng của thế giới”. Nhiều quốc gia mới nổi khác cũng bắt chước và sao y chiến lược gia công này gồm Việt Nam, Indonesia, Bangladesh, Ấn Độ…
Vấn nạn của chiến lược gia công
Tuy nhiên, công thức phát triển này đang gặp 2 vấn nạn quan trọng: sự yếu kém về sáng tạo và kiến thức trong những chế độ còn bị gọng kềm độc tài và tư bản hoang dã kiềm chế; và một lực chuyển đang thay đổi ngành sản xuất công nghiệp vì “nhân công rẻ” không còn là một lợi thế cạnh tranh hữu hiệu nữa.
Một tín hiệu khá rõ ràng trên thị trường là khi Walmart, chuỗi bán lẻ chuyên vào người thu nhập thấp tại Mỹ, bắt đầu ào ạt quảng bá khẩu hiệu “Buy American” (người Mỹ mua hàng Mỹ). Nhưng phải đợi đến khi Boston Consulting Group (BSG) làm một khảo sát với đầy đủ số liệu thống kê vào 2013, các chuyên gia mới được thuyết phục hoàn toàn. Trong cuộc khảo sát này, Mexico có chi phí sản xuất công nghiệp rẻ nhất và Mỹ đứng hàng thứ 7 sau Trung Quốc. Một báo cáo của Standard Chartered Bank (China) xác nhận thực tại này và cho biết hiện nay, chi phí sản xuất của Trung Quốc chỉ rẻ hơn Mỹ có 5%. Theo đà tiến của hiện trạng, giá sản xuất của hai nước vào 2016 sẽ coi như bằng nhau.
Ngoài chi phí sản xuất, những khoản tốn kém “mềm” khác làm chi phí thực sự tại Trung Quốc có thể cao hơn nhiều.  Đó là nạn ăn cắp bản quyền trí tuệ, cỗ máy hành chánh nặng nề, pháp luật rừng rú, những bất ngờ về “phí bôi trơn”. Nhìn thấy vấn đề cả 5, 7 năm về trước, các nhà đầu tư FDI lớn từ Mỹ, Nhật, Hàn…bắt đầu ngưng những dự án outsourcing mới ở Trung Quốc và quay đầu về quê hương hay tìm những điểm đến thuận lợi hơn.
Dĩ nhiên, những nhà máy chuyên sản xuất cho thị trường nội địa hay các hàng hoá rẻ tiền không xứng đáng với những đầu tư lớn sẽ vẫn được duy trì và phát triển. Các loại xưởng mà nhân công rẻ vẫn là yếu tố quan trọng như áo quần, giầy dép, đồ tiêu dùng, gia công điện tử dây chuyền, hay gây ô nhiễm nặng, hay dùng công nghệ xưa cũ…dời đến Việt Nam, Bangladesh, Campuchia…Những sản phẩm trí tuệ có một mức lợi nhuận cao và đòi hỏi một chất lượng tối ưu thì không còn nhu cầu về giá cả từ “nhân công rẻ”.
Những thay đổi khiến giá nhân công rẻ không còn quan trọng
Có nhiều lý do khiến chi phí sản xuất tại Mỹ bắt đầu rẻ như Trung Quốc; mặc dù chi phí nhân viên của Mỹ vẫn tiếp tục leo thang trong thập kỷ vừa qua.
Trước hết phải nói đến sự tiến bộ gia tốc của công nghệ cao. Ngành IT và sinh học mới bắt đầu khai triển sâu rộng artificial intelligence (AI- sự thông minh giả định?) tạo nên những thế hệ mới về robots rất đa năng. Ngày xưa, các robots tại xưởng máy thường chỉ biết hàn hay vận chuyển vật liệu lắp ráp. Ngày nay, robots đã điều khiển được cả một dây chuyền sản xuất và biết start hay stop khi có sự cố hay cần thay đổi quy trình.
Tôi đã sửng sốt khi nhìn một video về một kho hàng lý tưởng đang thử nghiệm và lên kế hoạch của Amazon rộng gấp 3 lần một sân vận động, chứa đến gần 1 triệu mặt hàng (SKU). Nơi đây, một đội ngũ khoảng 5 ngàn robots không người lái, tự động chạy đi lấy từng món hàng theo đơn đặt hàng gởi đến từ máy kiểm soát trung ương. Mỗi ngày (24/7) 5 ngàn cỗ robots này hoàn tất khoảng 600 ngàn đơn hàng. Toàn kho, chỉ có 12 nhân viên IT lo việc điều hành và bảo trì.
Khi đối diện với thử thách về lương nhân viên cùng với các yếu tố lao động chính trị tại Thẩm Quyến, hãng Foxconn chuyên ráp IPhone cho Apple doạ sẽ đầu tư mua 1 triệu robots trong 5 năm tới. Không chỉ doạ xuông, Foxconn đã vận hành 50,000 robots mới trong năm 2013 và 30,000 nhân viên của xưởng bắt đầu giảm nhiều yêu sách.
Thêm vào việc sử dụng đại trà robots trong cơ xưởng, vận hành của công nghiệp sản xuất sẽ phải thay đổi theo thị hiếu người tiêu dùng. Trước đây, những hàng giá rẻ sản xuất hàng loạt với số lượng khủng để giảm giá bán không còn hấp dẫn với tầng lớp có tiền khắp thế giới, muốn mua hàng thật đặc thù để tạo phong cách. Sự phát sinh những thị trường ngách với những sản phẩm đắt tiền, thiết kế tân tiến, thay đổi thường xuyên… (như hàng hiệu) được ưa chuộng hơn.
Thay vì những dây chuyền quy mô, cơ xưởng trong tương lai sẽ nhỏ hơn, điều khiển bằng hệ thống AI tạo ra nhiều mẫu mả với số lượng nhỏ hơn. Đây là một quy trình mà việc đầu tư lớn vào công nghệ 3D printing hay Internet of things quan trọng hơn là diện tích đất đai hay số nhân công cho cơ xưởng.
Sau phí lương nhân viên mà công nghệ robotics đang hoá giải, giá năng lượng là một thành tố quan yếu trong chi phí sản xuất. Với những tiến bộ bất ngờ trong việc tìm kiếm dầu hoả và khí đốt qua địa phiến shale, International Energy Agency tiên đoán là Mỹ sẽ thành một quốc gia sản xuất năng lượng lớn nhất thế giới vào năm 2020. Cộng thêm lợi thế vận chuyển trong nội địa, hiện nay giá năng lượng tại Mỹ rẻ hơn Trung Quốc trung bình khoảng 12%.
Ngoài dầu khí, Mỹ còn giữ lợi thế lớn về thuỷ lợi. Mỹ có dung lượng nước cao hơn Trung Quốc gấp 4.6 lần với giá cho công nghiệp rẻ hơn 8%. Trước đây, các nhà đầu tư FDI tại Trung Quốc thường được khuyến mãi đất bãi cho cơ xưởng với giá gần như cho không trong vài chục năm. Vì sự khiếu kiện của quá nhiều nông dân bị cướp đất, các nhà dầu tư FDI bây giờ phải mua đất gần bằng giá thị trường. Mỹ giữ lợi thế rất lớn trong lĩnh vực này vì đất sử dụng được của Mỹ lớn gấp 5.3 lần Trung Quốc.
Vào thập niên 70’s, Mỹ bị cú “shock” lớn từ Nhật khi giá và chất lượng sản xuất ô tô cùng điện tử bị Nhật qua mặt. Các con khủng long Mỹ tỉnh thức và GM, Ford, GE, Dow, IBM…khởi động một chương trình tái cấu trúc để gia tăng hiệu năng cho nhân viên không ngừng nghỉ. Sau 30 năm, họ đã thành công ấn tượng. Ngày nay, hiệu năng nhân công Mỹ được xếp vào hàng thứ 7 trên thế giới, trong khi Trung Quốc đứng hạng 29. (Cho những ai tò mò, Việt Nam nằm ở hạng 75 – Xem: http://reports.weforum.org/global-competitiveness-report-2012-2013/#)
Nhờ hiệu năng nhân viên và công nghệ kết nối các mạng lưới phân phối, chi phí để điều hành hệ thống logistics cũng rẻ hơn Trung Quốc khoảng 6% và chí phí vận chuyển rẻ hơn 4%.
Sau cùng, nhờ dòng tiền đầu tư quay đầu về Âu Mỹ tìm chỗ an toàn (kể cả capital flight từ Trung Quốc), và chánh sách giữ lãi suất thấp của cơ quan Fed (US Federal Reserve), các doanh nghiệp Mỹ đang hưởng những khoản vay dài và ngắn hạn vô cùng thuận lợi. Nhìn vào thị trường tài chánh của Mỹ, công cụ mà những CFO nắm trong tay nhiều vô số kể, do đó, đòn bẫy tài chánh của các doanh nghiệp Mỹ đã được vận hành tối đa, tạo nên một lợi thế cạnh tranh lớn với các thị trường mới nổi, kể cả Trung Quốc. Ngoài sự thông dụng của cổ phiếu và trái phiếu, công ty Mỹ dễ dàng tiếp cận ngân hàng về tín dụng cho dòng tiền lưu chuyển hay quỹ công và tư cho những dự án đầu tư mới. IPO và M&A là 2 lĩnh vực khá “hot” hiện nay.
Thử thách của lực chuyển này
Tóm lại, theo đà chuyển hiện nay thì những lợi thế về giá cả trong công nghiệp sản xuất của các quốc gia mới nổi sẽ biến mất.
Tuy vậy, không có nghĩa là những nhà máy gia công củ kỹ hiện tại sẽ phải dẹp tiệm. Những đầu tư cho nhà máy hiện đại với công nghệ cao rất tốn kém và tại các quốc gia nghèo, mới nổi; dòng tư bản nội địa không đủ sức để vượt qua rào cản này. Vả lại, nhu cầu của đa số người tiêu dùng tại đây vẫn còn yếu kém và đơn giản, cần giá rẻ hơn là phong cách. Một yếu tố khác là càng ngày chi phí bảo vệ môi trường tại các quốc gia phát triển càng lên cao. Cho nên, những dự án gây nhiều ô nhiễm vẫn được các nhà tư bản đẩy đến những quốc gia sẵn sàng mở cửa (hay mở phong bì) để đón chào các loại đầu tư này.
& & & &
Tất cả những phân tích về trào lưu trên dẫn đến một kết luận: nếu bạn đang kinh doanh trong công nghiệp sản xuất mà chính yếu là gia công tại các quốc gia mới nổi; bạn sẽ thấy những cuộc cạnh tranh khốc liệt trong thập kỷ tới vì hiện nay nguồn cung đang vượt khá xa nguồn cầu. Muốn cạnh tranh hữu hiệu trên biển lớn, bạn phải đầu tư vào công nghệ cao hiện đại. Hai yếu tố cốt lõi: sự sáng tạo và tiền vốn ban đầu. Nếu không đủ năng lực cạnh tranh, có lẽ bạn phải suy nghĩ về những ngành nghề như IT, nông nghiệp cao trong các thị trường ngách, dịch vụ du lịch, tài chánh hay an sinh (y tế, giáo dục, an ninh…).
Các đại gia đa quốc đang bắt đầu làn sóng đầu tư mới vào công nghiệp sản xuất. Dow Chemicals, Caterpillar, GE, Ford, Tesla…hay BMW, Nestle, Sony, Panasonic…đều chọn Mỹ cho phần lớn những cơ xưởng mới. Apple cũng đang lên kế hoạch để đem dòng sản phẩm về Mỹ sau khi Google vừa thông báo là toàn bộ Nexus Q sẽ “made in America”.
Don’t Cry For Me, Argentina
Có nhiều bạn đọc muốn biết suy nghĩ của cá nhân tôi về chương trình biến Việt Nam thành một quốc gia công nghiệp vào năm 2020. Theo phân tích, công thức chiến lược này đã được copy từ Trung Quốc và đem ra áp dụng cho Việt Nam đã hơn 10 năm qua. Cho đến nay, chắc ai cũng có thể nhận ra kết quả.
Từ 5 năm nay, Trung Quốc đang loay hoay tháo gỡ những vướng mắc gây ra bởi mô hình phát triển này (ô nhiễm môi trường trầm trọng, tạo ra cách biệt giàu nghèo nhiều bất ổn, suy sụp văn hoá an sinh truyền thống, kiểm soát bởi nhóm tư bản đỏ, đe doạ bởi đủ loại bong bóng tài sản và nợ xấu, không tạo được sự sáng tạo và kiến thức cần cho nền kinh tế mới…và nhiều nữa). Họ đã không thành công và mọi chuyên gia đang tiên đoán về một suy thoái luỹ tiến.
Có thể lãnh đạo Việt Nam khôn ngoan hơn các bậc thầy, tôi không biết. Nhưng nếu không có thay đổi cốt lõi cơ chế bằng hành động, tôi không muốn nấn ná ở lại quê hương nhìn kết quả sau cùng của trận đấu. Tôi sẽ đợi các bạn bên bờ kia bờ Thái Bình Dương, cùng làm ly cà phê để suy ngẫm về định mệnh và có lẽ sẽ cùng nhau hát bài .… Hận Đồ Bàn?
Alan Phan
Lực Chuyển 5: Năng Lượng và Khoáng Sản
Alan Phan
dầu khí Mỹ


8/8/2014
(Bài 6 trong loạt bài Những Lực Chuyển Của Hai Thập Kỷ Tới ). Link:
Trước Thế Chiến 2 cho đến ngay hiện tại, dầu khí là năng lượng tối cần để vận hành cỗ máy kinh tế. Trước khi trao trả độc lập cho khối vương quốc Á Rập, đế chế Anh đã gần như vẽ lại bản đồ của mọi quốc gia trong vùng để bảo đảm sự cung cấp vững bền về dầu khí cho mình, qua những chánh quyền “dễ bảo”. Sau khi đế chế Anh bị suy tàn, tư bản Mỹ thay thế và tiếp tục chính sách ngoại giao tại nhiều vùng dựa trên “lợi ích dầu khí” cho đế chế mới của mình.
Ngay sau dầu khí, nhiều loại khoáng sản là thô liệu không thể thay thế trong quy trình sản xuất. Âu châu đã thiết lập thuộc địa tại khắp thế giới (châu Phi, châu Á, châu Mỹ La tinh) để khai thác quặng mỏ, nguyên liệu…đem về cho mẫu quốc.
Mang cùng tham vọng xây dựng một đế chế cạnh tranh, Nga dùng tài nguyên thiên nhiên sẵn có của xứ sở để thiết lập khối Cộng Sản, tạo nên một đối đầu gay gắt với quyền lợi tư bản Mỹ, trong cuộc “chiến tranh lạnh” kéo dài hơn 44 năm.
Có thể nói trong thời cận đại, lịch sử nhân loại và định mệnh nhiều quốc gia đã bị “nắn bóp” trực tiếp bởi dầu khí và khoáng sản.
Câu chuyện năng lượng
Cũng vào đầu thời kỳ này, kinh tế của các quốc gia Tây Phương đã phát triển mạnh mẽ nhờ giá nguyên liệu rẻ mạt. Cho đến năm 1972, khi OPEC (các quốc gia xuất khẩu dầu) tiến hành liên minh, tạo nên cartel dầu khí, gây áp lực và khủng hoảng cho những quốc gia đã phát triển. Cú shock của OPEC lại thay đổi địa chính trị thế giới, buộc Mỹ phải buông những tiền đồn chống Cộng tại Đông Dương, Cuba, châu Phi …để dồn nỗ lực kiểm soát lò lửa ở Trung Đông và Nam Mỹ.
Mặc cho những cố gắng, mặc cho chiến thắng trong “cuộc chiến tranh lạnh” với Cộng Sản, đế chế Mỹ lao đao với chuyện nhập khẩu dầu khí và những đe doạ thường trực từ mọi bất ổn tại các quốc gia OPEC. Tuy nhiên, giải pháp đã hé lộ.
Công nghệ mới từ việc khai thác dầu khí qua địa phiến shale đến những nguồn năng lượng sạch như mặt trời (solar), điện gió (wind), pin (battery), nước biển (ocean water and waves), nguyên tử (nuclear)…tiến triển vượt bực. Hiện nay, lượng tiêu thụ năng lượng nhiều nhất vẫn là nhu cầu vận chuyển, từ phi cơ tàu bè đến ô tô xe tải.
Hai công nghệ đang cố gắng thay đổi cốt lõi của nhu cầu này. Thứ nhất, hãng Tesla phối hợp cùng Panasonic đã bắt đầu xây dựng một siêu nhà máy (gigafactory) với số vốn đầu tư gần 9 tỷ đô la có công suất 50 gigawatt Gwh và tham vọng cung cấp đủ battery cho khoảng 800,000 ô tô điện trên toàn cầu. (Xem bài về Gigafactory của Tesla trên GNA) Thứ hai, Toyota hứa hẹn sẽ tung ra thị trường chiếc FCV chạy bằng hydrogen fuel cell vào 2015 với giá khoảng $90,000. Với số lượng tiêu thụ gia tăng, Toyota hy vọng sẽ hạ giá bán còn phân nửa trong 5 năm tới. Daimler, Honda, GM, Nissan… đều đã lên kế hoạch sản xuất xe và bus bằng hydrogen để cạnh tranh với Toyota.
Một công nghệ khác là ô tô hoàn toàn sản xuất bằng composite materials do BMW vừa tung ra. Nếu các công nghệ mới này thành công thì lượng tiêu thụ dầu khí còn giảm rất nhiều tạo nên một hướng đi khác cho nền kinh tế tài chánh toàn cầu.
Theo sự tiên đoán của International Energy Agency (IEA), Mỹ sẽ là quốc gia có số lượng dầu khí lớn nhất thế giới vào 2017 và có khả năng xuất khẩu qua châu Âu để gỡ rối dùm đồng minh đang chịu gộng kềm ép giá và bóp chẹt tiêu thụ từ Nga. Biểu hiện rõ ràng nhất là giá dầu thế giới đã không hề tăng khi ISIS (phiến quân Sunni ở Iraq) chiếm đóng vài ba nhà máy lọc dầu lớn của Iraq hay khi Israel và Hamas gây chiến ở Gaza.
Khi vũ khí dầu khí đã bị Mỹ vô hiệu hóa thì kinh tế cũng như chính trị toàn cầu sẽ mang nhiều thay đổi sâu rộng. Chỉ trong vòng 5 năm sắp đến, vị trí chiến lược của Trung Đông hay sức mạnh tài nguyên của Nga sẽ không phải là vấn đề “sống chết” của tư bản và kinh tế Mỹ. Nguồn lực của Mỹ, mềm hay cứng, sẽ đổ vào những lĩnh vực quan trọng hơn để cạnh tranh trong nền kinh tế mới: kiến thức, công nghệ, dịch vụ, bản quyền, giải trí, tài chánh, an sinh, quân sự. Nơi đây, bộ não của nhân viên được ưu đãi hơn cơ bắp.
Khoảng cách trong xã hội Mỹ không còn là chuyện giàu nghèo mà là khoảng cách trí tuệ giữa hai thành phần công dân. Nhân rộng lên, khoảng cách giữa một quốc gia thịnh vượng và một nghèo hèn là mức dộ dân trí, văn hóa và văn minh.
Nguồn khoáng sản
Thực trạng chính về nguồn khoáng sản là sự đa dạng của cả ngàn loại thô liệu, từ đá phiến đất sét hay kim loại (sắt vàng bạc…) đến những khoáng sản hiếm quý…Cho nên công nghệ dù có tiến bộ nhanh đến đâu cũng khó thể bắt kịp nhu cầu tiêu thụ của kỹ nghệ và người tiêu dùng. Một ước tính của Hội Đồng Khoáng Sản Úc là mỗi người chúng ta đã sử dụng khoảng 600 tấn khoáng sản trong 50 năm sinh hoạt.
Do đó, dù giá khoáng sản có lên xuống theo cung cầu và đầu cơ, khuynh hướng chung vẫn là gia tăng trong vài ba thập kỷ đến; không như giá dầu khí.
Tuy nhiên, nguồn cung cấp khoáng sản đang đối diện với hai vấn nạn: một, những quặng mỏ, khu trữ.. của khoáng sản đã bị khai thác quá nhanh quá nhiều; bây giờ muốn khai thác thêm, phải đào xới sâu rộng hơn, ngay cả trong lòng đại dương. Chi phí sẽ leo thang cao ngất. Hai, càng khai thác sâu rộng thì môi trường càng bị ô nhiễm và với giá bán hiện nay, chi phí làm sạch cũng như điều trị bệnh tật do ô nhiễm gây ra, về lâu dài, có thể cao hơn giá bán thu về.
Do đó, nhiều quốc gia khôn ngoan (Mỹ. Trung Quốc, Úc…) đã đầu tư khai thác khoáng sản ở các nước kém phát triển, lợi dụng lòng tham ngắn hạn của các chính phủ bị nhóm lợi ích chi phối, trong khi dự trữ quốc gia của họ vẫn nằm yên trong lòng đất, đợi ngày nhu cầu khẩn cấp bắt buộc.
Cách mạng của chất liệu mới
Trong khi đó, các nhà sáng chế đang bù đầu theo đuổi những chất liệu có thể thay thế một số khoáng sản này. Đứng đầu là ACM (advanced composite materials) có thể bao gồm từ high-fiber resin đang dùng trong công nghệ không gian và quân sự; cho đến các tiếp liệu y tế, vật dụng thể thao, Một khuynh hướng đang phát triển mạnh là high carbon fiber và electrospun nanofibrous; đôi khi phối hợp với bio materials (chất sinh học).
Tất cả vật liệu sáng tạo trên đều có đặc tính là bền bỉ (không rỉ sét), nhiều cường lực (lực đẩy và nén rất cao); trọng lượng nhẹ(quan trọng trong việc tiết kiệm năng lượng); và dễ uốn nắn (ứng dụng cho nhiều thiết bị như TV với màn hình uốn cong)…
Rào cản lớn nhất là giá hiện nay của các ACM hay carbon nano khá cao…khoảng $2 đến $30 mỗi kg; trong khi nhôm (aluminum) chỉ hơn $2 mỗi ký. Tuy nhiên, với số lượng sản xuất càng nhiều, gia thành sẽ hạ và nhiều ứng dụng trong công nghệ sẽ sử dụng ACM tràn khắp trên mọi mặt bằng giá cả.
Hàng hiệu và chất lượng với lợi nhuận cao đã bắt đầu sử dụng ACM đại trà. Những sản phẩm wearable (mang trong người) của Apple kể cả smart watch (đồng hồ thông minh) hay Iphone đã dùng một tỷ lệ khá cao các fiber composite trong suốt.
Đầu năm nay, BMW cho xuất xưởng 40,000 mẫu xe i3 là chiếc ô tô đầu tiên hoàn toàn làm bằng carbon-fiber thay vì nhôm hay thép. Trọng lượng chiếc xe chỉ bằng ½ cân nặng của ô tô làm bằng nhôm và thép nên xe có thể đạt 60 mpg (miles per gallon xăng) trong thành phố. Đây là vật liệu bền bỉ và rắn chắc dùng cho các thân máy bay phản lực hay phi thuyền không gian.
Ngoài ra, tiềm năng lớn nhất cho ACM là ứng dụng trong vật liệu (nanotubes) để sản xuất các linh kiện từ 3D printing. Nhu cầu khủng cho mọi phụ tùng của người tiêu dùng từ nội thất bếp núc đến trang thiết bị tại hãng xưởng và văn phòng là một danh từ người Mỹ mô tả như mind-bogging (nổ tung đầu óc). Một ước tính giá trị tài chánh cho kỹ nghệ vật liệu làm thành ACM có thể lên đến 10 ngàn tỷ đô la trong 20 năm tới.
&&&&&
Tóm lại, lực chuyển về năng lượng và khoáng sản sẽ thay đổi kinh tế tài chánh toàn cầu trong 5 lĩnh vực sau:
-          Địa chính trị: Bản đồ thế giới sẽ sắp xếp lại về thứ tự quan trọng theo khu vực đem lại lợi thế kinh tế cho số đông người giàu. Những quốc gia không còn tài nguyên thiên nhiên cần thiết (hay không có) sẽ đứng ngoài lề cuộc chơi; trừ khi đóng góp được vào khả năng sáng tạo nhờ trí tuệ.
-          Giá và quy trình sản xuất công nghiệp: Với giá năng lượng rẻ dần và số lượng robots gia tăng  mạnh, nhân công rẻ không còn là một lợi thế cạnh tranh cho những quốc gia mới nổi lấy xuất khẩu làm nguồn thu nhập chính. Trừ khi chịu làm bãi rác cho các công nghệ ô nhiễm, những quốc gia này phải có những đóng góp đặc thù về hiệu năng nhân viên hay cơ chế bền vững hay thị trường hấp dẫn.
-          Khoáng sản hiếm và đắt đỏ hơn: Nhiều vùng tại châu Phi đang bị Trung Quốc thuộc địa hóa để khai thác khoáng sản và các tài nguyên thiên nhiên mẫu quốc đang cần. Tuy nhiên, khi giá lên quá cao, Âu Mỹ sẽ nhẩy vào tranh dành và sẽ tạo một chiến tranh thương mại gây cấn tại đây và nhiều vùng tương tự khác tại Nga hay châu Á.
-          Tiềm năng lớn của kỹ nghệ vật liệu nhân tạo mới: Giá thành ACM sẽ giảm theo số lượng sản xuất và nhiều doanh nghiệp hàng đầu thế giới sẽ đến từ địa bàn hoạt động này. Cơ hội tràn khắp cho những nền kinh tế biết lợi dụng thời điểm và đầu tư những chất xám cần thiết.
-          Khoảng cách trí tuệ sẽ định đoạt sự giàu nghèo: Một nền kinh tế trí thức cần sự lãnh đạo thông minh có tầm nhìn dài hạn và ý chí phát triển một hệ thống giáo dục thông tin cởi mở, tự lập và sáng tạo. Giáo điều và cơ chế phong kiến sẽ tiếp tục đẩy nhiều quốc gia xuống cấp bực nghèo hèn không lối thoát.
Một tin vui là dù bơi trong vũng lầy xã hội của tư duy mục nát, các bạn “trẻ” vẫn có thể tạo cho doanh nghiệp hay cá nhân mình một hướng đi thích hợp với kỹ năng, đam mê và mục tiêu. Sự liên thông của kinh tế vùng và toàn cầu cho phép chúng ta vượt qua những rào cản tưởng là bất khả thi, nhưng hoàn toàn có thể gỡ bỏ theo ý chí và kiên nhẫn. Hãy suy nghĩ sáng tạo, ngoài cái hộp (out of the box) và giải pháp luôn luôn tồn tại theo tấm gương của những người đi trước.
Chỉ cần nói “KHÔNG” với lười biếng, xu thời và ỷ lại. Đứng thẳng trên đôi chân của mình.
Alan Phan