Các thế lưỡng nan trong kinh tế và phát triển ở Việt Nam 
Tác giả: Lê Vĩnh Triển

Tác giả tiếp cận các vấn đề của Việt Nam bằng cách phân tích các mâu  thuẫn hay những thế lưỡng nan mà chính quyền Việt Nam phải đối phó trong  quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế đất nước. Cách thức chính quyền  đối phó với các thế lưỡng nan lại dẫn chính quyền vào những thế lưỡng  nan mới – lưỡng nan trong giải quyết các thế lưỡng nan hay mâu thuẫn  trong giải quyết các mâu thuẫn. Điều đó cho thấy hoặc chính quyền chưa  nhận ra các mâu thuẫn để có giải pháp phù hợp, hoặc nhận ra nhưng chưa  thành công trong việc giải quyết các mâu thuẫn. Phần cuối bài là một vài  gợi ý giải quyết vấn đề.

Lưỡng nan tổng quát giữa tăng trưởng kinh tế và tham nhũng: Tăng trưởng kinh tế để tăng uy tín, củng cố chính danh nhưng tham nhũng  phát sinh lại làm sụt giảm uy tín và hủy hoại tính chính danh của chính  quyền.
Để duy trì quyền lực lãnh đạo khả dĩ được chấp nhận một cách chắc  chắn, chính quyền Việt Nam đã nhận thấy từ sau Đổi mới – 1986, tăng  trưởng kinh tế có ý nghĩa quyết định. “Tăng trưởng” luôn là mục tiêu của  hết đời tổng bí thư, thủ tướng này đến đời tổng bí thư, thủ tướng khác.  Điều đó cũng hợp lý vì theo kinh nghiệm của các nền kinh tế đi trước,  đặc biệt là các nước như Hàn Quốc, Đài Loan và gần đây hơn là Trung  Quốc, tăng trưởng cao và liên tục luôn là mục tiêu kinh tế được cho là  sẽ đưa đất nước vượt lên từ thu nhập thấp sang công nghiệp và hiện đại  phát triển. Từ đó, các giải pháp duy trì tăng trưởng kinh tế, có thể nói  là bằng mọi giá, luôn được áp dụng. Tuy nhiên, chính sách tăng trưởng  cao và liên tục dẫn đến sự trả giá ít nhất về hai mặt. Đó là tài nguyên  cạn kiệt – môi trường bị hủy hoại, và tham nhũng không thể kiểm soát  được. Xem xét các giải pháp để đạt mục tiêu tăng trưởng nêu trên, chúng  tôi đặc biệt quan tâm đến hệ lụy tham nhũng trong hoàn cảnh thể chế Việt  Nam. Chính tham nhũng nảy sinh từ tăng trưởng làm sụt giảm tính chính  danh và uy tín của chính quyền. Chúng tôi cho rằng đó chính là mâu thuẫn  hay thế lưỡng nan tổng quát giữa tăng trưởng kinh tế và tham nhũng  trong kinh tế và phát triển ở Việt Nam. Cụ thể là, không thể không tăng  trưởng để tăng uy tín, duy trì tính chính danh của đảng lãnh đạo, nhưng  tăng trưởng thì phát sinh tham nhũng làm mất uy tín và xói mòn tính  chính danh của đảng lãnh đạo.
Sau đây, chúng tôi sẽ trình bày một số các chính sách tăng trưởng  kinh tế của nhà nước, nhằm gia tăng uy tín, củng cố tính chính danh  nhưng lại gây ra tham nhũng, mà chúng tôi cho rằng nó làm xói mòn tính  chính danh của nhà nước và đảng cầm quyền. Cụ thể, trong tăng trưởng  kinh tế, chúng tôi đề cập lần lượt các chính sách cổ phần hóa Doanh  nghiệp nhà nước (CPH-DNNN), thu hút vốn đầu tư nước ngoài FDI, khai thác  tài nguyên khoáng sản quốc gia, và đầu tư công bằng nguồn ngân sách nhà  nước đồng thời trình bày “đứa con” tham nhũng bất trị của các chính  sách này.
Thứ nhất, chính sách Cổ phần hóa DNNN: lưỡng nan tăng trưởng – tham nhũng:
Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhà nước phải liên tục tạo nguồn thu  cho đầu tư, nhằm tạo công ăn việc làm, gia tăng tổng sản lượng. Các  chính sách như Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước vừa tăng nguồn thu cho  ngân sách để tái đầu tư, vừa thúc đẩy hiệu quả của chính các DNNN để các  doanh nghiệp này tác động tích cực vào tăng trưởng và phát triển kinh  tế. Vì thế, CPH luôn được xác định là giải pháp nâng cao hiệu quả của  DNNN và tạo nguồn cho tăng trưởng. Giải pháp một công đôi việc này tăng  cường tính chính danh, vãn hồi uy tín của chính quyền vì sự yếu kém  triền miên của DNNN đã làm xói mòn lòng tin của dân đối với chính quyền  trong quản lý kinh tế, trong khi sự thiếu ngân sách đầu tư làm nhà nước  bị động trong việc thực hiện các mục tiêu tăng trưởng.
Tuy nhiên, chính quá trình CPH-DNNN bản thân nó lại là mảnh đất màu  mỡ cho tham nhũng. Việc định giá thấp DNNN để bán cổ phần ra công chúng,  nhưng thường tạo điều kiện cho “tay trong” mua lại trong điều kiện  không minh bạch kéo dài nhiều năm đã biến nhiều tài sản công thành tài  sản của các quan chức tham gia cổ phần hóa. Các công ty sân sau được  thành lập nhằm hợp thức hóa việc bán rẻ tài sản nhà nước từ các DNNN  chuẩn bị CPH và mua đắt tài sản từ các doanh nghiệp sân sau, là phổ  biến. Việc chuyển đổi quyền sử dụng đất đai của nhà nước trong các DNNN  chuyển sang cổ phần là mồi ngon cho tư nhân- thân hữu các quan chức…Vì  vậy, một mặt CPH làm cho một số các DNNN hay từng là DNNN năng động và  hiệu quả hơn, tạo vốn cho ngân sách đầu tư của nhà nước góp phần vào  tăng trưởng kinh tế và vì thế làm tăng uy tín, củng cố tính chính danh.  Mặt khác, tham nhũng và sự giàu lên bất chính của các quan chức nhà nước  và thân hữu lại khoét sâu sự oán thán của người dân, làm nhà nước mất  uy tín và đảng cầm quyền suy yếu tính chính danh. Đây là mâu thuẫn hay  thế lưỡng nan thứ nhất của tăng trưởng và tham nhũng.
Thứ hai, chính sách khai thác tài nguyên thiên nhiên: lưỡng nan tăng trưởng kinh tế – tham nhũng và tàn phá môi trường
Tăng trưởng dựa trên khai thác tài nguyên thiên nhiên có sẵn có thể  nói là biện pháp ít phức tạp, dễ hình dung nhất, nhưng đó là nơi giao  thoa rõ nhất của tham nhũng và tàn phá môi trường. Việc khai thác không  hiệu quả dẫn đến thua lỗ triền miên của các dự án khai thác tài nguyên,  làm thất thoát thu ngân sách nhà nước nặng nề, dù đã được cảnh báo nhưng  vẫn tiếp tục diễn ra. Từ các mỏ khai thác than đá, đến các nhà máy lọc  dầu, từ các dự án boxit ở Tây nguyên, đến dự án khai thác khoáng sản lớn  nhất nước như dự án Núi Pháo, các sai phạm được thấy ở tất cả các khía  cạnh, từ khai thác bán không khai báo, kỹ thuật khai thác lạc hậu làm  thất thoát tài nguyên đến việc xử lý các vấn đề về môi trường, đền bù di  dời dân cư. Cấp phép khai thác tràn lan nhưng thiếu quy hoạch và minh  bạch trong quản lý là hai vấn đề song hành ngày càng nghiêm trọng. Mặt  khác, sự độc quyền khai thác tài nguyên khoáng sản của các DNNN tuy với  danh nghĩa là bảo vệ tài nguyên nhưng thực chất lại vượt ngoài kiểm soát  của luật pháp, khai thác cạn kiệt tài nguyên, thiếu hiệu quả và tham  nhũng tràn lan. Tham nhũng được nói dưới dạng thất thoát trong công  nghiệp khai thác tài nguyên khoáng sản luôn thể hiện với đơn vị ngàn tỷ  đồng. Đó là chưa tính đến hậu quả của sự cạn kiệt tài nguyên, kể cả tài  nguyên rừng và ô nhiễm môi trường nặng nề từ các dự án, vốn đã rõ ràng  nhưng không cho thấy được kiểm soát.
Chính sách tăng trưởng nhằm tạo nguồn thu từ việc bán tài nguyên đã  thể hiện sự thiệt hại đối với chính quyền (xói mòn uy tín) lớn hơn rất  nhiều so với cái được (lòng tin của dân vào chính quyền qua tăng trưởng,  tạo việc làm)! Điều đó cho thấy chính quyền ở vào thế lưỡng nan giữa  một bên là tăng trưởng bằng việc khai thác tài nguyên và bên kia là hậu  quả môi trường bị hủy hoại và tham nhũng từ các đại dự án khai thác. Vấn  đề chiến lược đặt ra là hậu quả của các dự án này về dài hạn, sự cạn  kiệt tài nguyên và không thể hồi phục về môi trường có thể được xem như  những khoản “ghi nợ” vào tương lại đối với uy tín và tính chính danh của  chính quyền. Việc xử lý dứt khoát, minh bạch sớm có thể giúp chính  quyền cứu vớt ít nhiều uy tín của mình với chi phí thấp hơn nhiều so với  các biện pháp thiếu dứt khoát và không minh bạch.
Thứ ba, chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI: lưỡng nan tăng trưởng kinh tế – tàn phá môi trường. Đây  là thế lưỡng nan giữa mặt tích cực là tăng trưởng kinh tế và mặt trái  là việc lệ thuộc vào đầu tư nước ngoài trong phát triển kinh tế và môi  trường bị tàn phá. FDI trong 30 năm qua đã chứng tỏ là một trụ cột cung  cấp vốn để đầu tư và tăng trưởng. Đầu tư từ nước ngoài liên tục tăng  trong hơn 10 năm gần đây, đóng góp quan trọng trong việc tăng thu ngân  sách nhà nước qua nghĩa vụ thuế, tạo việc làm, cải thiện cân cân xuất  nhập khẩu, tăng chất lượng công nghệ và quản lý doanh nghiệp. Từ đó, FDI  được cho là động lực lớn đối với tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, do  nhiều nước chưa tôn trọng các tiêu chuẩn về môi trường cùng với sự dễ  dãi của chính quyền các cấp trong việc gọi vốn đầu tư bằng mọi giá,  ngoài vấn đề hiệu quả đầu tư từ FDI thấp hơn so với các nước, khả năng  lan tỏa về công nghệ và quản lý doanh nghiệp từ doanh nghiệp FDI là rất  thấp, không như kỳ vọng thì việc tàn phá môi trường của các dự án đầu tư  FDI khoét sâu mặt tiêu cực của nó. Điều này đặt chính quyền vào thế  lưỡng nan của tăng trưởng- do FDI mang lại – và vấn đề môi trường. Câu  hỏi “chọn thép hay chọn cá?” của đại diện một nhà đầu tư nước ngoài lớn  thể hiện cụ thể lưỡng nan này.
Thứ tư, đầu tư công và thế lưỡng nan tăng trưởng kinh tế – tham nhũng:
Các chính sách kinh tế nêu trên đều được thi hành nhằm hướng tới tăng  trưởng kinh tế mà về cơ bản là tạo nguồn thu cho ngân sách để từ đó đầu  tư tăng trưởng. Đầu tư công lại là giải pháp trực tiếp chi ngân sách để  tạo tăng trưởng. Tuy nhiên, tham nhũng trong đầu tư công là vấn đề đau  đầu của chính quyền Việt Nam vì có thể nói nó như người anh em sinh đôi  của chính đầu tư công tại Việt Nam. Tham nhũng xảy ra trong mọi khâu của  một dự án đầu tư công, từ khâu lập hồ sơ dự án, quy hoạch, đến phê  duyệt thẩm định. Thất thoát diễn ra ngay từ cả nhiều chủ trương đầu tư,  thiết kế, đền bù giải phóng mặt bằng, triển khai điều hành quy hoạch  hàng năm, đến lựa chọn nhà đầu tư và thực hiện thi công.
Vì thế, tuy đầu tư công Việt Nam chiếm tỷ trọng lớn trong GDP nhưng  hiệu quả được đánh giá là rất thấp so với các nước, nghĩa là Việt Nam  phải đầu tư nhiều USD hơn các nước để có 1 USD đóng góp vào GDP. Tham  nhũng được cho kéo tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thì tham nhũng  trong đầu tư công có thể nói là minh chứng rõ ràng nhất. Rõ ràng, đối  với đầu tư công, nhà nước không thể không thực hiện cho mục tiêu tăng  trưởng kinh tế, nhưng tham nhũng trầm trọng trong đầu tư công đã đặt nhà  nước vào thế lưỡng nan của việc củng cố uy tín và tính chính danh của  mình.



Sơ kết: Việc thực thi các chính sách nêu trên nhằm  tăng trưởng kinh tế để duy trì uy tín chính trị và tính chính danh cho  chính quyền lại đồng thời làm phát sinh tham nhũng và vấn đề môi trường.  Hai hệ lụy này lại triệt tiêu nỗ lực duy trì uy tín và tính chính danh.  Vì vậy, chống tham nhũng và hạn chế ảnh hưởng của hệ lụy môi trường đến  chất lượng tăng trưởng là điều chính quyền phải đương đầu. Trong khi  vấn đề môi trường dường như chưa được quan tâm đúng mức thì đối với tham  nhũng, chính quyền Việt Nam đang tỏ ra rất dứt khoát và mạnh mẽ.
Chúng tôi không cho rằng vấn đề môi trường ảnh hưởng đến uy tín và  tính chính danh của chính quyền cộng sản ít hơn tham nhũng. Những hậu  quả của bùn bô xit, cá chết hàng loạt do các nhà máy thép, sự kiện  Formosa, nạn phá rừng, buôn lậu gỗ tràn lan góp phần gây lũ lụt đã cho  thấy sự phẫn nộ của công chúng; đảng Cộng sản cũng nhận ra điều đó, cũng  như nhận ra rằng đó chính là hệ quả của chính sách tăng trưởng kinh tế  thiếu kiểm soát, không minh bạch. Tuy nhiên, do khuôn khổ của bài báo,  tác giả tạm thời dành sự quan tâm đối với một số mâu thuẫn hay thế lưỡng  nan mà chính quyền phải đối phó khi chống tham nhũng. Vấn đê môi trường  sẽ được đề cập trong bài khác.
Chống tham nhũng và những mâu thuẫn hay lưỡng nan phát sinh trong việc chống tham nhũng
Để tiếp tục tăng trưởng kinh tế đồng thời cứu vãn uy tín và tính  chính danh do hệ lụy tham nhũng gây ra, chính quyền Việt Nam xác định  tham nhũng là giặc nội xâm và thậm chí đe dọa sự tồn vong của đảng lãnh  đạo. Vì vậy, chính quyền đã tỏ ra quyết tâm chống tham nhũng. Tuy nhiên,  tác giả cho rằng chính quyền vừa chống tham nhũng vừa phải đối phó với  các thế lưỡng nan trong chính quá trình chống tham nhũng của mình, và  mức độ thành công của việc chống tham nhũng tùy thuộc vào cách chính  quyền xử lý các lưỡng nan hay mâu thuẫn nội tại này.
Thế lưỡng nan về thông tin (minh bạch và chống tham nhũng)
Để chống tham nhũng, thất thoát nảy sinh trong việc thực hiện các  giải pháp tăng trưởng kinh tế như CPH- DNNN, đầu tư công hay khai thác  tài nguyên, việc tôn trọng các nguyên tắc minh bạch, đòi hỏi giải trình  và quy trách nhiệm đối với các quan chức quản lý nhà nước, quản lý kinh  tế liên quan có ý nghĩa quyết định. Bên cạnh đó việc nới lỏng kiểm soát  truyền thông báo chí, và khuyến khích và bảo vệ người dân tham gia chống  tham nhũng sẽ hỗ trợ hữu hiệu chính quyền trong công cuộc chống tham  nhũng, đồng thời gia tăng uy tín và sự chính danh của chính quyền vì sự  gắn kết với người dân cho mục tiêu chung. Tuy nhiên, khi các thông tin  về thất thoát, về tham nhũng, về sự giàu lên bất thường của qua nhiều  quan chức được phơi bày, sự ta thán, phẫn nộ của dân chúng một mặt thúc  đẩy chính quyền quyết tâm chống tham nhũng nhằm làm hài lòng dân chúng,  mặt khác làm chính quyền lo ngại sự phẫn nộ đi quá xa với quy mô có thể  vượt tầm kiểm soát của họ.
Mặt khác, về mặt kinh tế – như tác giả đã phân tích trong bài “Thế lưỡng nan của Việt Nam trong quá trình tư nhân hóa”,  khi kinh tế phát triển, lợi ích kinh tế tăng lên cho cả khu vực nhà  nước và tư nhân, đặc biệt qua CPH-DNNN và qua việc tạo điều kiện cho  kinh tế tư nhân phát triển. Khi đó có sự gia tăng đòi hỏi các quyền lợi  dân sự từ khu vực tư nhân do quyền lực nhà nước giảm tương đối trong mối  quan hệ với người dân. Quyền của người dân gia tăng trong bối cảnh  thông tin được cởi mở, vốn đã phơi bày những thất thoát và tham nhũng,  sẽ càng làm trầm trọng hơn sự lo ngại nêu trên của chính quyền đối với  sự phẫn nộ của công chúng. Chính quyền từ chỗ chấp nhận minh bạch, tự do  thông tin, khuyến khích báo chí và dân chúng tham gia chống tham nhũng  mau chóng chuyển sang hạn chế thông tin, kiểm duyệt báo chí chặt chẽ  hơn. Các nguyên tắc minh bạch, giải trình sẽ bị hạn chế, tòa án thiếu  độc lập và báo chí bị kiểm soát sẽ làm hiệu quả chống tham nhũng bị giảm  sút, triệt tiêu.
Vậy trong việc chống tham nhũng, nếu mở rộng thông tin, tăng cường  minh bạch, sự phẫn nộ của dân chúng về tham nhũng có thể vượt ngoài kiểm  soát của chính quyền. Từ đó dẫn đến việc kiểm soát thông tin, báo chí,  hạn chế minh bạch mà kết quả là hy sinh ít nhiều hiệu quả của việc chống  tham nhũng.
Thế lưỡng nan về thực thi công lực: gia tăng sức mạnh trấn áp và chống tham nhũng    
Vì lo sợ – hay nhằm ngăn ngừa khả năng xảy ra bạo động chống lại  chính quyền khi sự phẫn nộ của công chúng và thông tin về tham nhũng,  môi trường trong dân tăng cao, trong hoàn cảnh quyền lực của nhà nước bị  yếu đi tương đối khi so với người dân như đã phân tích thì ngoài việc  hạn chế truyền thông, kiểm soát chặt chẽ báo chí, hạn chế việc thực thi  các nguyên tắc pháp quyền minh bạch, giải trình và chịu trách nhiệm cũng  như hạn chế sự độc lập của tư pháp, chính quyền còn tăng quy mô sử dụng  các công cụ trấn áp, tăng sức mạnh của bộ máy công an, an ninh để ngăn  chặn và triệt tiêu nguy cơ bạo động. Tuy nhiên, mâu thuẫn hay thế lưỡng  nan mới xảy ra. Sự gia tăng các biện pháp trấn áp đồng nghĩa với việc  vừa tăng chi ngân sách và quyền lực cho an ninh và công an và điều này  lại gây ra tham nhũng. Tham nhũng trong khu vực này càng khó kiểm soát  khi nó còn gắn liền với tham nhũng quyền lực.
Như vậy, một mặt chính quyền chống tham nhũng, nhưng mặt khác chính  quyền sử dụng chính sách hai gọng kiềm là kiểm soát thông tin và tăng  cường trấn áp, mà gọng kiềm thứ nhất thì hạn chế khả năng chống tham  nhũng của chính quyền, trong khi gọng kiềm thứ hai gây ra tham nhũng  mới. Đây chính là thế lưỡng nan mà chính quyền cần giải quyết để việc  chống tham nhũng có thể có những kết quả nhất định nhằm phát huy hiệu  quả của các chính sách tăng trưởng kinh tế.
Kết luận: Để duy trì tính chính danh, củng cố uy tín  cho đảng lãnh đạo, chính quyền phải thực hiện nhiều giải pháp tăng  trưởng kinh tế, các giải pháp lại làm phát sinh tham nhũng và làm tồi tệ  hơn vấn đề môi trường. Các hệ lụy này lại làm mất uy tín và suy giảm  tính chính danh của chính quyền.
Chính quyền vì thế phải chống tham nhũng. Để chống tham nhũng, chính  quyền phải tăng cường minh bạch, công khai, tăng yêu cầu chịu trách  nhiệm của các quan chức, nới lỏng kiểm soát báo chí và tôn trọng hơn  tiếng nói của người dân cũng như sự độc lập của tòa án. Các giải pháp về  thông tin này tạo điều kiện nhiều hơn cho công chúng thể hiện tiếng nói  của họ về sự trầm trọng của tham nhũng cũng như về cách thức chống tham  nhũng của chính quyền. Thay vì nên tiếp tục theo cách thức tích cực này  để gia tăng việc thực hiện các nguyên tắc pháp quyền, chính quyền lựa  chọn giải pháp vừa chống tham nhũng vừa kiểm soát và hạn chế truyền  thông báo chí nhằm hạn chế thông tin. Đồng thời với việc này là sự trao  quyền nhiều hơn cho các công cụ trấn áp nhằm dập tắt những bất mãn, phản  kháng của người dân. Cả việc kiểm soát thông tin, hạn chế thông tin  tiêu cực, hạn chế phê phán và việc đầu tư gia tăng cho các công cụ trấn  áp lại khiến tham nhũng gia tăng. Đó chính là vòng luẩn quẩn trong công  cuộc chống tham nhũng ở Việt Nam. Nếu chính quyền không tìm cách thoát  ra khỏi cái vòng luẩn quẩn này, việc chống tham nhũng sẽ không thể thành  công và chất lượng tăng trưởng kinh tế sẽ tiếp tục bị ảnh hưởng nghiệm  trọng, thậm chí sự tăng trưởng sẽ bị chính tham nhũng tàn phá. Điều xấu  hơn có thể xảy ra là việc chính quyền ngày càng lệ thuộc vào chính công  cụ trấn áp của chính mình mà tham nhũng phát sinh ngay trong chính công  cụ đó!
TS Lê Vĩnh Triển hiện đang công tác tại Khoa Quản lý Nhà nước – Trường Đại học Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh.

Thế lưỡng nan của Việt Nam trong quá trình tư nhân hóa



Tác giả: Lê Vĩnh Triển & Kris Hartley
Suy giảm tăng trưởng vì sự thất bại của doanh nghiệp nhà nước là mối đe dọa đối với ổn định chính trị.
Chính quyền Việt Nam đã trung thành với đường lối cải cách kể từ Đổi  mới năm 1986, tiến hành nhiều giải pháp để thúc đẩy tăng trưởng sau một  thập niên hậu chiến thất bại với chính sách kế hoạch hóa. Việc tự do hóa  thị trường, giảm các rào cản mậu dịch, loại bỏ các chương trình phân bổ  cứng nhắc và thúc đẩy các doanh nghiệp tư nhân trong các ngành nghề đã  vực dậy nền kinh tế Việt Nam, giải phóng các tiềm năng sản xuất trong  khu vực tư nhân. Do quy mô cải cách lớn, Việt Nam đã phải tiếp cận theo  hướng từng bước, mà tư nhân hóa các doanh nghiệp  nhà nước (DNNN) là một  ví dụ cho những cải cách ở giai đoạn sau. Tuy nhiên, trong nỗ lực này,  chính quyền Việt Nam gặp phải hai thế tiến thoái lưỡng nan liên quan đến  cân bằng quyền lực chính trị. Đó là sự đánh đổi trong phân phối vật  chất; và sự đánh đổi giữa tăng cường quản trị công ty và vị thế chính  trị. Trong cả hai trường hợp, chính quyền phải chấp nhận lựa chọn giữa  các kết quả không như ý, mà lựa chọn nào cũng có thể làm suy yếu sự ổn  định chính trị.
Tiến thoái lưỡng nan 1: Phân phối lợi ích từ tư nhân hóa
Có hai yếu tố liên quan nhau phải được xem xét trong tiến trình tư  nhân hóa. Thứ nhất, phải có cơ chế cho việc mua bán quyền sở hữu. Ví dụ,  cần có một hệ thống công bằng phân phối cổ phần các công ty nhà nước  được tư nhân hóa thông qua thị trường cạnh tranh, chào bán chứng khoán  lần đầu ra công chúng với giá cả được quyết định bởi lòng tin của nhà  đầu tư. Cách này đòi hỏi những điều kiện ban đầu. Bước đầu là phải có  một thị trường chứng khoán nội địa đáng tin cậy, bình đẳng tiếp cận và  không chịu các can thiệp mang tính chính trị. Thứ đến, cần một hệ thống  quản trị công ty minh bạch cung cấp thông tin tài chính liên quan cho  nhà đầu tư. Sau cùng, công chúng đầu tư phải sẳn sàng chấp nhận rủi ro.  Nếu không có một thị trường mang tính cạnh tranh và hiệu quả, giá cổ  phiếu các DNNN được tư nhân hóa có thể bị thao túng méo mó vì sự can  thiệp mua bán của nhà nước.
Không có một thị trường như vậy, các chính quyền đối mặt với hai chọn lựa. Trong một nghiên cứu từ 2003,  hai nhà nghiên cứu Elise Brezis và Adi Schnytzer đã xem xét mối quan hệ  giữa sự sụp đổ của các chế độ cộng sản và cải cách kinh tế. Các tác giả  cho rằng tư nhân hóa có thể xảy ra theo hai cách: “biển thủ cho một  ngày mưa” (được thực hiện ở các nước Đông Âu hậu Xô Viết) và “Chủ nghĩa  thị trường Lê-nin-nít” (kiểu Việt Nam và Trung Quốc). Trong cách thứ  nhất, việc tư nhân hóa/cổ phần hóa một cách gian dối giúp đảm bảo các  quan chức chính quyền và những người thân của họ giành đặc quyền nắm giữ  cổ phiếu. Theo cách thứ hai, cấu trúc DNNN được duy trì cùng lúc với  việc cho phép khu vực tư nhân cạnh tranh trực tiếp mà không chịu các rào  cản gia nhập thị trường. Các tác giả lập luận rằng cách tư nhân hóa  gian lận biển thủ, được thực hiện ở những quốc gia chuyển đổi yếu như ở  Đông Âu, giúp các quan chức và thân hữu duy trì những nguồn lực để đối  phó với bất ổn xã hội và rối loạn chính trị. Ngược lại, ở các nước vốn  đã thiết lập được một hệ thống trấn áp hiệu quả trước đó, thì việc một  xã hội dân sự giàu có hơn cũng không phải là mối đe dọa đáng kể.
Brezis và Schnytzer cho rằng Việt Nam đã chọn cách tiếp cận “thị  trường định hướng xã hội chủ nghĩa” vì chính quyền có đủ các nguồn lực  để quản lý bất ổn chính trị. Việt Nam trước đây nhận viện trợ từ Liên Xô  cũ, rồi sau đó có những cải cách kinh tế bổ sung vào đầu những năm 1990  sau khi viện trợ chấm dứt. Vì vậy, về lý thuyết, nếu Việt Nam hành xử  như một quốc gia có hệ thống trấn áp mạnh thì (câu hỏi là) việc tiếp tục  nhận tài trợ từ bên ngoài hay việc tư nhân hóa dựa trên thị trường sẽ  cung cấp nguồn lực cho hệ thống trấn áp? Câu trả lời nằm ở việc hiểu  nguồn lực thu được từ tư nhân hóa được phân phối như thế nào. Khi mà  phần lợi từ tư nhân hóa cho dân chúng tăng lên, quyền mặc cả chính trị  của họ sẽ mạnh hơn, đồng nghĩa với sự yếu đi tương đối của khả năng trấn  áp của nhà nước. Do phần lợi ích từ tư nhân hóa của khu vực dân sự ở  Việt Nam có thể tiếp tục gia tăng, chính quyền đối mặt với một tình  trạng tiến thoái lưỡng nan. Đó là sự lựa chọn giữa mở rộng phân phối lợi  ích kinh tế bởi việc tư nhân hóa dựa trên các nguyên tắc thị trường  cạnh tranh, hay duy trì ổn định chính trị bằng việc hạn chế cơ hội đầu  tư của công chúng vào các DNNN.

Tiến thoái lưỡng nan 2: Tư nhân hóa và quản trị công ty

Khi DNNN tư nhân hóa, hoạt động tài chính và quản lý được giám sát  chặt chẽ hơn. Quá trình này quan trọng với sự tăng trưởng kinh tế bởi vì  nó tăng cường mức độ trách nhiệm giải trình cũng như tạo nên những động  lực để tăng tính hiệu quả. Tư nhân hóa DNNN và tái cơ cấu quyền sở hữu  khi song hành với một cơ chế kiểm soát công ty hiệu quả có thể là một  chất xúc tác mạnh mẽ để thúc đẩy tăng trưởng ở các nền kinh tế chuyển  đổi. Tuy vậy, đối với các DNNN được tư nhân nhưng nhà nước vẫn tham gia  vào cơ cấu sở hữu hoặc quản lý, thì quản trị công ty với tư cách là một  cơ chế giám sát có khuynh hướng “bất tiện” là làm phơi bày những hoạt  động không hiệu quả hoặc không có lợi cho phát triển, bao gồm cả các  hoạt động giúp làm lợi chủ yếu cho các thành phần nội gián bên trong.  Điều này làm dậy lên nỗi lo ngại về phản ứng dân túy và sự bất ổn chính  trị, vốn là những trào lưu đang lên trên thế giới.
Mặt khác, một hệ thống giám sát doanh nghiệp hiệu quả sẽ tăng cường  xã hội dân sự cũng như cơ chế thị trường đánh giá các DNNN được tư nhân  hóa dựa trên hiệu quả hoạt động và các cách thức tổ chức doanh nghiệp,  giúp chuyển vốn tới các doanh nghiệp có năng suất lao động cao. Sử dụng  các thông tin mà trước cải cách các DNNN không công bố, trách nhiệm giải  trình được cải thiện sẽ giúp khai thông tiềm năng tăng trưởng kinh tế.  Sự lựa chọn giữa mức độ minh bạch và chấp nhận những hệ quả của nó vì  thế lại là lưỡng nan thứ hai của chính quyền.
Thật không may là ở các nền kinh tế chuyển đổi có quá ít bằng chứng  cho thấy các DNNN có hệ thống quản trị công ty hiệu quả. Dù có chính phủ  mong muốn thực hiện những cải cách như vậy, họ cũng quan ngại là không  biết các tiêu chuẩn của các nước phát triển có áp dụng được hay không.  Các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Phát triển Châu Á và OECD đã thiết lập  các chương trình để trợ giúp chính phủ ở các nước chuyển đổi trong nỗ  lực này. Dù cách thức quản trị công ty ở các nước phát triển có thể được  áp dụng rộng rãi, nhưng điều quan trọng là chính quyền Việt Nam cần bổ  sung cho các sáng kiến tư nhân hóa của mình một cam kết tuân thủ các  tiêu chuẩn minh bạch của thế giới đối với DNNN.

Kết luận

Năm 2015, Việt Nam đã chào bán 3,47 phần trăm cổ phần của Tổng Công  ty Cảng hàng không Việt Nam ra công chúng, trong đó 80 phần trăm cho các  nhà đầu tư nước ngoài. Trên góc nhìn địa chính trị, vốn đầu tư từ bên  ngoài có thể giúp đẩy nhanh tư nhân hóa qua việc gia tăng sự tương thuộc  kinh tế và cung cấp những khoản tài trợ mang tính trung lập về chính  trị. Nhà đầu tư nước ngoài đòi hỏi “quản trị tốt” và sự minh bạch (trong  quản trị), đặc biệt ở các nền kinh tế chuyển đổi. Tuy nhiên, các trở  ngại đối với công cuộc tư nhân hóa dựa trên thị trường ở Việt Nam không  chỉ có vấn đề quản trị yếu. Nhiều DNNN của Việt Nam ngập trong nợ nần  (39,22 tỷ USD trong năm 2015) và sự kém hiệu quả mang tính cấu trúc.  Việc hiểu thấu đáo những lưỡng nan này liên quan đến sự minh bạch được  cải thiện sẽ giúp chính quyền đánh giá tốt hơn tính bền vững của cải  cách DNNN đồng thời cải thiện tình hình tài chính của chúng.
Không nên xem việc áp dụng quản trị công ty trong các DNNN tư nhân  hóa như sự đánh đổi giữa tăng trưởng kinh tế và ổn định chính trị, mà  nên coi nó như là chất xúc tác cho cả hai. Ngay cả khi chính quyền Việt  Nam có thể ứng phó tốt với các áp lực từ xã hội dân sự, sự suy giảm tăng  trưởng kinh tế do thất bại của DNNN là mối đe dọa cho sự ổn định chính  trị; và mối đe dọa này còn lớn hơn nhiều so với mối đe dọa từ việc gia  tăng mức độ cơ động kinh tế-xã hội nhờ sự minh bạch và các nguyên tắc  thị trường trong quá trình tư nhân hóa.
TS. Lê Vĩnh Triển là Giảng viên Khoa Quản lý Nhà nước, Đại học  Kinh tế TPHCM, Việt Nam; TS. Kris Hartley là Giảng viên Khoa Quy hoạch  Vùng và Thành phố, Đại học Cornell, Hoa Kỳ.
Một phiên bản bài viết đã được đăng trên The Diplomat.